Chương 46
Quãng Trường Grosvenor, Luân Đôn

    
ai giờ 10 phút chiều thứ sáu
Tổng đài của Đại sứ quán nhận được một cuộc gọi trực tiếp ngay trước khi ngài đại sứ kịp bước qua cửa chính của dinh Wifield. John O’Donnel – chuyên gia đàm phán trong các vụ bắt cóc con tin của FBI – chỉ có thời gian 5 phút để chuẩn bị cho tuyên bố. Anh nhanh chóng tách ban của Trung tâm OPS ra làm hai đội. Một đội chuyên trị mấy gã lang băm hay làm các trò bịp, đội khác thì thực hiện việc nghe lỏm bất kỳ cuộc gọi điện thoại nào nghe có vẻ đáng nghi ngờ. Chính O’Donnel tự phân công cuộc gọi đến các đội khác nhau cho phù hợp. Bây giờ anh cũng làm y như vậy sau khi nghe qua những cuộc đàm thoại, thường là cỡ ba mươi giây chứ không hơn. Bản năng bảo anh rằng không một ai trong số những người anh đã nghe lại có thể là những tên bắt cóc thật sự, ngay cả khi đám người đó được chuyển qua cho đội thứ hai để điều tra thêm. Anh không tiết lộ điều này cho bất kỳ ai trong văn phòng dưới tầng hầm của Đại sứ quán vì những con người này đang quá mệt mỏi rồi.
Hai giờ sau sự xuất hiện của Robert Halton trước ống kính, O’Donnel dùng đường thuê bao riêng gọi vào tổng đài toà đại sứ. “Đang có bao nhiêu cuộc gọi chờ?”.
“Ba mươi tám”, viên trực tổng đài trả lời. “Mà chờ đã… để xem…bốn mươi hai…bốn mươi bốn…bốn mươi bảy”.
“Cứ để họ làm việc”.
O’Donnel gác máy, nhanh chónh xử lí tiếp mười cuộc gọi khác. Anh phân cho đội số một bảy cuộc – nhóm này chuyên xử lí mấy vụ việc kỳ lạ và ba cho đội số hai. Anh nhận thấy rằng không ai trong số mấy người gọi kia có thể là những tên bắt cóc Elizabeth Halton. Anh định nhắc máy gọi tiếp, nhưng đúng lúc đó đường dây riêng của anh lại reo. Bên kia đầu dây là giọng của người trực tổng đài.
“Tôi nghĩ tôi có cái mà anh đang tìm”.
“Máy phân tích giọng nói?”.
“Đúng”.
“Chuyển sang đường dây này sau khi tôi gác máy nhé”.
“Hiểu”.
O’Donnel gác máy. Mười giây sau, chuông điện thoại réo lên, anh nhấc máy, nhẹ nhàng áp sát vào tai.
“John O’Donnel – Cục điều tra liên bang. Tôi giúp gì được cho anh?”
“Tao đã cố gắng liên lạc với mày cả nửa giờ rồi đấy”, giọng nói trong ống nghe đã bị bóp méo.
“Chúng tôi đang cố gắng hết sức, mà hai mươi triệu đang ở trên bàn kia kìa. Nhiều kẻ đang muốn lấy nó mà không biết lượng sức”.
“Tao không phải là không biết lượng sức. Tao chính là người mày phải nói chuyện”.
“CHứng minh đi. Nói tao nghe mày để cái DVD của Elizabeth Halton ở đâu”.
“Tụi tao đặt dưới cái thuyền chèo trên bãi biển chỗ Beacon Point”.
O’Donnel lấy tay bịt đầu nói của ống nghe, khoát tay ra hiệu cho mọi người im lặng rối quay sang Kevin Barnett (người bên CIA) ra hiệu bảo anh ta nhắc máy phụ lên nghe.
“Nếu mày muốn thương lượng, tao không ngại”, O’Donnel nói.
“Nếu không, đừng hòng mà mong tao gọi nữa”.
“Mày có cô gái?”.
“Đúng”.
“Tao cần chứng cứ chắc chắn”.
“Không có thời gian”.
“Vậy tao cần thêm thời gian. Mày chỉ cần trả lời tao một câu hỏi. Chỉ tốn một phút”.
“Một thoáng im lặng. “Hỏi đi”.
