Chương X
GlA CÁT LƯỢNG VÀO ĐẤT THỤC

    
ưu Bị không thể không nắm lấy cơ hội, chẳng để ý đến sự uy hiếp của Tào Tháo và Tôn Quyền có thể xảy ra ở Kinh Châu, phái người theo đường thủy đưa mật thư đến Giang Lăng, lệnh cho Gia Cát Lượng bắt đầu đợt công kích thứ hai, từ phía đông đánh vào đất Thục, hẹn hợp quân ở Thành Đô.
 
1. Từ tham mưu đến chủ soái.
Kể từ ngày chấn chỉnh việc quân ở Tân Dã đến trận đánh Đương Dương Trường Bản, vai diễn của Gia Cát Lượng là người vạch kế hoạch, tuy có tài cán nổi trội, song kinh nghiệm thực tế có hạn, chỉ có thể làm người phụ tá cho Lưu Bị mà thôi. Trước ngày xảy ra trận Xích Bích, trong khi nguy cấp, con người trẻ tuổi ấy trong thời gian ngắn, tự mình rèn luyện thành nhà ngoại giao khá thành công; ở thời kỳ này, tiềm năng của Gia Cát Lượng trước sự khiêu chiến mãnh liệt đã phát huy khá hoàn chỉnh.
Trong đại chiến Xích Bích, Gia Cát Lượng là người bàng quan, song ông ta cũng là người thức thời không để tuột mất cơ hội. Ngoài trí tuệ hấp thụ được ở Chu Du, Lỗ Túc, Tào Tháo, lại lấy ưu thế một kẻ đứng ngoài cuộc, chớp thời cơ đoạt lấy một vùng đất rộng lớn ở ba quận ở Kinh Châu và Nam Quận, làm căn cứ địa quan trọng cho sự sáng nghiệp của Lưu Bị. Trong khoảng không đến nửa năm, đã trưởng thành trong kinh nghiệm thực tế đáng kinh ngạc, năng lực độc lập của Gia Cát Lượng, qua sự khẳng định của Lưu Bị.
Sách lược “mượn Kinh Châu” cho thấy sự khéo léo về ngoại giao của Gia Cát Lượng, Lưu Bị lúc ấy vẫn ở tình thế yếu kém, diễn xuất như vậy là do Gia Cát Lượng. Ở giai đoạn này, Gia Cát Lượng trong cương vị tham mưu trong quân, tựa hồ đã hoàn toàn nắm địa vị chủ đạo.
Tiến quân vào Ích Châu tuy là quốc sách cơ bản mà Long Trung Sách đề ra, nhưng ở kế hoạch vào Thục, Gia Cát Lượng lại để cho Bàng Thống “Phượng Sồ” mới đến, điều đó ít nhiều cho thấy sự tín nhiệm của Gia Cát Lượng với tài cán của Bàng Thống, cùng là sự bận rộn trong công việc điều hành nội chính của ông ta, cũng như thái độ rõ ràng không tranh công của Gia Cát Lượng. Theo sử liệu, ghi chép về giai đoạn này phần nhiều là trao đổi giữa Lưu Bị và Bàng Thống, còn Gia Cát Lượng không nói một câu nào. Song có thể tin được rằng một quốc sách quan trọng như thế, Lưu Bị ắt hẳn cũng đã trao đổi cặn kẽ với Gia Cát Lượng, chẳng qua không phụ trách qui hoạch chủ yếu. Gia Cát Lượng tựa hồ cố ý né tránh biểu lộ ý kiến rõ rệt, sợ che lấp hình ảnh của Bàng Thống. Từ đó có thể thấy Gia Cát Lượng là nhà đại sách lược suy nghĩ chu tất, khéo hiểu lòng người, có sự phân định quyền hạn rõ ràng hợp lý.
Song khi Lưu Bị vào Thục, chỉ mang một số ít binh lực, rõ ràng ở Kinh Châu vẫn có đội quân dự bị thứ hai đang đợi thời cơ mà vận động. Trước khi vào Thục, Lưu Bị sắp xếp Gia Cát Lượng ở Giang Lăng chỉ huy đại cục, khá thấy trong mắt Lưu Bị, Gia Cát Lượng trẻ tuổi, địa vị đã vượt qua lão tướng Quan Vũ và Trương Phi mà nhảy lên ngôi thứ nhất.
