Chương 10

    
ÔI ĐI LÀM, trong đầu chỉ có một ý nghĩ duy nhất. Hôm nay là ngày mng Một tháng Mười hai và trong khi cả nước Mỹ đang phủi bụi tiểu cảnh máng cỏ và giở đống vớ cũ bốc mùi ra, thì tôi lại phải đi hầu một quý ngài khác. Đó chẳng phải ông già Noel, cũng không phải Đức Chúa con. Đó là ngài Johnny Foote, Jr., người sẽ biết tin Minny Jackson chính là người giúp việc của mình vào đúng đêm Giáng sinh.
Tôi nhấp nhổm chờ đến ngày Hai Tư như đợi ngày hầu tòa. Tôi không biết ông Johnny sẽ phản ứng thế nào khi phát hiện ra tôi đang làm việc ở đây. Có lẽ ông ta sẽ nói, Tốt lắm! Chị cứ đến dọn bếp cho nhà tôi nhé, lúc nào cũng được! Đây, xin biếu chị ít tiền!Nhưng tôi cũng chẳng đến nỗi ngu thế. Trò giấu diếm này quá mờ ám, làm sao ông ta có thể là một gã da trắng dễ dãi, hào phóng đòi tăng lương cho tôi ngay được. Khả năng cao là tôi sẽ thành dân thất nghiệp từ Giáng sinh trở đi.
Cảm giác phấp phỏng ấy gặm nhấm tâm can tôi, nhưng có một điều tôi biết, từ một tháng trước, là tôi quyết định phải có cách chết nào khác vinh quang hơn là vỡ tim khi đang ngồi xổm trên bồn cầu trong phòng vệ sinh của một bà chủ da trắng. Và sau rốt, đó cũng chẳng phải ông Johnny về nhà, chỉ là một gã thợ điện chết giẫm.
Nhưng khi chuyện đã qua, tôi cũng chẳng thấy nhẹ lòng hơn là bao. Thứ khiến tôi càng thêm sợ hãi chính là cô Celia. Sau đó, lúc học nấu ăn, cô ta vẫn còn run như giẽ, tới mức không tài nào cầm nổi thìa để đong muối.
Hôm nay đã là thỨ Hai, vậy mà tôi không thể thôi nghĩ đến thằng Robert, cháu bà Louvenia Brown. Nó vừa ra viện cuối tuần trước, bây giờ đang ở nhà Louvenia, bố mẹ nó đều mất lâu rồi. Tối hôm qua, tôi mang một cái bánh caramen sang thăm, thấy tay Robert bó bột, còn mắt bị băng kín. Nhìn cảnh ấy, tôi chỉ còn biết kêu lên, “Ôi, bác Louvenia.” Robert nằm rũ trên ghế sofa ngủ thiêm thiếp. Người ta phải cạo trọc cả nửa đầu nó để làm phẫu thuật. Bao nhiêu chuyện đen đủi đổ lên đầu là thế, nhưng Louvenia vẫn ân cần hỏi thăm từng người nhà tôi. Lúc Robert giật mình, bà ấy nói tôi làm ơn về nhà được không, vì Robert lại choàng dậy với những tiếng thét khiếp đảm. Hãi hùng, và nhớ ra mình đã mù. Bà ấy lo cảnh đó sẽ làm tôi sợ. Tôi không thể thôi nghĩ đến nó.
“Chút nữa tôi sẽ đi chợ,” tôi bảo cô Celia và chìa tờ giấy kê các loại thực phẩm cho cô ta xem. Thứ Hai nào chúng tôi cũng làm thế. Cô ta đưa tôi tiền chợ còn tôi dí hóa đơn vào mặt cô mỗi khi về đến nhà. Tôi muốn cô ta thấy từng xu tiền thừa đều khớp với những gì ghi trên giấy. Cô Celia chỉ nhún vai, nhưng tôi vẫn cất kỹ mọi thứ giấy má trong một cái ngăn kéo, phòng khi về sau có thắc mắc gì.
ny nấu:
1. Chân giò nướng dứa
2. Đậu mắt đen
3. Khoai lang
4. Bánh táo
5. Bánh quy
Cô Celia nấu:
1. Đậu ngự
“Nhưng tuần trước tôi đã nấu đậu ngự rồi còn gì.”
“Cô cứ tập nấu món đó cho thuần thì về sau làm các món khác dễ lắm.”
“Thôi thế cũng tốt,” cô ta nói. “Lúc bóc đỗ tôi có thể ngồi yên một chỗ được.”
Đã gần ba tháng trôi qua, vậy mà cô ả ngố vẫn chưa đun nổi một ấm cà phê. Tôi bỏ khối bột làm bánh ra, định nhồi cho xong trước khi đi chợ.
“Lần này ta làm bánh sô-cô-la đi? Tôi thích bánh sô- cô-la lắm.”
Tôi nghiến răng, đáp dối. “Tôi không biết làm bánh sô-cô-la.”Không bao giờ. Không bao giờ tôi làm nữa, sau những gì với mụ Hilly.
“Thế ư? Ôi chao, tôi cứ nghĩ món nào chị cũng biết nấu kia đấy. Hay ta kiếm công thức rồi làm theo.”
“Cô còn thích loại bánh nào khác không?”
“A, thế còn bánh đào như hôm nọ chị làm thì sao?” Cô ta nói, đoạn rót đầy một cốc sữa. “Cái bánh đấy ngon thật.”
“Đào đấy phải mua từ Mexico về. Ở đây mùa này làm gì đã có đào.”
“Nhưng tôi thấy người ta quảng cáo trên báo mà.”
Tôi thở dài. Với ả ngốc này thì không có thứ gì dễ dạy cả, nhưng ít ra cô ta cũng không đòi làm bánh sô-cô-la nữa. “Cô phải biết là, rau quả ngon nhất lúc chính vụ. Không ai đi nấu bí ngô vào mùa hè, nấu đào vào mùa thu cả. Nếu cô không thấy mấy sạp hàng bên đường có bán, tức là chưa đúng mùa. Thôi, ta làm bánh hồ đào đi, cũng ngon ra phết.”
“A, mà Johnny thích mấy cái kẹo nhân quả hạnh chị làm lắm. Lúc tôi mang kẹo ra, anh ấy khen tôi là cô gái thông minh nhất anh ấy từng biết cơ đấy.”
Tôi quay lại với cục bột để cô ta không nhìn thấy mặt tôi lúc đó. Chỉ trong có một phút mà ả ngốc này đã kịp chọc giận tôi tới hai lần. “Cô còn muốn ông Johnny nghĩ cô làm được gì nữa?” Ngoài chuyện bị hù cho hồn xiêu phách lạc, tôi cũng đã chán phải dâng hết công lao nấu nướng cho kẻ khác lắm rồi. Trừ mấy đứa con ra, điều duy nhất khiến tôi hãnh diện chính là tài nấu ăn.
“Không, thế được rồi.” Cô Celia cười, không nhận thấy tôi đã kéo căng lớp vỏ bánh tới mức nó thủng đến năm chỗ. Chỉ còn hai tư ngày nữa thôi, tôi sẽ thoát ra khỏi mớ hổ lốn này. Tôi thầm cầu khẩn Chúa trời và cả bọn quỷ dữ, đừng để ông Johnny về nhà trước ngày đó.
