Chương 17

    
ỜI CÔ RA để tôi còn dọn dẹp.”
Cô Celia kéo chăn lên trùm kín ngực, cứ như sợ tôi sẽ xông vào lôi cô ra khỏi giường. Đã chín tháng làm việc ở đây, vậy mà tôi vẫn không biết liệu cô có bệnh trong người không, hay lúc nhuộm tóc cô đã lỡ tay tẩy luôn não mình rồi. Trông cô có khá hơn so với hồi tôi mới vào thật. Bụng cô nom đã có thêm tí mỡ, má không hóp như hồi trước, cái hồi cô và ông Johnny sống tách biệt ngoài này, ăn đói uống khát.
Có mt dạo, cô Celia suốt ngày lúi húi đào đào xới xới ngoài sân sau, nhưng giờ người đàn bà điên khùng đó lại trở về với cái giường chết giẫm. Tôi đã có đận mừng thầm vì cô ta chỉ ru rú trong phòng mình. Thế nhưng, giờ tôi đã được gặp ng Johnny, tôi rất sẵn sàng bắt tay vào làm việc. Và mẹ kiếp, tôi cũng sẵn sàng chỉnh đốn cô Celia nữa.
“Cô làm tôi muốn phát điên mất, ai lại cứ loanh quanh trong nhà hai lăm tiếng một ngày như thế. Dậy. Ra mà chặt cái cây m khốn khổ mà cô căm thù đi,” tôi nói, vì ông Johnny vẫn chưa chịu chặt bỏ cái cây đó.
Nhưng khi cô Celia không chịu xê dịch một li khỏi tấm đệm, tôi biết đã đến lúc lôi khẩu súng cối của mình ra rồi. “Thế cô tính bao giờ mới nói cho ông Johnny biết về tôi đây?” Vì câu đó luôn khiến cô ta sốn chân lên. Đôi lúc tôi chỉ hỏi để tiêu khiển là chính.
Tôi không thể tin nổi trò hề này đã kéo dài đến thế, giờ ông Johnny đã biết tôi rồi, ấy thế mà cô Celia vẫn cứ thậm thà thậm thụt, làm như cô vẫn qua mắt nổi đức ông chồng vậy. Tôi cũng chẳng ngạc nhiên gì khi hạn chót Giáng sinh đến và cô van vỉ xin kéo dài thời gian. Ôi chao, tôi mắng nhiếc cô ta mới khiếp chứ, nhưng rồi ả ngố bắt đầu khóc um lên, thế là tôi đành tha, cốt để cô ta im miệng, tôi bảo đấy là quà Giáng sinh cho cô. Với ngần ấy lời dối trá, chắc cô ta phải được nhận một chiếc vớ lèn đầy than mới xứng.
Ơn trời con mụ Hilly không thèm đến đây chơi bài, mặc dù ông Johnny đã cố cắt đặt một buổi nữa mới chỉ cách đây hai tuần. Tôi biết vì cô Aibileen kể lại với tôi rằng mụ Hilly và cô ả Leefolt đã mang chuyện đó ra làm trò cười. Cô Celia thì xem chừng nghiêm trọng lắm, cô cứ hỏi tôi là nên đãi món gì nếu bọn họ tới. Cô ta còn đặt mua hẳn một cuốn sách qua thư để học chơi trò này, Bài bridge cho người mới tập chơi. Phải gọi là Bài bridge cho người không có não mới đúng. Sáng nay khi cuốn sách được gửi đến hòm thư, cô ta mở ra đọc không quá hai giây rồi quay sang bảo tôi, “Minny ơi, chị dạy tôi chơi bài đi? Quyển sách này thế nào ấy, tôi đọc chả hiểu gì cả.”
“Tôi không biết chơi bài,” tôi đáp.
“Có, chị biết mà.”
“Làm sao cô biết tôi chơi được?” Tôi lê xoong kéo nồi loảng xoảng, chỉ riêng cái bìa đỏ chót ngu xuẩn cũng đủ khiến tôi lộn cả ruột rồi. Mãi tôi mới thoát được mối lo về ông Johnny và giờ lại phải mất ăn mất ngủ vì sự mụ Hilly sẽ đến đây và phát hiện ra tôi. Chắc chắn ả sẽ kể cho cô Celia những việc tôi đã làm. Trời ơi. Đến tôi đây cũng sẵn sàng đuổi việc chính mình vì những gì tôi đã làm ấy chứ.
“Vì bà Walter kể cho tôi là các sáng thứ Bảy chị hay chơi bài với bà ấy mà.”
Tôi bắt đầu kỷ cọ cái nồi to. Mấy đốt ngón tay của tôi liên tục va vào thành nồi, tạo thành những tiếng leng keng đinh tai.
“Chơi bài là trò của bọn quỷ dữ,” tôi nói. “Mà tôi cũng còn khối việc khác phải làm nữa.”
“Nhưng nếu các chị ấy qua đây dạy tôi chơi, thế nào tôi cũng bị hồi hộp quá, chẳng học nổi đâu. Chị dạy tôi đi, một tí tẹo thôi?”
“Không.”
Cô Celia hắt ra một tiếng thở dài nho nhỏ. “Chỉ vì tôi nấu ăn tệ quá, đúng không? Chắc bây giờ chị đang nghĩ tôi chẳng thể học được cái gì ra hồn nhỉ.”
“Thế cô tính sao đây, nếu cô Hilly và các bà các cô khác nói với chồng cô là cô đang thuê người giúp việc trong nhà? Như thế chả lộ bí mật của cô à?”
“Tôi đã tính tới chuyện đó rồi. Tôi sẽ báo Johnny là tôi gọi người đến giúp theo ngày để dọn cho nhà cửa tinh tươm với cả phục vụ khách khứa nữa.”
“Ừ hừm.”
“Sau đó tôi sẽ nói với anh ấy là tôi ưng chị lắm, tôi muốn thuê chị về làm hẳn cho nhà tôi, tôi có thể nói với anh ấy sau... vài tháng nữa.”
Tôi bắt đầu đổ mồ hôi hột. “Cô nghĩ bao giờ thì các cô ấy đến đây chơi bài?”
“Tôi đang đợi chị Hilly gọi lại. Anh Johnny bảo với chồng chị ấy là tôi sẽ gọi đến. Tôi đã để lại cho chị ấy hai lời nhắn rồi, thế nên chắc chị ấy cũng sắp gọi lại ngay thôi.”
Tôi đứng đờ đẫn, cố gắng nghĩ cách để ngăn chuyện đó xảy ra. Tôi nhìn điện thoại, thầm cầu khẩn để nó đừng bao giờ đổ chuông nữa.