Sau khi Lưu Bị giao tranh với Lưu Chương, lại liên tục tác động Ngô Ý và Lý Nghiêm qui hàng, thanh thế rất lớn, trước mắt thấy quân Ích Châu đã gần đến chỗ tan rã. Đấy tuy là công lao lớn của Pháp Chính và Mạnh Đạt, song đối với tổng tham mưu trưởng Bàng Thống mà nói, hình ảnh của ông rất được đề cao.
Song danh tướng của Thành Đô là Trương Nhiệm đứng đầu phái Bản Thổ, lại khéo léo níu giữ đội quân đang tan rã, rút về giữ Lạc Thành, vị trí quân sự quan trọng bậc nhất ở phía bắc Ích Châu; Lạc Thành có địa thê hiểm yếu, công sự phòng ngự kiên cố, cuộc tấn công chớp nhoáng của Lưu Bị phải dừng lại ở đấy, Bảng Thông tuy vắt kiệt đầu óc vẫn không có được một biện pháp nào.
Không lâu tiếp được tin của tướng Hoắc Tuấn đang giữ ải Hà Minh khẩn cấp báo cáo quân tình, Lưu Chương đã từ Lãng Chung, phái binh bao vây Hà Minh, rõ ràng muốn cắt đứt quân tiếp cận của Lưu Bị, tiến đánh đội quân của Lưu Bị từ hai phía. Một điều khiến Lưu Bị lo lắng là nếu Lưu Chương cắt đứt sự liên hệ với Kinh Châu, đội quân tây chinh sẽ bị cô lập. Bởi thế Lưu Bị không thể không quyết đoán cũng không nghĩ đến Tôn Quyền và Tào Tháo có thể uy hiếp Kinh Châu, phái người theo đường thủy đưa mật thư đến Giang Lăng, lệnh cho Gia Cát Lượng bắt đầu cuộc tấn công thứ hai, đánh vào đất Thục từ phía đông, hẹn hợp quân ở Thành Đô.
Gia Cát Lượng sau khi nhận được tình hình khẩn cấp, lập tức làm theo chỉ thị của Lưu Bị, lệnh cho Quan Vũ đang ở tiền tuyến phía bắc, trở về trấn thủ Giang Lăng, cùng với các văn quan như My Trúc, Mã Lương, và các võ quan như Quan Bình, Liêu Hóa, lo liệu việc bố phòng ở phía đông và phía bắc Kinh Châu. Khổng Minh cùng với Trương Phi, Triệu Vân mang theo những đạo quân hùng mạnh cùng vào đất Thục, thực hiện hành động quân sự mau chóng giải quyết vấn đề Ích Châu.
Cuộc tấn công thứ hai so với cuộc tấn công thứ nhất là rất lớn, hơn nữa lại động viên nhanh chóng khiến người ta phải ngạc nhiên. Quy hoạch quân sự lần này cho thấy, so với đợt Lưu Bị vào Thục sớm đã được chuẩn bị tốt hơn.
Đội quân vào Thục đợt hai và đội quân giữ Kinh Châu được biên chế như sau:
Tổng chỉ huy quân viễn chinh: Gia Cát Lượng.
Tổng tham mưu trưởng: Gia Cát Lượng kiêm nhiệm.
Tham mưu: Tưởng Uyển, Giản Ung.
Quân đoàn tiền phong: Trương Phi từ Ba Đông theo đường bộ vào Thục có khoảng 1 vạn 5 nghìn quân.
Quân đoàn hậu quân: Triệu Vân theo đường thủy đến Giang Châu, có 5.000 quân.
Tổng chỉ huy giữ Kinh Châu: Quan Vũ
Tổng tham mưu trưởng: Mã Lương
Tổng quản văn thư: My Trúc
Quân đoàn phòng thủ: My Phương, Sĩ Nhân, Liêu Hóa, Quan Bình.
2. Trong thô có tinh tế, Trương Phi bắt Nghiêm Nhan.
Đạo quân tiền phong của Trương Phi từ Ba Đông vào Thục, vấp phải sự chống cự mãnh liệt của quân Ích Châu, chỉ huy phòng ngự ở đấy là lão tướng Thái thú Nghiêm Nhan.