Ngày nào tôi cũng nghe thấy tiếng cô Celia nói chuyện điện thoại trong phòng, gọi khắp lượt các bà các cô trong hội phụ nữ. Ngày hội Thiện nguyện đã kết thúc từ ba tuần trước, nhưng cô ả đã sốt sắng khởi động cho năm tới. Cô ta và ông Johnny không đi dự buổi lễ, nếu không tôi đã phải nghe kể lể đầy cả hai tai rồi.
Tôi không đi phục vụ cho Ngày hội Thiện nguyện năm nay, lần đầu tiên trong cả chục năm. Tiền công hời lắm, nhưng tôi không dám liều, nhỡ chạm mặt mụ Hilly thì chết.
“Nhờ chị nói giúp là có Celia Foote gọi được không ạ? Mấy hôm trước tôi cũng có để lại lời nhắn...”
Giọng cô Celia ríu rít, cứ như đang kháo chuyện gì trên tivi ấy. Cứ mỗi lần nghe cô ả nói cái kiểu đó, tôi chỉ muốn giật phắt ống nghe khỏi tay cô ta, và bảo cô đừng phí công vô ích nữa. Bề ngoài cô ta trông giống hệt một con đàn bà đĩ thõa, nhưng cái ấy chẳng hề gì. Có một nguyên do quan trọng hơn khiến chẳng ai dám đánh bạn với cô Celia, và tôi đã biết ngay từ giây phút nhìn thấy tấm ảnh ông Johnny. Tôi đã phục vụ quá nhiều bữa ăn trưa cho các hội chơi bài, đủ để biết chuyện của tất cả các bà các cô ở cái thị trấn này. Hồi còn học đại học, ông Johnny đã bỏ cô Hilly để theo cô Celia, và cô Hilly chưa bao giờ quên được ông ta.
TỐI THỨ TƯ, tôi đến nhà thờ. Số người đến chưa được non nửa, vì khi ấy mới là bảy giờ kém mười lăm, phải tới bảy rưỡi dàn đồng ca mới bắt đầu hát. Nhưng cô Aibileen nhắn tôi đi sớm, thế là tôi đi. Không biết cô ấy định nói chuyện gì. Vả lại hôm nay Leroy bỗng nổi hứng muốn chơi với con, tốt thôi, anh ta thích thì tôi chiều.
Tôi nhìn thấy Aibileen đã ngồi ở băng ghế thường ngày, cánh trái, hàng thứ tư từ trên xuống, ngay bên phải chiếc quạt cửa sổ. Hai cô cháu tôi là thành viên chủ chốt nên chỗ ngồi cũng phải ra trò. Tóc cô ấy chải mượt, mấy lọn tóc xoăn tít ôm lấy cổ. Cô ấy mặc một cái váy xanh lơ có hàng cúc trắng to tướng tôi chưa nhìn thấy bao giờ. Aibileen hay nhận được quần áo thải của mấy bà chủ da trắng. Họ thích mang đồ cũ cho cô ấy. Trông cô ấy đầy đặn đáng kính, như mọi khi, nhưng nom đoan trang đứng đắn thế thôi, chứ lắm khi Aibileen kể nhiều chuyện đến là bậy, ai nghe cũng phải cười vãi đái ra quần.
Đang bước dọc lối đi tôi chợt thấy Aibileen cau mày, trán nhăn lại. Trong một giây tôi bỗng nhìn thấy cả mười lăm năm tuổi chen giữa hai cô cháu. Nhưng rồi cô cười, khuôn mặt lại trẻ trung mũm mĩm như trước.
“Lạy Chúa,” tôi kêu lên ngay khi vừa ngồi xuống ghế.
“Ta biết. Ai đó phải nhắc ả một câu mơi được.” Aibileen phe phẩy chiếc khăn mùi soa trước mặt. Hôm nay Kiki Brown nhận trực nhật buổi sáng, y như rằng, cả nhà thờ nồng nặc mùi nước tẩy chanh do chính cô ta pha chế và vẫn rao bán với giá hai mươi lăm xu một chai. Chúng tôi có một bảng đăng ký trực nhật. Như ý tôi ấy, thì Kiki Brown nên bớt làm đi, còn cánh đàn ông nên xung phong nhiều hơn. Trước nay tôi chưa bao giờ thấy một gã đàn ông nào chịu nhận dọn dẹp dù chỉ một lần.
Ngoại trừ mùi nước tẩy kinh tởm, nhà thờ nom sạch sẽ ra dáng lắm. Kiki đã lau các băng ghế bóng lộn lên, đến độ có thể soi vào đó mà xỉa răng cũng được. Cây thông Noel cũng đã được trang hoàng xong, dây kim tuyến giăng đầy cùng một ngôi sao vàng rực rỡ cắm trên đỉnh. Nhà thờ mới chỉ có ba ô cửa sổ được ốp tranh kính - cảnh chúa Giáng sinh, cảnh Lazarus đội mồ sống dậy, và cảnh giáo huấn bọn Pharisee mê muội. Bảy ô cửa sổ còn lại chỉ lắp kính trơn. Chúng tôi vẫn đang quyên thêm tiền cho vụ này.
“Bệnh hen của Benny sao rồi?” Aibileen hỏi.
“Hôm qua nó lại vừa lên cơn. Tí nữa Leroy sẽ đưa nó với mấy đứa kia đến. Mong là mùi chanh này không làm nó chết sặc.”
“Leroy ấy,” Aibileen lắc đầu và cười khanh khách. “Nói với à ta bảo cứ liệu đường mà cư xử. Không thì ta cho nó vào danh sách cầu nguyện đấy.”
“Ôi cô cứ làm tới đi. Chết, giấu thức ăn đi cô.”
Mụ Bertrina Bessemer vênh váo đáo để lạch bạch tiến đến chỗ chúng tôi. Mụ tì người xuống lưng băng ghế ngay phía trước, rồi nhe nhởn cười, đầu đội một cái mũ xanh to tướng sờn rách. Bertrina, chính là kẻ vẫn nhai nhải gọi Aibileen là đồ ngu suốt bao năm qua.
“Minny,” Bertrina bắt chuyện, “nghe tin cháu kiếm được việc mới cô mừng quá.”
“Cám ơn cô, Bertrina.”
“Aibileen, cảm ơn chị đã cho tôi vào danh sách cầu nguyện. Bệnh viêm họng của tôi đỡ nhiều rồi. Cuối tuần này tôi sẽ gọi cho chị, lúc đó ta hàn huyên sau nhé.”
Aibileen cười, gật đầu. Bertrina bèn quay về băng ghế của mình.
“Có lẽ cô nên chọn lọc một tí khi tìm người đưa vào danh sách,” tôi nói.
“Ôi dào, ta có giận ả nữa đâu,” Aibileen gạt đi. “Mà cháu nhìn xem, ả sút cân mới ghê chứ.”
“Cô ta kêu ầm lên với mọi người là mình giảm những hai chục cân cơ đấy,” tôi nói.
“Chúa nhân từ.”
“Chỉ phải giảm một trăm cân nữa thôi là vừa xinh.”
Aibileen cố nén cười, làm bộ đang cố xua đi mùi nước tẩy chanh.
“Thế sao hôm nay cô lại gọi cháu đến sớm?” Tôi hỏi. “Cô nhớ cháu quá à?”