SÁNG HÔM SAU, khi tôi đến làm, cô Celia đã ra khỏi phòng. Tôi nghĩ cô sắp sửa lẻn lên gác, xem ra cô cũng sắp diễn lại trò đó thật, nhưng rồi tôi nghe thấy tiếng cô nói chuyện điện thoại trong bếp, xin gặp cô Hilly. Tôi lập tức thấy trong người rất, rất khó ở.
“Tôi lại gọi để xem bao giờ thì tổ chức hội chơi bài được!” Cô hớn hở, còn tôi không dám nhúc nhích tí nào cho tới khi tôi biết cô đang nói chuyện với Yule May, người giúp việc của mụ Hilly, chứ không phải chính ả. Cô Celia bèn đọc số điện thoại của mình, oang oang như chuông treo cây lau nhà, “Emerson hai-sáu-không-sáu-không-chín!”
Và chỉ nửa phút sau, cô ta đã lại gọi đến một cái tên khác xuất hiện trên mặt sau tờ giấy ngu ngốc kia, hình như cô ta làm chuyện này đã thành quen rồi thì phải. Tôi biết tờ giấy đó là cái gì, đó là báo của Hội phụ nữ, và cứ nhìn qua thì biết, chắc cô ta nhặt được ở bãi đậu xe của trụ sở hội. Mặt tờ giấy thô ráp như giấy nhám và nhàu nhĩ thảm hại, trông như nó vừa kinh qua một trận mưa giông, sau khi rơi ra từ túi xách của một bà cô nào đó.
Đến nay, chưa một ai trong số đó từng gọi lại cho cô ta, song cứ mỗi lần chuông điện thoại reo, cô ta lại nhảy cẫng lên như chó gặp chồn. Nhưng lúc nào cúng là ông Johnny gọi.
“À thế ạ... vậy... chị nhắn chị ấy là tôi gọi nhé,” cô Celia nói vào điện thoại.
Tôi nghe tiếng cô gác máy rất nhẹ. Nếu lo cho cô ta, nhưng tôi chả thèm, thì tôi sẽ bảo cô ta rằng mấy bà phụ nữ đó chẳng đáng để cô phải lao tâm khổ tứ thế đâu. “Cô Celia, mấy bà phụ nữ đó chẳng đáng để cô phải lao tâm khổ tứ thế dâu,” tôi bỗng nghe thấy chính mình nói. Nhưng cô ta vờ như không nghe thấy, chỉ lùi lũi quay về phòng ngủ và dóng của lại.
Tôi tính gõ cửa, để xem cô có cần gì không. Nhưng tôi còn nhiều việc quan trọng phải lo hơn là chuyện có Celia có thắng cuộc thi lấy lòng các chị em phụ nữ hay không. Nào chuyện ngài Medgar Evers bị bắn chết ngay trẽn bậc cửa nhà mình, rồi con Felicia ầm ĩ nỉ non đòi lấy bằng lái xe, giờ nó đã sang tuổi mười lăm rồi mà - con bé ngoan thật, nhưng hồi tôi chưa hơn tuổi nó là bao, tôi đã có bầu thằng Leroy Bé rồi, mà cơ sự ấy cũng dính dáng ít nhiều đến một con Buick đấy. Đã thế, bây giờ tôi còn phải lo lắng vì cô Skeeter và tập truyện của cô ta nữa chứ.
CUỐI THÁNG SÁU, một đợt không khí nóng suýt soát ba mươi tám độ tràn về và ở lì không chịu đi. Cảm giác như có một chai nước nóng khổng lồ rơi độp xuống khu da màu, khiến chỗ này nóng hơn những vùng còn lại của Jackson phải đến cả chục độ. Trời nóng quá, đến nỗi con gà trống nhà ông Dunn dám xông vào nhà tôi, rồi buông phịch cái thân mình đỏ au xuống ngồi chồm hỗm trước cái quạt đặt trong bếp. Tôi bước vào thì thấy nó nhìn tôi, mắt như muốn nói Này bà kia, tôi quyết không rời một bước đâu đấy. Nó thà bị ăn cán chổi còn hơn phải bêu nắng trong cái tiết trời rồ dại này.
Ngoài quận Madison, đợt nóng chính thức đưa cộ Celia lên ngôi kẻ lười nhác nhất Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Cô ta thậm chí còn chả dám lê xác đi kiểm tra hòm thư nữa, tôi phải làm thay. Trời nóng quá, cô Celia còn không ra ngồi ngoài bể bơi được. Thế mới khổ thân tôi chứ.
Thì đấy, tôi nghĩ nếu như chúa trời đã muốn bắt người da trắng và người da màu phải ở gần nhau trong ngần ấy thời gian của ngày, lẽ ra ngài phải biến chúng tôi thành mù màu hết mới phải. Và trong khi cô Celia cười hớn hở rồi “chào buổi sáng” và “gặp chị tôi vui quá” với tôi, tôi tự hỏi, sao cô ta còn sống được đến từng này tuổi mà vẫn không có tí ý niệm gì về đâu là giới hạn nhỉ? Ý tôi là, một ả mèo mả mà dám chơi chòi gọi đến cho các bà cô thành viên Hội, thế đã là quá lắm rồi. Nhưng cô ta còn dám ngồi ăn trưa với tôi hàng ngày kể từ khi tôi bắt đầu vào làm việc ở đây. Tôi không nói là trong cùng một phòng thôi đâu nhé, mà là cùng một bàn. Cái bàn con kê ngay dưới cửa sổ ấy. Tất cả các bà chủ da trắng tôi từng giúp việc đều dùng bữa trong phòng ăn, càng xa người giúp việc da màu càng tốt. Như thế tôi lại càng mừng.
“Nhưng tại sao cơ chứ? Tôi chẳng muốn phải ngồi đó ăn một mình trong khi tôi có thể ngồi đây ăn với chị,” cô Celia nói. Tôi còn chẳng buồn mở mồm giải thích với cô ta. Có rất nhiều điều cô Celia dốt nát vô phương cứu chữa.
Tất cả các phụ nữ da trắng khác cũng đều biết rằng có một khoảng thời gian trong tháng mà bà ta không được nói chuyện với Minny. Ngay cả bà già Walter cũng biết khi nào Minny Kế lên đến mức báo động đỏ. Cứ thoáng ngửi thấy mùi caramen đang nấu là bà lão lụ khụ chống gậy ra khỏi cửa. Đến mụ Hilly mà bà ta còn chẳng cho vào nhà kia mà.
Tuần trước, đường và bơ khiến cả ngôi biệt thự của cô Celia tràn ngập mùi vị của Giáng sinh, dù rằng đó là nỗi xấu hổ không bút nào tả xiết của tháng Sáu. Như mọi bận, người tôi lại căng lên như dây đàn, tập trung nấu đường thành caramen. Tôi đã bảo cô ta tới ba lần, hết sức lịch sự, rằng tôi có thể đứng làm một mình được không, nhưng cô ta cứ một hai đòi ở bên cạnh tôi. Cô ta kêu cứ phải ngồi trong phòng ngủ suốt ngày, cô thấy buồn lắm.
