Chương 6
Khu Oudwest, Amsterdam

    
li Lavon nói. “Tớ đang nóng lòng chờ món ăn Thái đây”
“Tớ sẽ lấy món Thái cho cậu sau khi chúng ta đột nhập vào căn hộ của Samir”.
“Làm ơn cho tớ biết cậu mua món Thái cho tớ ở đâu lúc ba giờ sáng đây?”.
“Tớ tháo vát lắm đấy!”.
Gabriel lau mạnh ô cửa sổ chắn gió bám đầy tuyết và nhìn về lối vào đường Hudsonstraat. Lavon nhìn xuống và kéo mạnh nút áo khoác.
“Chúng ta sẽ không sử dụng xe thuê trong những pha hành động nếu xe không được lấy từ những nguồn sạch sẽ”.
“Tớ biết rồi, Eli”.
“Chúng ta cũng sẽ không đột nhập và làm hỏng những cuộc lục soát nếu không có sự hỗ trợ và đồng tình của Văn phòng trên đại lộ King Saul”.
“Ừ, tớ hiểu rồi”.
“Cậu đang phá vỡ quá nhiều quy tắc đấy. Điều đó sẽ khiến ta phạm sai lầm. Tớ đang mong được nghỉ đêm ở khách sạn Europa chứ không phải ở xà lim Hà Lan”.
“Cho tớ biết chúng ta lấy được chiếc xe sạch ở đâu và làm thế nào nhạn được sự hỗ trợ phù hợp lúc ba giờ sáng ở Amsterdam?”.
“Quá dễ dàng đối với sự tháo vát của cậu mà”. Lavon buồn rầu nhìn qua cửa sổ. “Nhìn xung quanh đi Gabriel. Cậu thấy thế nào?”.
Anh khẽ lắ đầu. “Nên đúc tượng đài cho sự ngây thơ của người Châu Âu. Người Châu Âu nghĩ rằng họ có thể tiếp nhận hàng triệu dân di cư từ những vùng nghèo đói nhất của thế giới Hồi giáo rồi biến họ thành những người dân chủ xã hội chỉ trong một thế hệ, và hãy nhìn kết quả xem. Phần lớn dân Hồi giáo ở Châu Âu đều bị đưa vào những khu tị nạn và đang rên xiết vì giận dữ”.
Gabriel nghĩ họ bị kẹt giữa hai thế giới. Không hoàn toàn là thế giới Arập cũng không phải hoàn toàn là thế giới Hà Lan. Họ bị lạc vào vùng đất của những người xa lạ.
Gabriel nói. “Nơi này lúc nào cũng sản sinh ra những tư tưởng bạo lực. Tính quá khích của Hồi giáo là con virut mới nhất, phát triển mạnh trong môi trường nuôi dưỡng Châu Âu”.
Lavon gật đầu suy tư và thổi vào hai bàn tay của mình. “Cậu biết không, trong một thời gian dài sua khi trở về Israel, tớ nhớ Viên lắm. Tớ nhớ những quán cà phê mình thường lui tới. Nhưng tớ đã nhận ra rằng lục địa này đang dân chết đi, Châu Âu đang lùi vào lịch sử một cách thầm lặng. Lục địa này già cỗi và mệt mỏi, và thế hệ trẻ của lục địa đó khá bi quan về triển vọng tương lai. Họ không chịu sinh con đẻ cái để bảo đảm cho sự tồn tại giống nòi của mình. Họ không tin vào điều gì ngoài tuần làm việc ba mươi lăm giờ và kỳ nghỉ hè”.
Gabriel nói. “Và cả chủ nghĩa bài trừ Do Thái nữa chứ”.
“Đó là một thứ ở Viên mà tớ không bao giờ bỏ qua. Con virút của chủ nghĩa bài trừ Do Thaíhiện đại sinh ra ở Châu Âu nhưng sau chiến tranh nó đã lan sang Arập, nơi nó biến thái và phát triển mạnh hơn, lây lan từ người này qua người khác”. Anh nhìn Gabriel. “Và chúng ta lại đang ở đây, hai người đàn ông Do Thái đẹp trai đang ngồi ở góc phố Châu Âu lúc ba giờ sáng. Lạy Chúa, bao giờ chuyện này kết thúc nhỉ?”.
“Nó sẽ không bao giờ kết thúc đâu Eli. Chuyện này sẽ kéo dài mãi mãi”.
Lavon im lặng suy tư về quan điểm này. “Cậu có nghĩ mình sẽ đột nhập vào căn hộ thế nào không?”.
Gabriel đưa tay vào túi áo khaocs rồi rút ra một công cụ bằng kim loại nhỉ.
“Tớ không bao giờ có thể sử dụng thứ này”. Lavon nói.
“Tớ có đôi bàn tay tốt hơn cậu mà”.
“Những bàn tay tốt nhất của ngành – đó là lời của Shamron. Nhưng tớ không biết ông nghĩ mình sẽ tìm thấy gì ở đó. Nếu Samir và tổ chức của hắn còn hoạt động, căn hộ sẽ được dọ dẹp sạch sẽ”.
“Cậu sẽ ngạc nhiên thôi Eli. Quân sư của chúng rất thông minh nhưng một số lính đi chân đất của chúng không phải là những nhà giảo phẫu. Chúng tuỳ tiện lắm. CHúng để mọi thứ vương vãi và đôi khi mắc những sai lầm nho nhỏ”.
Lavon nói. “Cả những sĩ quan tình báo cũng vậy. Cậu có xét đến khả năng chúng ta sẽ bước thẳng chân vào bẫy không đấy?”.
“Đó sẽ là lúc sử dụng khẩu Beretta”.