“Ôi, có gì to tát đâu. Chỉ là vài chuyện vớ vẩn ấy mà.”
“Chuyện gì thế ạ?”
Aibileen hít một hơi, rồi nhìn quanh xem có ai nghe lỏm không. Ở đây cô cháu tôi cứ như hoàng thân quốc thích ấy. Lắm người dòm dỏ nấp nom lắm.
“Cháu biết cô Skeeter không?” Cô ấy hỏi.
“Hôm nọ cháu chả bảo cô là cháu có biết rồi còn gì.” Cô ấy hạ giọng, thì thào, “Đấy, cháu còn nhớ có hôm ta lỡ kể cho cô ấy biết chuyện thằng Treelore viết truyện về người da màu không?”
“Cháu nhớ chứ. Cô ta muốn kiện cô vì vụ đấy à?”
“Không, không. Cô ấy tử tế lắm. Nhưng cô ấy dám cả gan hỏi liệu ta và những người giúp việc khác - bạn của ta - có muốn nói ra suy nghĩ của mình khi phục vụ cho người da trắng không. Cô ấy nói muốn viết thành sách.”
“Gì cơ?”
Aibileen gật đầu, lông mày nhướng lên. “Ừm.”
“Xì. Cô cứ bảo với cô ta là công việc nhẹ tênh như đi chơi lễ quốc khánh ấy. Rằng ta chỉ ước được quay lại nhà họ ngay, để chùi dao cọ nĩa cả những ngày cuối tuần nữa mới thỏa lòng,” tôi nói.
“Thì ta cũng bảo cô ấy rồi, cứ để mấy quyển sách sử nói là được rồi. Người da trắng chẳng đã đòi nói thay lời người da màu từ thuở khai thiên lập địa còn gì.”
“Đúng. Cô cứ bảo cô ta thế.”
“Ta nói rồi. Ta còn bảo cô ấy điên quá nữa,” Aibileen nói tiếp. “Ta hỏi cô ấy, nếu bọn ta nói ra sự thật thì sao? Rằng bọn ta sợ đến nỗi không dám đòi mức lương tối thiểu. Rằng không ai được nhận bảo hiểm xã hội. Rằng nếu bị bà chủ sờ gáy thì sẽ ra sao...” Aibileen lắc đầu. Tôi mừng vì cô ấy chưa nói gì.
“Rằng bọn ta yêu lũ trẻ da trắng biết bao khi chúng còn bé...” cô ấy nói, tôi thấy môi Aibileen hơi run lên. “Rồi khi lớn lên, chúng lại giống hệt mẹ chúng.”
Tôi nhìn xuống, thấy Aibileen bấu chặt lấy chiếc túi xách màu đen, như thể đó là vật duy nhất trên đời cô còn sót lại. Aibileen thường chuyển việc khi lũ trẻ đã quá lớn và không còn vô cảm trước màu da nữa. Chúng tôi không bao giờ đả động đến chuyện đó.
“Kể cả nếu cô ấy có đổi tên của tất cả những người giúp việc và bà chủ da trắng,” Aibileen khụt khịt.
“Cô ta điên thật rồi, nếu cứ nghĩ chúng ta sẽ làm một việc nguy hiểm như thế. Vì cô ta.”
“Làm sao bọn ta dám nói ra sự thật.” Aibileen lấy khăn xỉ mũi. “Mọi việc sẽ rối tung lên mất.”
“Đúng,” tôi nói rồi tự dưng im bặt. Vì mấy chữ sự thật. Tôi đã cố nói toạc raho mấy mụ chủ da trắng hay tất tật mọi sự thật về việc phải hầu hạ cung phụng bọn họ kể từ khi tôi mới mười bốn tuổi.
“Ta có muốn thay đổi cái gì đâu cơ chứ,” Aibileen nói, rồi cả hai cô cháu im lặng, nghĩ đến tất cả những thứ chúng tôi không muốn thay đổi. Nhưng rồi Aibileen nheo mắt nhìn tôi và hỏi, “Thế nào. Cháu không nghĩ ý tưởng đó là quá điên rồ sao?”
“Cháu có nghĩ chứ, có điều...” Thế là tôi bắt thóp được ngay. Chúng tôi đã đánh bạn với nhau suốt mười sáu năm ròng, kể từ ngày tôi dọn từ Greenwood sang Jackson, rồi hai cô cháu gặp nhau ở bến xe buýt. Tôi có thể đi guốc trong bụng Aibileen ấy chứ. “Cô đang suy nghĩ chuyện đấy phải không,” tôi nói. “Cô muốn nói chuyện với cô Skeeter chứ gì.”
Cô ấy nhún vai và tôi biết mình đoán đúng. Nhưng Aibileen chưa kịp phân bua gì thì Cha Johnson đã bước đến và ngồi xuống băng ghế phía sau, đoạn nghển cổ lên chen vào giữa hai cô cháu. “Minny, Cha xin lỗi vì chưa có dịp chúc mừng con đã tìm được công việc mới.”
Tôi vuốt phẳng vạt váy. “Vâng, cảm ơn Cha.”
“Chắc con đã được vào danh sách cầu nguyện của Aibileen phải không,” Cha nói, tay vỗ vỗ lên vai Aibileen.
“Còn phải nói. Con cũng bảo Aibileen rồi, kiểu này phải tính phí cầu nguyện mới được.”
Đức Cha cười ồ. Ngài đứng dậy và thong thả bước lên bục giảng kinh. Xung quanh im lặng như tờ. Tôi không thể tin nổi Aibileen lại muốn kể cho cô Skeeter nghe sự thật.
Sự thật.
Mộc cảm giác mát lạnh, như dòng nước gột sạch cả cơ thể nóng nực dấp dính của tôi. Xoa dịu sức nóng đã thiêu đốt tôi suốt bao năm nay.
Sự thật, tôi thầm nhủ trong đầu, chỉ để thấy lại cảm giác ấy,
Cha Johnson giơ hai tay lên và cất cao giọng nói êm ái, sâu lắng. Dàn đồng ca phía sau ngài bắt đầu rì rầm “Nói cùng đức Chúa Jesus”, mọi người bèn đồng loạt đứng dậy. Chỉ trong nửa phút, toàn thân tôi đã đổ mồ hôi đầm đìa.
“Cháu có muốn không? Nói chuyện với cô Skeeter ấy?” Aibileen thẽ thọt.
Tôi quay lại nhìn, thấy Leroy và bọn trẻ con đến muộn, như mọi khi. “Ai, cháu á?” Tôi kêu lên, giọng tôi nổi bật trên nền nhạc êm dịu. Tôi hạ bớt giọng xuống.
“Không đời nào cháu làm một chuyện điên rồ như thế.”
° ° °
ChẲng vì lý do gì ngoài chọc tức tôi, ông trời đổ một đợt nóng về giữa tháng Mười hai. Nhiệt độ chỉ mới bốn độ rưỡi là người tôi đã đổ mồ hôi dầm dề như trà đá dưới trời tháng Tám, thì đây, sáng tinh mơ tôi tỉnh dậy để thấy thang nhiệt kế đã chễm chệ ở vạch hai tám độ ba. Tôi đã mất toi nửa cuộc đời này loay hoay với đủ mọi cách ngăn mồ hôi bôi kem Dainty Lady, nhét khoai tây lạnh trong túi, buộc nước đá quanh đầu (thậm chí tôi còn trả tiền cho gã lang băm để lấy lời khuyên khỉ gió ấy nữa chứ), thế mà cứ năm phút một, miếng giấy thấm của tôi đã lại ướt sũng sĩnh. Tôi đành cắp chiếc quạt giấy con đi khắp nơi mọi chốn. Vừa mát, mà lại chẳng tốn đồng nào.