Tôi cố gắng lờ cô ta đi. Khổ nỗi, khi đang làm bánh caramen, tôi phải được nói chuyện một mình, nếu không tay chân tôi lóng ngóng ghê lắm.
Tôi nói, “Ngày nóng nhất trong lịch sử tháng Sáu. Nhiệt độ ngoài trời những bốn mươi độ.”
Thế là cô ta bảo, “Nhà chị có máy điều hòa không? May mà ở đây có máy điều hòa nhỉ, vì từ bé tới lớn nhà tôi chẳng có cái máy này, nên tôi biết nóng bức khổ lắm.”
Thế là tôi đáp, “Nhà tôi lấy đâu ra tiền nuôi máy điều hòa. Mấy cái máy đấy ngốn điện ngang mọt ăn bông.” Rồi tôi bắt đầu ra sức khuấy thật mạnh vì lớp bọt màu nâu đang nổi lên trên mặt, đó là lúc phải canh chừng rất kỹ và tôi nói chẳng hề nghĩ ngợi, “Nhà chúng tôi đã trả hóa đơn tiền điện tháng này đâu,” và mọi người biết cô tagì không? Cô ta nói, “Ôi, Minny, ước gì tôi có thể cho chị vay tiền, nhưng dạo này anh Johnny hay hỏi han nhiều câu kỳ quặc lắm,” thế là tôi quay đầu lại để dạy dỗ cô rằng: mỗi lần một người da màu than phiền về chi phí sinh hoạt không có nghĩa là cô ta đang nài vay tiền, nhưng trước khi tôi kịp hở ra chữ nào, nồi caramen của tôi đã cháy khét lẹt.
TRONG BUỔI LỄ NHÀ THỜ CHỦ NHẬT, mụ Shirley Boon lên đứng trước toàn thể giáo đoàn. Với cặp môi vỗ phần phật như cờ, mụ nhắc nhở mọi người rằng cuộc họp “Các vấn đề chung” sẽ được tổ chức vào tối thứ Tư, để bàn kế hoạch thực hiện một cuộc biểu tình ngồi ở quán ăn trưa Woolworth trên phố Amite. Mụ Shirley tọc mạch béo phị chỉ tay vào mặt chúng tôi và nói, “Cuộc họp sẽ được bắt đầu vào lúc bảy giờ vì vậy mọi người hãy đến đúng giờ. Không lý do lý trấu gì hết!” Mụ ta khiến tôi nghĩ đến một mụ giáo da trắng mập ú xấu xí. Loại đàn bà chả ai thèm rước về làm vợ.
“Thứ Tư này cháu có đi họp không?” Cô Aibileen hỏi. Chúng tôi đi bộ về nhà trong cái nóng lúc ba giờ chiều. Tay tôi nắm chặt chiếc quạt giấy. Tôi quạt như điên, đến nỗi trông cứ như nó có gắn động cơ vậy.
“Cháu không có thì giờ,” tôi đáp.
“Cháu lại để ta đi một mình à? Đi đi mà, ta sẽ mang theo ít bánh gừng cùng vài...”
“Cháu nói cháu không đi được kia mà.”
Aibileen gật đầu, “Thế thôi vậy.” Rồi lại bước đi.
“Có lẽ... Benny sẽ lại lên cơn hen. Cháu không muốn bỏ nó ở nhà.”
“À ừ,” Aibileen đáp. “Khi nào sẵn sàng, cháu hẵng nói cho ta lý do thật nhé.”
Chúng tôi rẽ ở Gessum, đi vòng qua một chiếc xe đã chết đứ đừ vì trời nóng đang nằm giữa đường. “À, suýt nữa thì ta quên mất, cô Skeeter muốn qua đây tối thứ Ba này,” Aibileen nói. “Chừng bảy giờ. Cháu đến được không?”
“Trời ạ,” tôi nói, bụng lại giận sôi lên. “Cháu đang làm gì thế không biết? Chắc cháu điên mất rồi, sao lại cứ đi kể toàn bí mật chết người của người da màu cho một mụ da trắng nhỉ.”
“Nhưng đấy là cô Skeeter, cô ấy đâu có giống những người khác.”Cứ như cháu đang nói vụng sau lưng chính mình ấy,” tôi nói. Tính đến giờ tôi gặp cái cô Skeeter kia bét ra cũng đã năm lần. Ấy vậy mà cảm giác chẳng dễ dàng hơn là bao.
“Cháu không muốn đến nữa chứ gì?” Cô Aibileen hỏi. “Ta không muốn cháu có cảm giác bị buộc phải đến.” Tôi không trả lời.
“M, cháu vẫn nghe ta nói đấy chứ?” Cô ấy hỏi.
“Cháu chỉ... cháu chỉ mong đời con cháu sẽ khá hơn thôi,” tôi nói. “Nhưng đúng là quá thảm hại khi người làm việc đó lại là một phụ nữ da trắng.”
“Vậy thứ Tư này cháu đi họp đi. Ta và cháu sẽ nói chuyện thêm.” Aibileen nói với một nụ cười mỉm.
Tôi biết Aibileen sẽ không buông tha cho tôi nên đành thở dài. “Cháu đang gặp rắc rối, được chưa?”
“Với ai?”
“Shirley Boon,” tôi đáp. “Trong buổi họp lần trước, mọi người nắm tay nhau cầu nguyện bọn họ sẽ để người da màu dùng phòng vệ sinh da trắng, rồi bảo họ sẽ cùng ngồi xuống băng ghế ở tiệm Woolworth và không đấu tranh và tất cả đều cười hớn hở, làm như thế giới này sắp biến thành một chốn lung linh mới toanh không bằng. Thế là cháu... cháu đốp lại luôn. Cháu bảo Shirley Boon là đằng nào cũng chẳng có cái ghế nào ở tiệm Woolworth tải nổi cặp mông của mụ đâu.”
“Rồi Shirley nói gì?”
Tôi bèn lên giọng trịch thượng. “Nếu cô không nói nổi câu nào tử tị thì tốt nhất đừng nên nói gì cả.”
Khi hai cô cháu về đến nhà cô ấy, tôi nhìn sang Aibileen. Cô ấy dang khổ sở vì cố nén cười, đến nỗi mặt xanh lè cả ra.
“Có gì buồn cười đâu,” tôi nói.
“Ta rất mừng vì có cháu làm bạn, Minny Jackson ạ.” Và cô ấy ôm choàng lấy tôi thật chặt, cho đến khi tôi trợn cả mắt lên và nói rằng tôi phải về.