Gabriel mở cửa trước khi Lavon kịp phản đối, họ bước ra khỏi xe. Họ băng qua con phố theo một góc, dừng lại một lần để cho một chiếc xe không có ai ngoài lái xe lướt qua trên phố rồi họ vội vòng qua góc phố vào đường Hudsonstraat. Đó là một con phố hẹp, hai bên đường là những dãy nhà chung cư nhỏ. Chúng đều cao hai tầng và đều giống nhau về kiến trúc. Ở phía trước mỗi toà nhà có một hốc tường bán nguyệt nhỏ với bốn cửa riêng biệt, hai cửa dẫn đến những căn hộ ở tầng một và hai cửa dẫn đến những căn hộ tầng trên.
Gabriel bước ngay vào hốc tường số 37 cùng với Lavon đi sau lưng, anh bước đến loay hoay mở chiếc khoá năm chấu trên cửa căn hộ D. Mười giây sau, chiếc chìa khoá chào thua. Anh nhét cái phá khoá vào túi rồi rút khẩu Beretta ra, bật then cửa rồi bước vào trong. Anh đứng bất động một lúc trong bóng tối để nghe ngóng xem có gì bất thường không, khẩu súng nằm gọn trong tay anh với tư thế sẵn sàng. Không nghe thấy gì, anh ra hiệu cho Lavon bước vào.
Lavon bật chiếc đèn pin Maglite nhỏ xíu rồi bước vào phòng khách. Đồ đạc trong phòng đều là hàng chợ, sàn nhà có lớp sơn bị nứt, tường trống trơn trừ một tấm ảnh du lịch miêu tả Mái vòm đá ở Jerusalem. Gabriel bước qua chiếc bàn chân dài của Samir. Trên bàn chỉ có một tập giấy vàng nhỏ và một chiếc đèn bàn rẻ tiền.
Anh bật đèn lên và kiểm tra tập giấy. Hai phần ba tập giấy đã được sử dụng, trang trên cùng còn để trống. Anh di ngón tay qua mặt tờ giấy và có một cảm giác nham nhám ở ngón tay. Chứng tỏ nó đã được kê để viết lên tờ bên trên. Lỗi của một kẻ nghiệp dư. Anh đưa tập giấy cho Lavon rồi cầm đèn pin chiếu vào một góc trên mặt bàn. Chiếc bàn phủ một đám bụi nhỏ chừa một ô vuông ở giữa – chính điểm đó, Gabriel nghĩ, là nơi đặt máy tính của Samir trước khi hắn bay khỏi Amsterdam.
Gabriel nói. “Hãy lục tìm những chiếc nệm ghế. Tớ sẽ đi xem phần còn lại của căn hộ”.
Anh bước qua cửa vào nhà bếp. Những dấu tích về cuộc họp cuối cùng với đồ đệ của hắn từ ngôi đền Al Hijrah nằm trên lớp sơn sàn nhà trên cùng; những hộp đựng thức ăn rỗng tuếch, những đĩa giấy đầy mỡ, những dụng cụ bằng nhựa đã bỏ, những gói trà đã sử dụng. Gabriel mở cửa tủ lạnh, một nơi chứa chất nổ yêu thích của bọ khủng bố và thấy trống trơn. Những chiếc tủ cũng vậy. Anh nhìn vào chiếc tủ phía dưới bồn rửa bát không thấy gì ngoài một chai nước rửa bát chưa mở. Samir, một nhà lý thuyết và nhà phát ngôn cho sự nghiệp thánh chiến, là một kẻ độc thân nhếch nhác điển hình.
Gabriel dừng một lúc trong phòng khách để kiểm tra công việc của Lavon rồi đi xuống sảnh ra phía sau căn hộ. Phòng khách của Samir cũng gớm ghiếc như nhà bếp. Gabriel lục soát nhanh rồi vào phòng ngủ. Một tấm nệm nằm nghiêng trên khung sắt và ba ngăn kéo của tủ trang điểm bị mở he hé. Có vẻ như Samir gói ghém đồ đạc rất vội vã.
Gabriel mở ngăn kéo trên cùng và đổ những thứ còn lại lên trên giường. Đồ lót cũ rích, tất không cùng đôi, hộp diêm của vũ trường ở quãng trường Leicester ở Luân Đôn, phong bì từ một cửa hàng rửa ảnh ở góc phố. Gabriel nhét diêm vào túi rồi mở phong bì xem ảnh trong đó. Anh thấy hình Samir đứng ở quãng trường Trafalgar và Samir chụp với một thành viên Đội vệ binh của Nữ hoàng bên ngoài điện Buckingham; và Samir bên ngoài nhà Quốc hội. Tấm cuối cùng là ảnh Samir chụp với bốn nguòi bạn phía trước Đại sứ quán Mỹ ở quãng trường Grosvenor. Những bức ảnh này làm tim của Gabriel loạn nhịp.
Năm phút sau, anh bình tĩnh bước dọc hè phố Hudsonstraat, với nhưnhx bức ảnh trong túi và Lavon đi kế bên. “Nếu những ngày tháng trên bức ảnh chính xác thì có nghĩa là Samir và bạn hắn đã có mặt ở Luân Đôn cách đây bốn tháng”. Anh nói. “Có lẽ cần có người đi Luân Đôn để làm việc với những người bạn của chúng ta ở MI5”.
Lavon nói. “Tớ có thể thấy chuyện này sẽ đi theo hướng nào. Cậu sẽ cưỡi ngựa ở Luân Đôn như một kỵ sĩ đang cưỡi bạch mã còn tớ sẽ mò mẫm đọc phần còn lại trong đống hồ sơ của Solomon Rosner”.
“Ít nhất là cậu cũng sẽ được ăn món Thái”.
“Sao cậu lại nhắc tới món ăn Thái lúc này chứ?”.