Tuy vậy, cô Celia lại có vẻ ưa thời tiết ấm áp lắm, thực ra cô ả còn chịu ra ngoài ngồi cạnh bể bơi, trên người mặc độc chiếc áo choàng tắm vải xù và đeo cặp kính râm gọng trắng cũ dỉn. Tạ ơn Chúa, cuối cùng cô ta cũng chịu ra khỏi nhà. Lúc đầu tôi cứ nghĩ cô ta có bệnh trong người, nhưng giờ tôi đồ rằng khéo cô ta có bệnh trong não chứ chả chơi. Không phải kiểu lầm bầm nói chuyện một mình như mấy bà già giống bà Walter, ai chả biết đấy là bệnh lẫn của người có tuổi, mà là loại thần kinh nặng người ta phải trói gô lại rồi tống vào trại thương điên Whitfield cơ.
Bây giờ gần như ngày nào tôi cũng bắt quả tang cô ta mò lên mấy phòng ngủ ở tầng hai. Tôi nghe thấy tiếng chân cô ta rón rén bước dọc hành lang, bỏ lại những tiếng cọt kẹt rất khẽ trên sàn nhà. Tôi chẳng nghĩ ngọi gì nhiều - dào ôi, nhà của cô ta cơ mà. Nhưng hôm nay cô ta làm thế, rồi ngày mai, ngày mốt lại thế, đã vậy, cô ta cứ lén lén lút lút, phải chờ đến khi tôi bật máy hút bụi lên hoặc tối mắt tối mũi với bánh nọ trái kia mới mò đi, thế tôi mới nghi. Cô ta luẩn quẩn trên đó chừng bảy, tám phút rồi nghênh ngó cái đầu bé tí khắp bốn phía để rình tôi không nhìn thấy mới dám xuống.
“Em thọc mũi vào việc của cô ta làm gì,” Leroy bảo. “Em chỉ cần đảm bảo cô ta sẽ thuyết phục ông chồng cho em giúp việc trong nhà là được.” Cả mấy tối vừa rồi Leroy đều tít mít ở cái quán Crow chết tiệt, hắn còn mải nốc rượu sau nhà máy điện khi hết ca làm việc. Hắn chẳng ngu đâu. Hắn thừa biết nếu tôi lăn ra chết, chẳng có tiền của nào tự vác xác đến cho hắn tiêu cả.
Sau chuyến viếng thăm tầng hai, cô Celia đi xuống bếp thay vì trở lại giường. Tôi đang dở tay rút xương gà và chỉ muốn cô ả biến khỏi đây. Nước dùng đã sôi sùng sục trên bếp, bánh bao cũng đã cắt xong. Tôi không muốn cô ta mó tay vào.
“Còn mười ba ngày nữa là cô phải nói cho ông Johnny biết chuyện của tôi đấy nhé,” tôi nói và y như rằng, cô Celia đứng dậy, rời bàn bếp và quay gót trở về phòng ngủ. Song chưa bước ra đến cửa, cô ta bỗng rên lên, “Chị có cần phải nhắc tôi chuyện đó mỗi ngày như thế không?”
Người tôi dựng đứng thêm. Đó là lần đầu tiên cô Celia nổi cáu với tôi. “À thì,” tôi đáp, mắt chẳng thèm nhìn lên vì tôi sẽ còn nhắc cho cô ta nhớ, cho kỳ đến ngày nào ông Johnny bắt tay tôi và nóirất vui được biết chị Minny, thì thôi.
Nhưng rồi tôi liếc qua và thấy cô Celia vẫn đứng đó, tay bám chặt lấy khung cửa, khuôn mặt trắng bệch ra, như một loại sơn tường rẻ tiền.
“Cô lại ăn nhầm thịt gà sống à?”
“Không, tôi... tôi hơi mệt thôi.”
Nhưng những giọt mồ hôi rịn ra trên lớp phấn trang điểm - giờ đã chuyển thành màu xám - cho tôi biết cô ta không ổn tí nào. Tôi dìu cô ta lên giường và mang ít thuốc Lady-a-Pinkam cho cô uống. Trên tờ nhãn màu hồng vẽ hình một quý cô lịch sự, đầu đội khăn xếp, miệng nở nụ cười rạng rỡ như thể đã thấy trong người khỏe khoắn hơn. Tôi đưa cô Celia chiếc thìa để đong thuốc, nhưng cô ả cẩu thả cứ ngửa cổ tu thẳng luôn từ chai.
Xong xuôi, tôi rửa tay thật sạch. Chẳng biết cô ta bị bệnh gì, nhưng tôi mong bệnh đấy không lây.
Đúng ngay sau ngày cô Celia nổi cơn mặt xanh nanh vàng là ngày thay ga giường chết giẫm, tôi ghét hôm đó nhất. Ga giường là thứ quá đỗi riêng tư với những kẻ chẳng còn ngây thơ mấy nỗi để bị lừa phỉnh. Nó đầy lông, tóc, vẩy da, gỉ mũi và dấu vết của những cuộc vật lộn. Nhưng những vết máu là thứ đáng tởm nhất. Vừa chải cọ những thứ chết tiệt đó bằng hai bàn tay trần, tôi vừa dở nôn ọe trước bồn rửa. Nhất là khi gặp phải vết máu ở bất kỳ đâu, hoặc thứ gì na ná như vậy. Chỉ riêng một quả dâu bị giẫm nát cũng đủ khiến tôi ôm lấy cái bồn cầu trong suốt ngày hôm ấy rồi.
Cô Celia thừa hiểu công việc ngày thứ Ba và thường cô ta ra sofa ngồi để tôi rảnh tay dọn dẹp. Sáng nay có một đợt lạnh mới tràn về, nên cô ta không ra ngồi ở bể bơi được, nghe nói thời tiết sẽ còn tệ hơn nữa. Nhưng chín giờ, rồi mười, mười một giờ, cánh cửa phòng ng vẫn đóng im ỉm. Cuối cùng, tôi đành gõ cửa.
“Vâng?” Cô ta đáp. Tôi bèn mở cửa ra.
“Chào cô Celia.”
“Minny...”
“Hôm nay là thứ Ba.”
Cô Celia vẫn ở trên giường, không chỉ có vậy, cô ta còn nằm co quắp trên đống ga trải trong chiếc áo ngủ, trên mặt không có tí phấn son nào.
“Tôi phải giặt là hết mấy tấm chăn ga, rồi còn dọn đến cái tủ đồ cô bỏ mặc cho khô nỏ khô nang nữa. Sau đó chúng ta sẽ nấu...”
“Minny, hôm nay tôi không muốn học nấu nướng gì hết.” Cô ta cũng không cười như mọi ngày khi gặp tôi.
“Cô mệt à?”
“Chị đi lấy cho tôi ít nước được không?”
“À vâng.” Tôi xuống bếp và vặn vòi đổ đầy một cốc nước. Chắc cô ta phải ốm lắm, vì từ trước tới nay, cô ta đã bao giờ sai tôi câu nào đâu.