Tôi bước đi và rẽ ở góc phố. Tôi không muốn Aibileen biết điều đó. Tôi không muốn bất kỳ ai biết tôi cần mấy câu chuyện của cô Skeeter tới mức nào. Giờ tôi không thể vác mặt đến dự các cuộc họp của mụ Shirley Boon nữa, đó gần như là tất cả những gì tôi có. Tôi cũng chẳng bảo những cuộc gặp với cô Skeeter có gì vui vẻ. Mỗi lần hai bên chạm mặt, tôi kêu ca. Tôi gào thét. Tôi ph phát dại. Nhưng thành thật mà nói: Tôi thích được kể chuyện của mình. Cảm giác như tôi đang làm gì đó để tháo gỡ chúng. Khi tôi ra về, khối bê tông trong ngực tôi như mềm đi, tan ra, thế là tôi lại thấy dễ thở suốt mấy ngày liền.
Và tôi biết còn có vô vàn những việc “da màu” lchác tôi có thể làm, ngoài kể chuyện mình hoặc đến dự các cuộc họp của mụ Shirley Boon - cuộc họp mặt toàn thị trấn, cuộc biểu tình ở Birmingham, những đợt bỏ phiếu toàn bang. Nhưng sự thật là, tôi không quan tâm đến bỏ phiếu lắm. Tôi không quan tâm đến chuyện tôi có được ăn cùng quầy với người da trắng không. Điều tôi quan tâm là, liệu mười năm nữa, có còn mụ da trắng nào dám gọi con gái tôi là đồ bẩn thỉu và vu cho chúng nó tội trộm đồ bạc hay không.
Ở NHÀ TỐI HÔM ĐÓ, nồi đậu ngự bắt đầu sôi lăn tăn, thịt rán đã sẵn sàng trên chảo.
“Kindra, mời mọi người vào đi,” tôi nói với con bé con sáu tuổi. “Ta ăn cơm được rồi.”
“Ăn tốiiiiiiiii,” Kindra gào tướng lên, chân không nhúc nhích một phân nào.
“Ra mời bố vào cho tử tế mau lên,” tôi quát. “Mẹ đã nói thế nào rồi, không được hò hét trong cái nhà này cơ mà?”
Kindra trợn mắt nhìn tôi cứ như nó vừa bị sai làm việc ngu ngốc nhất trần đời này vậy. Nó giậm chân thình thịch dọc hành lang. “Ăn tốiiiiiiiii!”
“Kindra!”
Bếp là căn phòng duy nhất trong nhà có thể tải nổi tất cả các thành viên. Những phòng còn lại đều được chuyển thành phòng ngủ hết. Phòng của tôi và Leroy ở phía sau, kế đến là một căn phòng nhỏ cho Leroy Bé và Benny, và phòng khách phía trước được tận dụng làm phòng ngủ cho Felicia, Sugar, và Kindra. Phòng duy nhất còn chừa lại là nhà bếp. Trừ phi ngoài trời lạnh cắt da cắt thịt, còn không cửa hậu lúc nào cũng mở, chỉ có cửa lưới đóng để ruồi muỗi khỏi vào nhà. Trong nhà không lúc nào ngơi tiếng trẻ con hò hét, tiếng xe cộ gầm rú, tiếng hàng xóm láng giềng và tiếng chó sủa.
Lercy đi vào và ngồi xuống cạnh Benny, thằng bé đã lên bảy. Felicia rót sữa hoặc nước vào cốc cho mọi người. Kindra bưng một đĩa đậu và thịt ra cho bố nó trước rồi ra đứng cạnh bếp chờ lấy thêm. Tôi đưa cho nó một đĩa nữa.
“Đĩa này cho anh Benny nhé,” tôi b
“Benny, đứng dậy giúp mẹ đi,” Leroy sai.
“Benny bị hen. Nó không phải làm gì hết.” Nhưng thằng cu con ngoan như bụt của tôi vẫn đứng dậy, đỡ cái đĩa từ tay Kindra. Mấy đứa nhà tôi sáng việc lắm.
Tất cả đều ngồi vào bàn, trừ tôi. Tối nay ở nhà có ba đứa. Thằng Leroy Bé, bây giờ đang học năm cuối ở trường trung học Lenier, đang gói hàng ở tiệm Jitney 14. Đấy là cửa hàng bách hóa của dân da trắng bên khu mụ Hilly ở. Sugar, đứa con gái lớn nhất, đang học lớp mười, sang giữ trẻ cho chị hàng xóm Tallulah phải đi làm đến tối muộn. Khi nào xong việc, Sugar sẽ đi bộ về nhà rồi chở bố nó đi làm ca tối ở nhà máy đúc ống, sau đó đón Leroy Bé từ cửa hàng về. Bốn giờ sáng Leroy Lớn sẽ đi nhờ xe của chồng Tallulali về nhà. Mọi việc đã cắt đặt đâu vào đấy cả.
Leroy ăn nhưng mắt vẫn dán vào tờ Jackson Journal đặt cạnh đĩa. Anh ta vốn chưa bao giờ được tiếng là người lịch sự bặt thiệp mỗi lúc vừa thức dậy. Tôi đứng bên cạnh bếp nhòm sang và thấy ảnh cuộc biểu tình ngồi ở hiệu thuốc Brown được đưa lên trang nhất. Đấy không phải nhóm của mụ Shirley, mà là mấy người ở Greenwood. Mấy đứa choai choai da trắng đứng ngay sau lưng năm người biểu tình đang ngồi trên ghế đẩu, ra sức chế giễu và chọc ngoáy, còn đổ cả sốt cà chua, mù tạt và muối lên đầu họ.
“Sao họ lại chịu thế hả bố?” Felicia chỉ vào tấm hình. “Cứ ngồi im không phản ứng gì à?”
“Thì họ phải làm thế mà,” Leroy đáp.
“Em chỉ muốn nhổ vào cái ảnh đấy,” tôi nói.
“Để sau hẵng nói.” Leroy gấp tờ báo làm tư và kẹp dưới đùi.
Felicia quay sang bảo Benny, chẳng thẽ thọt gì cho cam, “May mà mẹ không ở trong số mấy người ngồi ghế đấy nhỉ. Không thì răng cả mấy đứa da trắng đã bay sạch rồi.”
“Thế thì mẹ sẽ phải vào tù Parchman,” Benny đáp, đủ để cả xóm nghe thấy.
Kindra chống nạnh. “Không nhé. Đố đứa nào dám cho mẹ vào tù. Em sẽ lấy gậy phang cho bọn da trắng tóe máu ra.”