Nghiêm Nhan là một tướng lĩnh cao tuổi ở Ích Châu, kinh nghiệm phong phú, ông ta tuy phản đối mạnh mẽ để Lưu Bị vào Thục, song lại có thái độ không phục trong chính quyền Lưu Chương. Bởi thế ngoài việc chê bai bóng gió, cũng chưa từng có lời can gián cụ thể với Lưu Chương. Song, nghe nói Trương Phi dẫn đại quân đến, Nghiêm Nhan lập tức hợp hơn 5000 quân dựa vào thế hiểm mà cố thủ. Trương Phi về quân lực tuy có ưu thế tuyệt đối, nhưng tạm thời cũng chưa biết phải làm gì.
Biết Trương Phi vẫn có tính táo bạo, bởi thế Nghiêm Nhan cho rằng ông ta nhất định thiếu nhẫn nại, chỉ cần kiên trì đối trận, vấn đề chỉ huy của Trương Phi ắt sẽ lộ ra sai sót, đợi đến lúc ấy chỉ cần đem một sô ít quân phản kích, ắt sẽ đánh được Trương Phi.
Song không ngờ Trương Phi trong thô có tinh tế, ông ta thấy Nghiêm Nhan dựa vào thế hiểm yếu mà cố thủ cũng đoán phỏng được bảy, tám phần tâm lý, bèn tương kế tựu kế, sau mấy lần đánh thành không được, ở giữa trại quân sinh bực tức, quát tháo binh sĩ, lại bắt một số nông dân gần đấy dẫn đường tắt để vượt qua quan ải.
Không lâu dân ở đấy chẳng thể không nói với Trương Phi đường tắt vượt qua núi. Trương Phi hạ lệnh tức thì vứt bỏ việc vây thành, mang toàn quân sĩ đêm tối mà vượt qua núi vào Thục.
Bởi đội quân của Trương Phi rất lớn, hành động quân sự đó không qua được mắt tình báo của Nghiêm Nhan. Nghiêm Nhan phán đoán Trương Phi không nhẫn nại được nữa, nên đã dự tính tìm đường mòn mà vượt qua cửa ải, bởi thế cũng hạ lệnh ngay đêm đó kéo quân ra khỏi thành, tập kích đội quân Trương Phi đang di động.
Chẳng ngờ hành động quân sự ấy của Trương Phi chỉ là giả vờ, viên đại tướng đêm hôm đó dẫn quân qua núi chỉ là người đóng giả mà thôi, Trương Phi dẫn đội quân rất tinh nhuệ chuẩn bị tập kích Nghiêm Nhan ở ngoại thành. Quả nhiên, Nghiêm Nhan mau chóng dẫn quân đuổi theo đội quân của Trương Phi ở trong núi. Trương Phi thực vẫn nhẫn nại mai phục đợi đội quân của Nghiêm Nhan đến khá gần mới nổi trống đổ ra đánh dữ. Đội quân đang đi trong núi nghe tiếng trống cũng lập tức quay lại đón đánh, Nghiêm Nhan biết đã trúng kế, vẫn liều mạng tử chiến mau phá vòng vây trở về thành, song Trương Phi tự mình dẫn quân ngăn lại, chẳng thể mở được đường máu tháo chạy.
Mặt khác Trương Phi lại đã lệnh cho một đội binh mã đóng giả làm quân Nghiêm Nhan, lấy danh nghĩa quân Ích Châu trở về gọi mở cửa thành. Trong đêm tối, quân trên thành không nhìn kỹ, vội mở cửa, binh mã của Trương Phi tràn vào trong thành, hoàn toàn khống chế quân Ích Châu ở đấy.
Cuộc ác chiến kéo dài đến sáng, Nghiêm Nhan biết không dễ dàng bèn dẫn mấy trăm tàn quân đột phá vòng vây chạy về Ba Quận, Trương Phi dẫn quân đuổi sát phía sau.
Nghiêm Nhan chạy đến trước cửa thành, gọi ra mở cửa, song quân giữ thành đã là quân Kinh Châu, Nghiêm Nhan lại phải quay lại, gặp ngay phải đại quân Trương Phi đuổi đến, địch đông ta ít, chênh lệch rất lớn. Nghiêm Nhan tuổi đã cao lại vừa mới tận lực chiên đấu, sức lực sớm bị hao kiệt, cuối cùng toàn bộ tàn quân đều bị bắt.