Thế nhưng khi tôi quay lại phòng, cô Celia không còn nằm trên giường nữa, còn cửa phòng vệ sinh đã đóng kín. Thế quái nào cô ả lại bắt tôi đi lấy nước hầu mình, trong khi cô ta đủ sức tự ngồi dậy và vào nhà vệ sinh cơ chứ? Ít ra cô ta cũng đã biến đi khuất mắt tôi. Tôi nhặt chiếc quần của ông Johnny nằm vạ vật dưới sàn lên, ném ra sau lưng. Theo ý tôi ấy à, cô ả này ít vận động tay chân quá, ai lại cứ ngồi ì trong nhà suốt ngày như thế. Ôi thôi nào, Minny, mày lại thế rồi. Cô ta có bệnh, thế thôi.
“Cô ốm à?” Tôi đứng ngoài cửa nhà vệ sinh gọi vọng vào.
“Tôi... không sao.”
“Trong lúc cô ở trong đấy, tôi cứ thay ga giường nhé.”
“Không, chị về đi,” cô ta trả lời qua cánh cửa. “Hôm nay chị về nhà nghỉ đi, Minny.”
Tôi đứng đó và gõ chân lên tấm thảm màu vàng. Tôi không muốn về nhà. Hôm nay là thứ Ba, là ngày-thay-đống-ga-giường-khốn-kiếp. Nếu hôm nay tôi không làm cho xong, thì thứ Tư lại thành ngày-thay-đống-ga-giường-khốn-kiếp mất.
“Nh ông Johnny về thấy nhà cửa bừa bộn thế này thì sao.”
“Tối nay anh ấy ở lại trại săn nai. Minny, nhờ chị mang hộ tôi cái điện thoại vào đây...” giọng cô vỡ ra thành một tiếng rên đau khổ. “Kéo ra đây rồi lấy cho tôi quyển sổ điện thoại để dưới bếp ấy.”
“Cô Celia, cô ốm à?”
Nhưng cô ta không đáp, thế là tôi đi lấy quyển sổ và kéo chiếc điện thoại đến trước cửa phòng vệ sinh rồi gõ cửa.
“Chị cứ để đấy.” Giọng cô Celia lạc đi như sắp khóc. “Chị về nhà đi.”
“Nhưng tôi phải...”
“Tôi bảo chị về đi, Minny!”
Tôi lùi bước khỏi cánh cửa đóng kín, mặt nóng bừng bùng. Tôi thấy cay mũi, không phải vì chưa từng bị ai mắng mà vì chưa từng bị cô Celia mắng bao giờ.
Sáng hôm sau, Woody Asap trên Kênh 12 huơ bàn tay thô ráp trên tấm bản đồ nước Mỹ. Jackson, Mississippi, lạnh cứng như một cục đá. Đầu tiên là mưa, rồi giá rét tràn về, sau đó bất kỳ thứ gì dài quá một phần đều gãy vụn và rơi xuống đất. Cành cây, đường dây điện, bạt che hiên nhà thi nhau đổ vỡ, dường như chúng đã hết chịu thấu. Ngoài trời, mọi vật như được nhúng trong một xô sơn vécni bóng trong suốt.
Bọn trẻ con nhà tôi dán chặt mấy cái mặt còn ngái ngủ vào chiếc radio, đến khi chiếc hộp nói đường sá đã đóng băng hết, trường học phải đóng cửa, thế là chúng nhảy nhô nhảy nhếch lên, rồi hú hét, rồi huýt sáo, và chạy ra ngoài để xem băng, trên người chỉ mặc độc bộ đồ liền.
“Mấy đứa kia, vào nhà đi giày ngay!” Tôi thét. Không đứa nào nghe cả. Tôi bèn gọi cho cô Celia để bảo rằng tôi không thể lái xe với đường sá thế này, tiện thể hỏi xem nhà cô ngoài ấy có điện không. Sau vụ cô ta quát tôi như quát một con mọi đen đầu đường xó chợ hôm qua, chắc ai cũng tưởng tôi sẽ thây kệ cô ta muốn sống chết thế nào cũng được.
Vừa nhấc máy lên, tôi nghe thấy, “Alô.”
Tim tôi giật thót.
“Ai đấy? Ai đang gọi đấy?
Tôi gác máy thật nhẹ nhàng. Chắc hôm nay ông Johnny cũng không đi làm. Không hiểu làm cách nào ông ta lại về nhà được lúc trời bão bùng như thế. Tôi chỉ biết rằng, kể cả trong ngày nghỉ như thế này, tôi vẫn không thoát được nỗi sự hãi trước người đàn ông ấy. Nhưng chỉ mười một ngày nữa thôi, tất cả sẽ chấm dứt.
Băng giá Ở khẮp vùng tan chảy chỉ sau có một ngày. Khi tôi đến, cô Celia không nằm trên giường nữa. Cô ta ngồi bên chiếc bàn sơn trắng trong bếp, đăm đăm nhìn ra cửa sổ bằng khuôn mặt đau khổ, như thể cuộc sống xa hoa này thật chẳng khác nào một địa ngục trần gian. Thứ cô ta đang nhìn chính là cây mimosa. Đợt băng tuyết vừa rồi đã giáng cho nó một đòn thê thảm. Phân nửa số cành đã gãy, còn những chiếc lá thon thon giờ đã chuyển thành màu nâu úa và ướt sũng nước.
“Chào chị, Minny,” cô ta nói, mắt không buổn liếc qua phía tôi.
Nhưng tôi chỉ gật đầu. Tôi chẳng có gì để nói với cô ta cả, sau những chuyện xảy ra hôm kia.
“Cuối cùng chúng ta cũng có thể chặt bỏ cái cây xấu xí già nua kia đi được rồi,” cô Celia nói.
“Vâng. Chặt hết đi.” Như tôi ấy, tự nhiên bị ăn chửi chẳng vì lý do gì.
Cô Celia đứng dậy và bước đến chỗ bồn rửaa nơi tới đang đứng. Cô ta níu Iấy cánh tay tôi, mắt ầng ậng nước;. “Tôi xin lỗi đã to tiếng với chị.”
“Ừm.”
“Tôi bị ốm, tôi biết lý do ấy cũng không thể bào chữa được, nhưng tôi thấy trong người mệt mỏi quá và,..” Cô bắt đầu khóc nức nở, cứ như quát vào mặt người giúp việc là điều xấu xa nhất cô từng làm.
“Nào nào,” tôi dỗ. “Có gì đâu mà phải sụt sịt thế.”
Rồi cô ôm choàng lấy cổ tôi cho đến khi tôi gần như vỗ lên lưng cô và gỡ cô ra. “Nào, cô ngồi xuống đây,” tôi nói. “Để tôi pha cho cô ít cà phê.”
Chắc những lúc mệt người thì ai cũng thành ra cáu bẳn.
ĐẾn thỨ hai tuẦn tiẾp theo, những chiếc lá cây mimosa đã biến thành màu đen kịt như bị cháy chứ không phải gặp băng giá. Tôi bước vào bếp, chuẩn bị sẵn tinh thần nhắc nhở số ngày còn lại, nhưng cô Celia lại đang nhìn cái cây với ánh mắt căm thù cô vẫn dành cho cái lò nướng. Trong cô xanh xao lắm, mà cô cũng chẳng chịu động vào món nào tôi làm cho cô.