Leroy chỉ tay vào mặt từng đứa một. “Bố không muốn nghe một từ nào về chuyện đó bên ngoài cái nhà này. Như thế quá nguy hiểm. Nghe chửa, Benny? Felicia?” Rồi anh ta chỉ vào mật Kindra. “Nghe chửa?
Benny và Felicia gật đầu, cắm mắt vào đĩa. Tôi thấy hối hận vì đã lỡ khơi mào mọi chuyện và quay sang nhìn Kindra, ra hiệu con-im-đi. Nhưng Quý cô bé nhỏ đáo để đập bẹt chiếc nĩa xuống bàn, rồi nhảy tót khỏi ghế. “Con ghét bọn da trắng! Con sẽ nói cho tất cả mọi người biết nếu con muốn!”
Tôi co cẳng chạy dọc hành lang đuổi theo nó. Bắt được rồi, tôi xách cổ nó đưa trở lại bàn.
“Bố, con xin lỗi,” Felicia vội đón lời, lúc nào con bé cũng nhận hết tội lỗi của người khác về mình. “Con sẽ coi chừng Kindra. Nó không hiểu nó nói gì đâu ạ.”
Nhưng Leroy đập tay lên bàn đánh thình. “Không ai được dính vào những chuyện đó! Cả nhà nghe thủng chưa?” Và anh ta trợn mắt lườm bọn trẻ. Tôi quay mặt ra bếp để anh ta khỏi nhìn thấy mặt tôi. Nếu anh ta phát hiện ra việc tôi đang làm với cô Skeeter, lúc ấy chỉ có trời mới giúp nổi tôi.
SUỐT CẢ TUẦN TIẾP THEO, tôi lại nghe thấy tiếng cô Celia nói chuyện trên điện thoại trong phòng, để lại lời nhắn ở nhà mụ Hilly, nhà Elizabeth Leefolt, nhà cô Parker, nhà của cả hai chị em Cadwell, và cả chục bà phụ nữ khác trong hội. Kể cả nhà cô Skeeter, tôi không khoái vụ này một chút nào. Tôi lầm bầm một mình như đang nói với cô Skeeter: Đừng hòng nghĩ đến chuyện gọi lại cho cô ta. Mọi chuyện đã đủ lằng nhằng lắm rồi, đừng làm rối thêm nữa.
Cáu một nỗi, sau khi cô Celia gọi xong mấy cuộc điện thoại ngu xuẩn kia và gác máy, cô ả lập tức nhấc cái ống nghe lên ngay. Cô ta chong tai nghe tiếng tút dài, để đảm bảo đường dây vẫn thông suốt.
“Cái điện thoại đấy có làm sao đâu,” tôi bảo. Nhưng cô ta cứ cười hơn hớn với tôi, cô đã giữ cái điệu đó suốt cả tháng nay rồi, cứ như đang có đầy tiền trong túi không bằng.
“Sao cô vui thế?” Cuối cùng tôi đành hỏi. “Ông Johnny lại âu yếm cưng nựng hay gì à?” Tôi đang chuẩn bị giở bài “Cô tính bao giờ nói” nhưng cô ta đã kịp ra tay trước.
“Ôi, lúc nào anh ây cũng ngọt ngào hết. Tôi sắp nói cho anh ấy biết về chị rồi, sẽ không còn lâu nữa đâu.”
“Tốt,” tôi nói và thật lòng nghĩ thế. Tôi đã phát ốm vì trò dối trá này rồi. Tôi cứ tưởng tượng ra lúc cô ta phải cố mỉm cười với ông Johnny khi bưng đĩa cốt lết tôi làm ra cho chồng, rồi người đàn ông tốt bụng đó như ông ấy vô cùng hãnh diện vì cô vợ, trong khi ông ta thừa biết chính tôi mới là người nấu. Cô ta đang biến mình thành một con ngốc, biến người chồng tử tế thành mộc thằng ngốc, và biến tôi thành một kẻ dối trá.
“Minny, chị làm ơn đi lấy thư cho tôi được không?” Cô ta hỏi mặc dù đang ngồi ệch ra, quần áo chỉnh tề, còn tôi thỉ tay dính đầy bơ, quần áo đang giặt dở trong máy, còn máy trộn thì đang chạy ầm ầm. Cô chẳng khác gì một ả Philistine vô học giữa một ngày Chủ nhật, với cái cách cô không bao giờ đi quá vài bước chân mỗi ngày. Trừ phi ở đây ngày nào cũng là Chủ nhật.
Tôi rủa sạch tay và đi ra chỗ đặt thùng thư, trên đường tôi đổ mất phải đến cả lít mồ hôi. Mà nhiệt độ ngoài trời mới có ba mươi bảy thôi đấy. Trên bãi cỏ có một gói bưu phẩm cao chừng nửa mét, nằm ngay cạnh thùng thư. Tôi đã từng nhìn thấy cô ta với mấy thùng nâu nâu giống y thế nào, tôi đoán chắc đấy là phấn sáp gì đó cô ta đặt mua. Nhưng khi tôi nhấc lên, cái thùng nặng trịch. Bên trong lại phát ra những tiếng lanh canh, cứ như tôi đang bê một két Co-Cola vậy.
“Cô Celia, cô có bưu phẩm này.” Tôi đặt phịch chiếc thùng xuống sàn bếp.
Tôi chưa bao giờ thấy cô ta nhảy dựng lên nhanh đến thế. Thật ra, việc duy nhất cô làm nhanh là mặc quần áo. “Chỉ là…” Cô nói lí nhí cái gì đấy trong miệng, rồi tự mình vần cái hộp lên trên phòng ngủ và tôi nghe thấy tiếng cửa đóng sập lại.
Một tiếng sau, tôi quay lại phòng cô để hút bụi mấy tấm thảm. Cô Celia không nằm trên giường, cũng không có trong nhà vệ sinh. Tôi biết cô ta không ở trong bếp, phòng khách hay ngoài bể bơi, vả lại, tôi cũng vừa mới quét dọn phòng khách số một và số hai cũng như hút bụi cho con gấu xong. Như thế có nghĩa là cô ta đang ở trên gác. Trong mấy căn phòng ghê rợn.
Trước khi bị đuổi việc vì dám tố lão Quản lý Da trắng đội tóc giả, tôi đã từng dọn dẹp phòng đại tiệc ở khách sạn Robert E. Lee. Những gian phòng rộng mênh mông không một bóng người, chỉ còn mấy tấm khăn dính vết son môi và mùi nước hoa vương lại khiến tôi ớn lạnh xương sống. Cả gian gác ở nhà cô Celia cũng vậy. Trên đó còn có cả một chiếc nôi cổ lỗ sĩ và cái mũ em bé ông Johnny đội hồi mới đẻ cùng một quả chuông bạc, tôi thề thỉnh thoảng tôi vẫn nghe thấy tiếng nó kêu leng keng. Cứ nghĩ đến tiếng leng keng ấy, tôi lại tự hỏi không biết mấy cái hộp kia có liên quan gì đến việc ngày nào cô ta cũng lẻn lên gác không.