“Khi Elizabeth còn nhỏ, con bé có cưng một con thú bông. Tao muốn mày cho tao biết đó là con gì và tên gọi của nó. Tao sẽ cho mày một số điện thoại khác. Gọi lại cho tao khi mày có câu trả lời. Lúc đó ta sẽ bàn cách giao tiền”.
“Phải chắc chắn là mày nhấc máy đấy. Bằng không thì con nhỏ tiêu đời”.
Đầu dây bên kia bất ngời cúp. O’Donnel gác ống nghe và nhìn Barnett.
“Tôi gần như chắc rằng đó chính là hắn”.
“Tạ ơn Chúa”, Barnett nói. “Mong là hắn ta đang giữ con bé”.

o O o
Elizabeth thức dậy bởi một tiếng động. Cô giật nảy mình, người ướt đẫm mồ hôi. Cô ngước nhìn bóng đèn trắng nhờ nhờ bên trên chiếc giường. Lại nằm mơ. Giấc mơ hệt như mấy lần cô vừa lơ mơ chìm vào giấc ngủ trước đó. Mấy tên trùm đầu. Một cái máy quay phim. Một con dao. Cô giở tay áo lên để sờ vào cổ và nhận thấy cổ mình vẫn không sao. Một hồi sau, cô nhìn xuống sàn xi-măng và thấy dòng chữ. Một con mắt đang dò theo cô qua một cái lỗ như để đề phòng cô có thể tìm cách trốn thoát. Con mắt tối tăm và tàn bạo. Con mắt của Cain.
Cô ngồi dậy và duỗi đôi chân đang bị cùm của mình ra sàn rồi đứng dậy lê người về phía cửa. Dòng chữ nằm thẳng đứng, phông chữ đủ to để cô có thể đọc mà không cần cúi xuống để nhặt lên. Là một câu hỏi được viết ra trên giấy như bao lần trước. Nhưng câu hỏi này lại khác hẳn. Cô khẽ trả lời chậm rãi rồi quay lại giường và khóc mãi không thôi. Hy vọng gì nữa, cô tự nhủ. Mày còn dám hy vọng gì nữa.
Chuông điện thoại trên đường dây riêng của John O’Donnel ở Trung tâm OPS vang lên lúc 3 giờ 9 phút. Lúc này, anh chẳng buồn giới thiệu mình là ai.
“Có thông tin tao cần chưa?”
“Cô gái gọi tên nó là gì?
“Đó là con cá voi nhồi bông”.
“Cá”, gã nói. “Con bé gọi con thú đó là cá, chỉ vậy thôi”.
O’Donnel khép mắt, siết chặt nắm tay.
“Trả lời đúng”, anh đáp. “Giờ thì bàn tới vụ giao tiền. Hãy mang cô ấy về nhà đúng lúc Giáng sinh”.
Gã gọi điện có cái giọng bị bóp méo liệt kê các yêu cầu rồi nói. “Tao sẽ gọi lại lúc 5 giờ 59 theo giờ Luân Đôn. Tao muốn nghe câu trả lời ngắn gọn. Có hoặc không. Đơn giản vậy thôi. Mày hiểu ý tao chứ?”
“Hoàn toàn hiểu”.
Gã cúp máy. O’Donnel nhìn sang Kevin Barnett.
“Chúng đang giữ cô ấy”, anh nói. “Và chúng ta thật sự là không còn đường lùi”.
Một chiếc Limousine hiệu Juguar đang đỗ ở mép sân trải nhựa chỗ đường băng khi chiếc Gulff-Stream V của Adrian Carter hạ cánh xuống phi trường thành phố Luân Đôn. Lúc Gabriel, Carter và Sarah bước xuống cầu thang, một bàn tay dài đầy xương xẩu chià ra từ cửa xe phía sau và ra hiệu cho họ tiến về phía đó.
“Graham Seymour”, Gabriel nói. “Đừng nói với tôi là họ điều các vị suốt từ một chặng đường dài đến đây để cho tôi quay về Heathrow đâu đấy”.
“Đúng là chúng tôi đến đây để đưa anh đi”, Seymour đáp. “Nhưng không phải đến Heathrow”.
“Vậy ta đi đâu?”.
Seymour không vội trả lời mà nhìn Gabriel chế giễu. “Cái quái gì xảy ra với anh vậy?”.
“Chuyện dài lắm”.
“Thường là vậy mà”, Seymour nói. “Lên xe đi. Ta không có nhiều thời gian”.