Cả ngày hôm đấy, thay vì nằm ườn trên giường, cô bắt tay vào trang trí cây thông Noel cao tới hơn ba mét đặt ngoài sảnh, khiến tôi một phen khốn khổ khốn nạn với đám vụn dây kim tuyến bay lung tung khắp nhà. Sau đó cô ra sân sau tỉa mây bụi hồng và đào củ tulip. Tôi chưa từng thấy cô cử động nhiều đến thế, chưa bao giờ. Xong xuôi cô vào nhà để học nấu ăn, móng tay cô dính đầy đất bẩn nhưng cô vẫn không nở nụ cười lấy một lần.
“Sáu ngày nữa chúng ta sẽ nói cho ông Johnny biết nhé,” tôi nhắc.
Cô ta không nói năng gì mất một lúc, đoạn buông ra mấy câu tỉnh bơ. “Chị có chắc không? Tôi đang nghĩ có lẽ chúng ta nên chờ thêm một thời gian nữa.”
Tôi dừng phắt lại, kem sữa trên tay nhỏ xuống tong tỏng. “Cô thử nhắc lại câu đấy một lần nữa xem nào?”
“Thôi được, thôi được.” Và cô lại bỏ ra ngoài với thú giải trí mới của mình, mắt nhìn cây mimosa trân trối còn tay lăm lăm chiếc rìu. Nhưng cô không dám bổ xuống một nhát nào.
Tối thứ Tư, tôi chỉ nghĩ được duy nhất một điều: còn chín mươi sáu tiếng nữa thôi. Ý nghĩ mình có thể sẽ mất việc ngay sau Giáng sinh cào xé ruột gan tôi. Tôi còn nhiều thứ phải lo hơn là chuyện bị bắn chết tươi. Theo thỏa thuận, cô Celia sẽ phải nói cho ông Johnny biết vào đúng đêm Giáng sinh, sau khi tôi về nhà và trước lúc hai vợ chồng đến nhà mẹ ông ấy. Nhưng cô Celia dạo này lạ lắm. chẳng hiểu cô ta có tính bài chuồn không nữa. Không, thưa cô, cả ngày tôi cứ tự lẩm bẩm một mình. Tôi sẽ bám cô ta như sam cho mà xem.
Thế nhưng đến sáng thứ Năm, lúc tôi đến làm cô Celia lại không có ở nhà. Không thể tin nổi cô ta cũng có lúc chịu rời khỏi ngôi nhà này. Tôi ngồi xuống bên chiếc bàn và tự rót cho mình một cốc cà phê.
Tôi nhìn ra sân sau. Trời nắng, trong veo. Cái cây mimosa đen đúa nom chướng mắt quá. Tôi thật không hiểu sao ông Johnny không chặt béng nó đi.
Tôi dí sát mặt vào cửa kính. “Ồ xem này.” Dưới gốc cây vẫn còn sót lại vài búp lá, trông chúng có vẻ tươi tắn hơn dưới nắng.
“Cái cây già này, lại giả chết đây mà.”
Tôi thọc tay vào túi xách và rút ra một cuốn sổ con, trong đó tôi đã ghi hết những thứ cần mua sắm, không phải cho cô Celia, mà là cho nhà tôi, quà Giáng sinh, vài món đồ cho bọn trẻ con. Bệnh hen của Benny dạo này có đỡ hơn, nhưng tối qua Leroy lại lê cái xác nồng nặc mùi rượu vé nhà. Hắn giúi tôi một phát rất mạnh, làm bắp đùi tôi đập vào cạnh bàn đau điếng. Nếu tối nay hắn còn giở trò đó, tôi sẽ cho hắn xơi vài quả đấm lót dạ.
Tôi thở dài. Bảy hai tiếng nữa thôi, tôi sẽ được tự do. Có lẽ tôi sẽ bị đuổi việc, hoặc chết nếu Leroy biết chuyện, nhưng tự do.
Tôi cố gắng tập trung vào công việc tuần này. Ngày mai phải nấu rất nhiều món, tối thứ Bảy tôi phải chuẩn bị bữa tối ở nhà thờ, Chủ nhật phải đi lễ. Bao giờ tôi mới được dọn nhà mình? Được giặt quần áo cho con tôi? Sugar, con bé lớn nhà tôi đã mười sáu tuổi, nó chăm nom mọi việc cũng đến nơi đến chốn lắm, nhưng những ngày cuối tuần tôi vẫn muốn đỡ nó, điều mẹ chưa bao giờ làm cho tôi. Còn Aibileen nữa. Tối qua cô ấy lại gọi, nhờ tôi giúp cô ấy và có Skeeter chuyện kia. Tôi quý Aibileen, quý lắm. Nhưng tôi nghĩ cô ấy đang mắc một sai lầm to tướng khi liều lĩnh tin vào một người đàn bà da trắng. Mà tôi cũng đã bảo rồi, cô ấy đang đặt cả công việc lẫn sự an toàn của bản thân vào vòng nguy hiểm. Đấy là chưa kể chẳng có lý gì phải giúp bạn của con mụ Hilly cả.
Mà thôi, tôi cứ chú tâm vào việc của mình thì hơn.
Tôi cắt dứa phủ lên tảng chân giò rồi bỏ vào lò. Sau đó tôi phủi bụi các giá sách trong phòng săn bắn, hút bụi cho con gấu trong khi nó nhìn tôi chòng chọc cứ như tôi là một món đồ nhắm không bằng. “Hôm nay chỉ có mỗi tao với mày thôi đấy,” tôi bảo nó. Như mọi khi, nó chẳng nói năng gì. Tôi lấy miếng giẻ và bánh xà phòng, lau men theo cầu thang, chùi từng gióng lan can bóng lộn lên. Lên đến bậc trên cùng, tôi chuyển sang phòng ngủ thứ nhất.
Tôi lau dọn tầng hai suốt một tiếng đồng hồ. Trên này lạnh lẽo quá, chẳng có người nào ở cho đỡ quạnh quẽ. Tôi luôn tay chùi và cọ, chùi và cọ bất cứ thứ gì bằng gỗ. Làm xong phòng thứ hai, chuẩn bị sang phòng thứ ba, tôi tạm dừng để xuống phòng cô Celia trước khi cô về.
Tôi thấy rợn người khi phải ở trong một căn nhà trống trải thế này. Cô ta đi đâu được nhỉ? Tôi đã làm việc ở đây ngần ấy thời gian mà cô ta cũng chỉ rời nhà có ba lần, và lần nào cũng kể lể dài dòng những là đi đâu, làm gì, bao giờ về, làm như tôi thèm quan tâm ấy, giờ thì cô ta chẳng nói chẳng rằng, cứ thế biến mất. Lẽ ra tôi phải vui lắm. Tôi phải mừng vì cô ta đã đi khuất mắt tôi chứ. Nhưng ở đây cmình, tôi thấy mình cứ như một đứa ăn trộm. Tôi nhìn xuống tấm thảm màu hồng dùng che đi vết máu ngay trước cửa nhà vệ sinh. Hôm nay tôi sẽ thu hết can đảm để chiến đấu với nó. Bỗng một luồng gió lạnh lướt qua phòng, như có một bóng ma đến viếng thăm. Tôi rùng mình.