Tôi quyết định đã đến lúc lên trên đó và tự mình xem xét.
NGÀY HÔM SAU tôi không rời mắt khỏi cô Celia, chờ đến lúc cô ta lẻn lên trên gác để xem cô ta đang thậm thụt làm gì. Đến chừng hai giờ chiều, cô ta thò đầu vào bếp và nở một nụ cười ngớ ngẩn với tôi. Một phút sau, tôi nghe có tiếng cọt kẹt trên trần nhà.
Thật chậm rãi, tôi rón rén ra cầu thang. Dù tôi đã cố nhón chân thật khẽ, song bát đĩa trong tủ vẫn kêu. loảng xoảng, ván lát sàn thì rít lên ken két. Từ từ bước lên gác, tôi có thể nghe thấy cả tiếng thở của chính mình. Lên đến nơi, tôi đi men theo dải hành lang sâu hun hút. Tôi đi qua những cánh cửa phòng ngủ rộng mở, một, hai, ba. Cánh cửa thứ tư, ở cuối hành lang, khép kín, chỉ hé ra chừng hai, ba phân. Tôi tiến lại gần hơn. Và qua khe hở, tôi nhìn thấy cô ta.
Cô ta đang ngồi trên chiếc giường đôi kê sát cửa sổ và không hề cười. Kiện hàng tôi bê từ chỗ thùng thư vào đã bị mở tung và trên giường la liệt hơn chục cái chai đựng đầy thứ chất lỏng màu nâu. Hơi nóng thiêu đốt bắt đầu dâng lên ngực, lên cổ, lên miệng tôi. Tôi đã quá quen mặt mấy cái chai vuông đó. Tôi đã hầu hạ một gã nát rượu khốn nạn suốt mười hai năm ròng và đến khi ông bố lười biếng, giẻ rách của tôi chết, tôi đã thề trước Chúa với đôi mắt nhòe nước, rằng tôi sẽ không bao giờ lấy một kẻ như thế. Và tôi đã lấy.
Và giờ tôi ở đây, hầu hạ một kẻ nát rượu khốn kiếp khác. Đó thậm chí còn không phải là rượu mua ngoài hàng, mà lại là loại có nút bịt bằng sáp đỏ, giống y như thứ ông Toad bác tôi dùng để nút mấy chai rượu lậu. Mẹ luôn bảo tôi rằng, những thằng nghiện rượu chính hạng, như bố tôi, thường uống rượu nhà nấu vì loại đó nặng hơn nhiều. Giờ thì tôi biết, cô ta chỉ là một đứa ngu độn, hệt như ông bố tôi và Leroy khi hắn đâm đầu vào quán Old Crow, có khác chăng là cô không cầm chảo rượt tôi.
Cô Celia nhặt một chai lên và nhìn nó đắm đuối như thể đức chúa Jesus đang ở trong đó và cô không thể chờ đến lúc được cứu vớt. Cô mở nút, nhấp một ngụm, và thở dài. Rồi cô tu ba hơi dài nữa và nằm vật xuống mấy chiếc gối đắt tiền.
Toàn thân tôi bắt đầu run lên bần bật, khi nhìn thấy vẻ thỏa mãn lướt qua khuôn mặt cô. Cô ả quá nôn nóng được uống món giải khát của mình, đến mức còn không kịp đóng cửa lại. Tôi phải nghiên chặt răng để không gào vào mặt cô. Cuối cùng tôi cũng ép mình trở xuống dưới.
Mười phút sau, cô Celia đi xuống ngồi bên bàn bếp, hỏi tôi đã muốn ăn trưa chưa.
“Có cốt lết trong tủ lạnh đấy, trưa nay tôi không muốn ăn,” tôi nói và đùng đùng b ra khỏi phòng.
Chiều hôm đó cô Celia ngồi lì trên bồn cầu trong nhà vệ sinh. Chiếc máy sấy đặt trên két nước, còn lồng chụp úp lên cái đầu mới nhuộm. Với cả đống lùng nhùng đó, đến tiếng bom nguyên tử nổ chắc cô ta cũng chẳng nghe thấy.
Tôi bước lên gác, tay cầm mấy miếng vải dầu và tự tay tôi mở chiếc tủ đó ra. Hai tá chai whisky được giấu trong mấy tấm chăn cũ bẩn thỉu chắc cô Celia đã tha từ quận Tunica quê cô lên. Toàn bộ chai đều không có nhãn mác, chỉ có mảnh tem với mấy chữ OLD KENTUCKY dán lên. Mười hai chai đầy ắp, sẵn sàng cho ngày mai. Mười hai chai đã sạch trơn từ tuần trước. Y như mấy căn phòng ngủ chết giẫm kia. Chẳng trách tại sao ả điên không có con.
VÀO NGÀY THỨ NĂM đầu tiên của tháng Bảy, vào đúng mười hai giờ trưa, cô Celia thức dậy để chuẩn bị học nấu ân. Cô ta mặc một cái áo len trắng chật căng đủ khiến một con điếm cũng ra dáng ngây thơ vô tội. Tôi thề là cứ mỏi tuần trôi qua, quần áo của cô ta lại chật đi một chút.
Chúng tôi yên vị ở chỗ của mình, tôi ở cạnh bếp, cô ta ngồi trên ghế đẩu. Tôi hầu như không nói với cô ta từ nào kể từ khi nhìn thấy mấy chai rượu hồi tuần trước. Tôi không cáu. Tôi phẫn nộ. Nhưng suốt sáu ngày vừa qua tôi đã không ngừng thề thốt rằng mình sẽ làm theo Quy tắc thứ nhất của mẹ. Nói bất cứ điều gì cũng có nghĩa là tôi lo lắng đến cô ta, mà tôi thì thèm vào. Cô ta có là một kẻ lười biếng, nát rượu hay không, đó không phải việc của tôi, và tôi cũng chẳng cần quan tâm.
Chúng tôi xếp thịt gà sống bao bột lên giá. Sau đó tôi phải nhắc cô ả đãng trí đến lần thứ một tỷ rằng phải rửa sạch tay, nếu không cô sẽ giết cả hai chúng tôi mất.
Tôi nhìn thịt gà kêu xèo xèo, cố quên đi sự có mặt của cô ta. Rán thịt gà luôn khiến tôi nhìn đời tươi sáng hơn. Tôi gần như quên hẳn mình đang giúp việc cho một ả nghiện rượu. Khi rán xong hết, tôi cất phần lớn vào tủ lạnh cho bữa tối hôm đó. Phần còn lại tôi bày ra đĩa để ăn trưa. Cô ta ngồi vào bàn bếp đối diện với tôi, như mọi khi.
“Chị ăn phần ức đi,” cô ta nói, đôi mắt xanh biếc dán vào tôi. “Chị gắp đi.”
“Tôi ăn chân với đùi,” tôi nói, đoạn xắn mấy miếng đó ra khỏi đĩa. Tôi lật qua tờ Jackson Journal, giở đến trang đời sống. Tôi dựng đứng tờ báo lên trước mặt để khỏi phải nhìn thấy mặt cô ta.
“Nh chỗ đó toàn xương xẩu thôi mà.”
“Nhưng ngon. Béo.” Tôi vẫn cắm mắt vào đọc, cố lờ tịt cô ta.
“Vậy,” cô ta nói, đoạn nhón lấy miếng ức, “tôi với chị ăn thịt gà chung là hợp nhất đấy.” Một phút sau, cô ta đế thêm, “Chị biết không Minny, tôi thấy mình thật may mắn vì có chị làm bạn.”
Tôi cảm thấy nỗi ghê tởm nóng bỏng, đặc quánh dâng lên tận ngực. Tôi hạ tờ báo xuống và nhìn cô ta chòng chọc. “Không, thưa cô. Chúng ta không phải là bạn.”
“Ấy... có chứ.” Cô ta cười, cứ như đang ban ơn cho tôi vậy.
“Không, cô Celia. Không đúng.”
Cô ta chớp chớp hàng mi giả nhìn tôi. Thôi đi, Minny, tôi thầm nhủ trong bụng, nhưng thừa biết là không thể. Tôi biết, bằng hai nắm đấm trong tay mình, rằng tôi không thể nhịn thêm một giây một phút nào nữa.
“Có phải...” Cô ta nhìn xuống miếng thịt gà của mình. “Vì chị là người da màu không? Hay vì chị không... không muốn làm bạn với tôi?”
“Có rất nhiều lý do, chuyện cô da trắng còn tôi da đen chỉ là một trong số đó.”
Giờ thì cô ta không cười nữa. “Nhưng... tại sao?”
“Vì khi tôi nói với cô tôi chưa trả tiền điện, thế không có nghĩa là tôi đang xin tiền cô,” tôi nói.
“Ôi Minny...”
“Vì cô không chịu dành cho tôi phép lịch sự tối thiểu, là báo với chồng cô tôi đang làm việc ở đây. Vì cô ở lì trong ngôi nhà này hai mươi tư giờ một ngày, khiến tôi muốn phát điên.”
“Chị không hiểu rồi, tôi không thể. Tôi không thể ra ngoài được.”
“Nhưng tất cả bây nhiêu đó cũng chẳng là cái thá gì, nếu so với điều tôi vừa mới biết.”
Mặt cô ta tái dại đi sau lớp phấn sáp.
“Suốt thời gian qua, tôi đã nghĩ cô đang chết dần chết mòn vì ung thư hay bị thần kinh. Ôi cô Celia tội nghiệp, nằm suốt ngày dài như thế.
“Tôi biết là khó lắm...”
“Ô, tôi biết cô không có bệnh. Tôi đã nhìn thấy cô với mấy cái chai lúc ở trên gác. Cô không lừa được tôi nữa đâu.”
“Chai ư? Ôi, lạy Chúa, Minny, tôi...”
“Tôi phải đổ hết mấy chai đó xuống cống. Tôi phải nói cho ông Johnny biết...”
Cô ta đứng bật dậy, xô đổ cả chiếc ghế đang ngồi. “Chị dám nói...”
“Cô làm ra vẻ thèm có con lắm, trong khi cô nốc đủ để giết chết một con voi!”
“Minny, nếu chị mách với anh ấy, tôi sẽ đuổi chị!” Mắt cô ta ầng ậng nước. “Nếu chị dám động vào mấy cái chai đấy, tôi sẽ đuổi chị ngay lập tức!”
Nhưng máu nóng đã dâng bừng bừng lên đầu, tôi không thể dừng được nữa. “Đuổi tôi ư? Còn có ai khác muốn mò ra tận đây và lén lút làm việc trong khi cô nốc say bét nhè rồi chết dí ở nhà suốt ngày chứ?”
“Chị tưởng tôi không đuổi được chị ư? Minny, công việc của chị kết thúc từ hôm nay!” Cô ta khóc nức nở và chỉ tay vào mặt tôi. “Chị ăn nốt chỗ thịt gà của chị rồi biến về nhà ngay đi!”
Cô ta cầm chiếc đĩa có miếng thịt trắng của mình lên và lao ra cửa. Tôi nghe thấy tiếng đĩa đập keng xuống mặt chiếc bàn dài sang trọng trong phòng ăn, tiếng chân ghế mài xuống sàn. Tôi ngồi thụp xuống ghế vì chân tôi đang run rẩy không ngớt, và nhìn mấy miếng thịt gà trân trối.
Tôi vừa mất việc thêm một lần nữa.
TÔI THỨC DẬY lúc bảy giờ sáng thứ Bảy, đầu đau như búa bổ còn lưỡi tê buốt. Chắc tôi đã cắn nó suốt cả đêm qua.
Leroy nheo mắt nhìn tôi vì anh ta biết có chuyện gì đó không ổn. Anh ta biết từ tối hôm qua, khi đang ăn cơm và đánh hơi thấy nó khi bước vào nhà lúc năm giờ sáng nay.
“Cáu cái gì thế kia? Cô không gây rắc rối gì ở chỗ làm đấy chứ?” Anh ta hỏi đến lần thứ ba.
“Đây chả cáu ai cả, cáu năm đứa con với chồng ấy. Mấy người làm tôi muốn phát điên lên đây.”
Điều cuối cùng tôi muốn anh ta biết là tôi vừa cãi nhau với một bà chủ da trắng khác và đã bị đuổi việc thêm một lần nữa. Tôi chui vào chiếc váy tím mặc ở nhà và đùng đùng bỏ ra bếp. Tôi lao vào lau dọn như thể căn bếp chưa từng được lau dọn bao giờ.
“Mẹ, mẹ đi đâu đấy?” Kindra gào ầm lên. “Con đói.”
“Mẹ sang nhà bà Aibileen. Mẹ muốn ở với một người không kéo áo mẹ chỉ năm phút thôi.” Tôi đi qua Sugar đang ngồi trên bậc thềm. “Sugar, con vào làm cái gì cho Kindra ăn sáng đi.”
“Nó ăn rồi mẹ ạ. Mới nửa tiếng trước.”
“Đấy, nó lại đói rồi.”