Có lẽ tôi sẽ không xử lý vết máu đó ngay hôm nay.
Trên giường, mấy tấm chăn phủ đã bị rơi ra, như mọi ngày. Tấm ga bị giằng kéo, xô lệch tứ phía. Lúc nào nhìn vào đây người ta cũng phải tưởng vừa có một trận đấu vật diễn ra. Tôi vội dừng lại, không cho mình nghĩ lung tung thêm nữa. Lúc đầu bạn cứ lẩn mẩn tự hỏi người ta làm gì trong phòng ngủ, thế rồi chuyện riêng nhà họ đã kịp choán đầy óc bạn trước khi bạn kịp nhận ra.
Tôi lột vỏ một chiếc gối. Mascara của cô Celia đã dây đầy mặt vải, tạo thành hình những con bươm bướm nhỏ bằng than. Còn những món quần áo vứt dưới sàn tôi nhồi cả vào vỏ gối để xách cho dễ. Tôi nhặt chiếc quần của ông Johnny vắt trên cái ghế đệm dài màu vàng lên.
“Làm sao mình biết được cái này sạch hay bẩn đây?” Tôi cứ nhét đại vào bao. Phương châm nội trợ của tôi là: Không biết, cứ giặt.
Tôi lê bao quần áo đến chỗ tủ gương. Khi tôi cúi xuống nhặt đôi vớ tơ của cô Celia, vết bầm trên đùi nổi cơn đau nhức nhối.
“Cô là ai?”
Tôi đánh rơi cái bao và từ từ thối lui, cho đến khi mông chạm vào thành tủ. Ông ta đứng trên ngưỡng cửa, mắt nheo nheo. Thật chậm rãi, tôi nhìn xuống cây rìu trong tay ông ta.
Lạy Chúa tôi. Tôi không thể chạy vào nhà vệ sinh được vì ông ta đứng gần quá, ông ta sẽ lao vào đó cùng tôi mất. Tôi cũng không thể xông ra cửa được, trừ phi đâm đầu vào ông ta, mà ông ta lại cầm rìu nữa chứ. Đầu tôi muốn nổ tung ra vì khiếp đảm. Tôi cùng đường rồi.
Ông Johnny nhìn tôi, hơi đung đưa chiếc rìu rồi nghiêng đầu và mỉm cười.
Tôi làm việc duy nhất mình có thể làm. Tôi cau mặt để trưng ra điệu bộ dữ tợn nhất mình có và vén môi, nhe răng gào lên: “Mời ông cùng cây rìu của ông cuốn xéo ngay cho tôi nhờ.”
Ông Johnny nhìn xuống cây rìu, dường như quên mất là mình đang cầm nó. Rồi nhìn đến tôi. Chúng tôi nhìn nhau chằm chặp mất một lúc. Tôi không dám cử động, không dám cả thở
Ông ta đưa mắt sang cái bao tôi vừa đánh rơi để xem tôi đã thó được những gì. Một ống quần kaki của ông ta chờm ra ngoài miệng bao. “Xin ông nghe tôi nói,” tôi phân bua, mắt giàn giụa nước. “Ông Johnny, tôi đã bảo cô Celia nói cho ông biết về tôi. Tôi đã xin cô ấy cả ngàn lần rồi...”
Nhưng ông ta chỉ bật cười và lắc đầu. Chắc ông ta nghĩ việc mình sắp phanh thây xả xác tôi ra là thú lắm.
“Xin ông nghe tôi, tôi đã bảo cô ấy...”
Nhưng ông ta vẫn cười tủm tỉm. “Chị bình tĩnh nào. Tôi có định làm gì chị đâu,” ông ta nói. “Tại chị làm tôi giật mình, thế thôi.”
Tôi thở hổn hển, rồi lần lần ra phía nhà vệ sinh. Ông ta vẫn cầm cây rìu trong tay, khẽ đu đưa.
“Tên chị là gì ấy nhỉ?”
“Minny,” tôi đáp. Chỉ còn mét rưỡi nữa thôi.
“Chị làm ở đây được bao lâu rồi, Minny?”
“Không lâu lắm.” Tôi khẽ lắc đầu.
“Bao lâu?”
“Mấy... tuần,” tôi đáp và cắn môi. Ba tháng.
Ông ta lắc đầu. “Không, tôi biết phải lâu hơn thế.”
Tôi liếc nhìn cánh cửa nhà vệ sinh. Trốn vào một cái nhà vệ sinh mà đến cửa cũng không có khóa phỏng ích lợi gì? Trong khi ông ta lại có hẳn một cây rìu để phá tan nó?
“Tôi không điên, tôi thề đấy,” ông ta nói.
“Còn cây rìu kia thì sao?” Tôi nói, hai hàm răng nghiến chặt lại.
Ông ta đảo mắt, rồi đặt nó xuống thảm, và giơ chân gạt nó sang một bên.
“Nào, ta vào bếp nói chuyện một chút đi.”
Ông ta quay lưng bước đi. Tôi nhìn chiếc rìu, tự nhủ không biết có nên cầm nó lên không. Chỉ nhìn thấy nó đã đủ khiên tôi sởn gai ốc. Tôi nhồi nó xuống gậm giường rồi đi theo
Vào đến bếp, tôi đứng nép sát vào cửa hậu, kiểm tra để chắc chắn nó không bị khóa.
“Minny, tôi hứa đấy. Ở đây chị sẽ không sao cả,” ông ta nói.
Tôi nhìn ánh mắt ông ta, cố đoán xem ông ta có nói dối không. Ông ta là một người cao lớn, ít ra cũng phải mét tám nhăm. Phía trước đã hơi có bụng, nhưng dáng người trông rắn rỏi. “Chắc ông sẽ đuổi tôi phải không.”
“Đuổi chị?” Ông ta cười phá lên. “Chị là đầu bếp cừ nhất tôi từng biết. Xem chị làm gì cho tôi này.” Ông ta nhăn nhó nhìn xuống cái bụng mới hơi nhô ra một chút. “Chậc, tôi chưa bao giờ được ăn uống thoả thê đến thế từ hồi Cora Blue còn ở đây. Bác ấy đã nuôi tôi, theo đúng nghĩa đen đấy.”
Tôi hít một hơi thật dài vì chuyện ông ta biết Cora Blue dường như làm mọi sự dễ thở hơn ít nhiều. “Mấy đứa con bà ấy đi lễ ở nhà thờ chỗ tôi. Tôi biết bà ấy.”
“Tôi nhớ bác ấy lắm đấy.” Ông ta xoay lưng mở tủ lạnh ra, nhìn vào, rồi đóng lại.
“Bao giờ thì Celia về? Chị có biết không?” Ông Johnny hỏi.
“Tôi không biết. Chắc cô ấy đi làm tóc.”
“Lúc hai vợ chồng ăn mấy món chị nấu, tôi cứ nghĩ bụng, cuối cùng cô ấy cũng học được cách nấu nướng. Mãi đến tận thứ Bảy vừa rồi, chị không có ở đây, thế là cô ấy trổ tài làm bánh hamburger.”
Ông ta tì người lên mặt bồn rửa, thở dài. “Sao có ấy lại không muốn tôi biết về chị nhỉ?”
“Tôi không biết. Cô ấy không chịu nói.”
Ông ta lắc đầu, rồi ngước mắt lên nhìn cái mảng đen sì trên trần nhà, di tích từ vụ cô Celia làm cháy con gà tây dạo nọ. “Minny, kể cả Celia có không động một ngón tay nào trong suốt phần đời còn lại, tôi cũng không lấy làm phiền. Nhưng cô ấy nói muốn tự tay chăm sóc tôi.” Ông ta hơi nhướng mày lên. “Chị có biết tôi phải ăn những gì trước khi chị đến đây không?”
“Cô ấy đang học. Ít ra cô ấy... đang cố học,” nhưng tôi suýt phì cười. Những chuyện kiểu này có cố cũng không nói dối được.
“Tôi chẳng cần biết cô ấy có nấu được hay không. Tôi chỉ muốn cô ấy ở đây” - ông ta nhún vai - “với tôi.”
Ông ta đưa ống tay áo trắng lên chùi lông mày, thảo nào áo sơ mi của ông ta lúc nào cũng bẩn lem nhem. Và trông ông ta khá điển trai, theo cách của một người da trắng.
“Dường như cô ấy không hạnh phúc,” ông ta tiếp. “Có phải tại tôi không? Hay tại ngôi nhà? Chúng tôi sống xa thị trấn quá chăng?”
“Ông Johnny, tôi không biết.”
“Vậy thì có chuyện gì cơ chứ?” Ông ta chống hai tay lên mặt quầy phía sau lưng, siết thật chặt. “Xin chị nói cho tôi biết. Có phải” - ông gắng sức nuốt nước bọt - “có phải cô ấy đang cặp kè với một người khác?”
Dù rất cố gắng, nhưng tôi không khỏi cảm thương, khi thấy ông ta cũng bối rối chẳng khác gì tôi trước đống hổ lốn này.
“Ông Johnny, đây không phải việc của tôi. Nhưng tôi có thể nói chắc rằng cô Celia chẳng có mối quan hệ nào khác bên ngoài căn nhà này đâu.”
Ông ta gật đầu. “Chị nói đúng. Tôi ngu quá, ai lại đi hỏi câu ấy.
Tôi liếc ra cửa, tự hỏi không biết bao giờ cô Celia mới về nhỉ. Tôi không hiểu cô ta sẽ làm gì nếu thấy ông Johnny ở đây.
“Minny này,” ông ta nói, “chị đừng nhắc gì về việc gặp tôi nhé. Tôi sẽ để cô ấy tự nói với tôi khi nào cô ấy đã sẵn sàng.”
Tôi bèn nở nụ cười thực sự đầu tiên. “Vậy là ông muốn tôi cứ tiếp tục làm việc như trước ấy hả?”
“Nhờ chị chăm sóc cô ấy. Tôi không muốn cô ấv cứ vò võ trong ngôi nhà to đùng này có một mình.”
“Ôi chao. Ông nói sao cũng được.”
“Hôm nay tôi ghé về nhà để làm cô ấy bất ngờ. Tôi cũng sẽ chặt bỏ cái cây mimosa mà cô ấy ghét cay ghét đắng, rồi đưa cô ấy vào thị trấn ăn trưa. Chọn ít nữ trang làm quà Giáng sinh cho cô ấy nữa.” Ông Johnny bước tới cửa sổ, nhìn ra ngoài và thở dài. “Thôi, có lẽ tôi sẽ ăn tạm ở quán nào đó trong thị trấn vậy.”
“Để tôi làm cho ông thứ gì đó. Ông muốn ăn gì?” Ông ta quay lưng lại và cười hớn hở như một đứa trẻ. Tôi bèn lục lọi tủ lạnh, lấy các thứ ra
“Chị nhớ món cốt-lết lần trước chúng tôi ăn không?”
Ông ta bắt đầu cắn móng tay. “Tuần này chị lại làm món đó nhé?”
“Tôi sẽ làm cho bữa tối nay luôn. Trong tủ lạnh còn sườn mà. Còn tối mai hai vợ chồng sẽ được ăn thịt gà với bánh bao.”
“Ấy, hồi xưa Cora Blue cũng đã từng làm món đó.”
“Ông cứ ngồi nghỉ đi, tôi sẽ làm cho ông một cái bánh kẹp thật ngon để mang đi ăn đường.”
“À, chị có nướng bánh mỳ không?”
“Có chứ. Dùng bánh mỳ tươi thì làm sao có bánh kẹp ngon được. Còn trưa nay tôi sẽ làm một chiếc bánh caramen trứ danh của Minny. Tuần sau tôi sẽ nấu món cá nheo rán...”
Tôi lấy miếng thịt muối ra, đặt chảo lên bếp để chuẩn bị bữa trưa cho ông Johnny. Đôi mắt ông Johnny rất trong và to. Ông ta nở một nụ cười làm giãn cả gương mặt. Tôi làm cho ông một chiếc bánh kẹp và lấy giấy sáp bọc lại. Cuối cùng cũng có một người khiến tôi thấy thỏa mãn khi nấu nướng cho họ.
“Minny, tôi phải hỏi một chuyện, nếu đã có chị ở đây... thì cả ngày Celia biết làm cái gì?”
Tôi nhún vai. “Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một phụ nữ da trắng nào chỉ ngồi ì một chỗ như cô ấy. Hầu hết bọn họ đều bận rộn suốt ngày, chạy hoắng lên hết chỗ nọ đến chỗ kia, làm như họ lắm việc hơn tôi không bằng.”
“Cô ấy cần có vài người bạn. Tôi đã nhờ anh bạn Will của tôi nói khó với vợ anh ấy, để cô ta đến đây dạy Celia chơi bài, rồi giới thiệu cô ấy vào nhóm nào đấy. Tôi biết Hilly là chủ trò trong tất cả các hoạt động mà.”
Tôi nhìn ông ta chằm chằm, như thể nếu tôi cứ giữ nguyên tư thế ấy, có khi điều đó sẽ không phải là sự thực nữa. Cuối cùng tôi cất tiếng, “Ý ông là cô Hilly Holbrook ấy à?”
“Chị biết cô ấy à?” Ông ta hỏi.
“À vâng.” Tôi cố nuốt trôi hình ảnh cái cờ lê đi dâng lên tận họng trước ý nghĩ con mụ Hilly sẽ lai vãng đến nhà này. Cô Celia sẽ khám phá ra trò Kinh tởm Khủng khiếp. Hai người đó không đời nào trở thành bạn bè được. Nhưng tôi cũng cá là mụ Hilly sẽ là bất cứ việc gì vì ông Johnny.
“Tối nay tôi sẽ gọi Will để nhờ tiếp vậy.” Ông ta vỗ lên vai tôi và tôi bỗng thấy mình lại nghĩ đến từ ấy, sự thật. Và Aibileen sẽ nói cho cô Skeeter biết tất cả. Nếu sự thật về tôi vỡ lở, đời tôi thế là xong. Tôi đã lỡ chọc vào tổ kiến lửa, chết là phải.
“Tôi sẽ cho chị số điện thoại ở chỗ làm của tôi. Nếu có gặp rắc rối gì, chị cứ gọi cho tôi nhé.”
“Dạ,” tôi đáp, và thấy nỗi sợ hãi đã đuổi sạch mọi cảm giác nhẹ nhõm tôi có được hôm nay.
CÔ SKEETER