Tôi đi bộ qua hai dãy nhà đến nhà Aibileen, qua đường Tick xuống phố Farish. Mặc dù trời nóng như thiêu và hơi nước đá bốc nghi ngút trên lớp nhựa rải đường, nhưng bọn trẻ vẫn ném bóng, đá lon, nhảy dây. “Chào chị, Minny,” cứ vài chục bước chân lại có người gọi tôi. Tôi gật đầu, nhưng không vồ vập. Không phải hôm nay.
Tôi đi xuyên qua khu vườn của Ida Peek. Cửa bếp nhà Aibileen mở toang. Aibileen đang ngồi bên bàn đọc một trong những quyển sách cô Skeeter lấy cho cô ấy từ thư viện da trắng. Nghe thấy tiếng cửa lưới kêu ken két, cô ấy nhìn lên. Chắc cô ấy đoán được ngay tôi đang cáu.
“Lạy Chúa lòng lành, ai làm gì cháu thế?”
“Celia Rae Foote chứ ai.” Tôi ngồi xuống đối diện với cô ấy. Aibileen đứng dậy và đi rót cho tôi ít cà phê.
“Cô ta làm gì?”
Tôi kể cho cô ấy nghe về mấy cái chai tôi tìm thấy. Tôi chẳng hiểu sao mình không kể từ một tuần rưỡi trước đây khi mới tìm thấy chúng. Có lẽ tôi không muốn cô biết một điều kinh khủng đến thế về cô Celia. Có lẽ tôi cảm thấy cắn rứt vì chính Aibileen là người kiếm cho tôi công việc này. Nhưng giờ thì điên lắm rồi, tôi bèn nói toạc ra tất cả.
“Sau đó cô ta đuổi cháu.”
“Ôi, trời thần ơi, Minny.”
“Cô ta nói cô ta sẽ tìm được người khác. Nhưng ai mà thèm giúp việc cho cô ta? Một đứa ở đần độn nhà quê mãi ngoài vùng đó thì làm sao biết tí gì về lau dọn mới chả phục vụ.”
“Cháu đã nghĩ đến chuyện xin lỗi chưa? Có khi thứ Hai cháu cứ đến, rồi nói chuyện với...”
“Cháu không xin lỗi một đứa nát rượu. Cháu chưa bao giờ xin lỗi bố cháu và cháu chắc chắn sẽ không xin lỗi cô ta.” Cả hai chúng tôi đều im lặng. Tôi đẩy cốc cà phê ra, mắt săm soi con ruồi trâu đang vo ve ngoài cửa lưới, rồi ra sức đâm bổ cái đầu xấu xí của nó vào lưới, độp, độp, độp, cho đến khi nó rơi bộp xuống bậc thềm. Nó quay mòng mòng tứ phía như một con điên.
“Cháu không ngủ được. Không ăn được,” tôi nói.
“Ta nói thật, cái cô Celia kia chắc là người tệ nhất mà cháutừng giúp việc đấy nhỉ.”
“Ai cũng tệ. Nhưng cô ta là tệ nhất.”
“Thật không? Cháu còn nhớ cái lần bà Walter bắt cháu đền tiền cho cái ly pha lê cháu đánh vỡ không? Trừ mười đô-la vào lương cháu thì phải? Sau đó cháu phát hiện ra người ta bán cái ly đó ở tiệm Carter với giá có ba đô-la ấy?”
“À vâng.”
“Ô, mà cháu có nhớ lão Charlie điên không, cái lão lúc nào cũng sủa vào mặt cháu là đồ mọi đen, làm như trò đấy vui lắm ấy. Cả mụ vợ lão ấy nữa, mụ cứ bắt cháu phải ăn ngoài trời, ngay cả giữa tháng Một? Ngay cả khi trời đổ tuyết?”
“Chỉ nghĩ đến thôi cháu đã rét run rồi.”
“Và còn…” Aibileen vừa cười khùng khục, vừa cố nói. “Còn bà Roberta nữa? Cái bà bắt cháu ngồi im trong bếp để bà ta thử loại thuốc nhuộm mới trên đầu cháu ấy?” Aibileen lau mắt. “Trời đất, trước đó ta chưa bao giờ nhìn thấy người da đen nào có tóc xanh cả, từ dạo đó đến giờ cũng chưa. Leroy còn bảo trông cháu như một con rồ từ ngoài hành tinh rơi xuống cơ mà.”
“Có gì đáng cười đâu. Cháu phải mất ba tuần với hai mươi lăm đô-la mới lấy lại được mái tóc đen như cũ đấy.” Aibileen lắc đầu, hắt ra một tiếng “hààààà” cao vút, rồi nhấp một ngụm cà phê.
“Thế còn cô Celia,” cô ấy nói. “Cô ta đối xử với cháu thế nào? Cô ta trả cho cháu bao nhiêu để chịu đựng ông Johnny và những buổi học nấu ăn? Chắc là rẻ mạt hơn tất cả các bà chủ khác nhỉ.”
“Côcô ta trả cháu gấp đôi còn gì.”
“A, phải rồi. Ấy, nhưng mà còn hàng đống bạn bè vẫn qua chơi với cô ta nữa chứ, báo hại cháu phải theo sau dọn dẹp suốt ngày.”
Tôi chỉ nhìn cô.
“Cả chục đứa con cô ta có nữa.” Aibileen áp chiếc khăn lên miệng, cố che đi nụ cười. “Chắc cháu phải phát điên vì chúng hò hét, bày bừa khắp cái nhà to đùng ấy nhỉ.”
“Cô Aibileen, cháu nghĩ cô nói thế là đủ rồi đấy.”
Aibileen cười, đoạn vỗ lên tay tôi. “Ta xin lỗi. Nhưng cháu là bạn thân nhất của ta. Và ta nghĩ cháu đang có một công việc rất tốt. Cô ta chỉ nhấp có một hai ngụm để giải sầu qua ngày thì có hề gì đâu? Thứ Hai cháu cứ đến nói chuyện với cô ta đi.”
Mặt tôi nhăn tít lại. “Cô nghĩ cô ta sẽ nhận lại cháu ư? Sau tất cả những gì cháu đã nói?”
“Chẳng còn ma nào thèm giúp việc cho cô ta đâu. Cô ta thừa biết mà.”
“Vâng. Cô ta đần độn thật.” Tôi thở dài. “Nhưng cô ta không ngu.”
Tôi về nhà, chẳng buồn nói cho Leroy biết chuyện gì đã khiến tôi bực mình, nhưng tôi nghĩ về nó cả ngày và cả mấy buổi cuối tuần. Tôi đã bị đuổi nhiều lần hơn số ngón tay tôi có. Tôi thầm cầu xin Chúa để tôi lấy lại được công việc của mình vào thứ Hai này.