Sau khi vào thành, Trương Phi lập tức thăng đường yêu cầu Nghiêm Nhan đầu hàng, Nghiêm Nhan lại lớn tiếng mắng Trương Phi vô cớ cướp đất, thét lên rằng: “Ích Châu chỉ có tướng bị chặt dầu, chẳng có tướng đầu hàng”.
Trương Phi nghe thế giận lắm, lệnh cho tả hữu dẫn đi chém đầu.
Nghiêm Nhan thấy Trương Phi nổi cáu, lại cười nhạt mà rằng: “Muốn giết thì giết, hà tất phải bực tức đến mức như vậy!”. Trương Phi cảm phục dũng khí của Nghiêm Nhan, vội chạy xuống dưới chân thềm, tự tay cởi trói cho Nghiêm Nhan, thản nhiên nói rằng: “Tướng quân thực là lão anh hùng, Trương Phi thật đắc tội, mong được tha thứ!”. Lúc ấy Nghiêm Nhan cũng nao lòng, Trương Phi lấy lễ mời Nghiêm Nhan ngồi xuống, lại nói rõ việc Lưu Bị vào Thục, chủ yếu là muôn xây dựng cơ sở phục hưng nhà Hán, bởi thế đã nhận được sự đồng tình sâu sắc của các danh sĩ Trương Tùng, Pháp Chính, Mạnh Đạt, họ đã có những giúp đỡ đặc biệt, nay hy vọng lão tướng cũng nên như thế.
Nghiêm Nhan vốn chẳng phải là người theo phái tận trung với Lưu Chương, lại thấy Trương Phi vốn nổi tiếng như thế, khuyên nhủ chân thành đến thế, bèn thành tâm qui phục.
Bởi những đội quân gần Ba quận đều lệ thuộc Nghiêm Nhan nên nghe theo những lời vận động của Nghiêm Nhan, cơ hồ chưa từng xảy ra một cuộc giao tranh nào nữa, Trương Phi bởi thế đã thuận lợi hơn Gia Cát Lượng đến Giang Châu trước một bước.
Sau khi vào Giang Châu, đạo quân viễn chinh đợt hai của Gia Cát Lượng đã chiếm được vùng đất Ba Đông. Bởi Lưu Bị đang phải ác chiến ở Lạc Thành, Gia Cát Lượng không dám chậm trễ, ngoài việc khẩn cấp báo tin cho Lưu Bị, lại cùng với Trương Phi, Triệu Vân, chia quân làm ba đường tiến thẳng đến Thành Đô.
Tuyến thứ nhất, quân đoàn Trương Phi từ Điếm Giang tiến lên phía bắc thu phục Ba Tây, ngăn chặn sự uy hiếp của quân Ích Châu với Lưu Bị, uy hiếp Thành Đô từ phía bắc.
Tuyến thứ hai, Triệu Vân theo Trưòng Giang ngược lên phía tây, chiếm lấy Giang Dương, bình định vùng Kiện Vi phía dưới, lại bao vây Thành Đô từ phía tây.
Tuyến thứ ba, Gia Cát Lượng tiếp tục đánh thẳng phía tây vào Đức Dương, sau đó đánh vào Thành Đô.
3. Quyết chiến ở Lạc Thành, Bàng Thống bị mắc nạn.
Quân Trương Phi được Nghiêm Nhan giúp đỡ, cơ hồ quân không phải động đao, mau chóng bình định được Ba Tây, lại hợp với quân Gia Cát Lượng ở Đức Dương. Lưu Chương phái lão tướng Trương Duệ thuộc phe Bản Thổ dẫn binh ra ngăn cản, lại bị Trương Phi đánh cho tan tác, tàn quân Trương Duệ phải rút về Thành Đô sắp xếp lại phòng tuyến.
Đội quân của Triệu Vân cũng thuận lợi đánh xuống Giang Dương chiếm được Kiện Vi, rồi từ đó đánh vào Thành Đô.
Đội quân viễn chinh lần đầu của Lưu Bị và Bàng Thống, thanh thế tuy lớn, song phần nhiều là quân Ích Châu, bởi thế trước sự ngăn cản hữu hiệu của Trương Nhiệm, kéo dài suốt một năm, vẫn không hạ được Lạc Thành. Nhưng nghe nói Gia Cát Lượng đã đánh được Ba Đông, hơn nữa còn chiếm được đại bộ phận Ích Châu, đặc biệt là Triệu Vân đã chặt đứt được sự bao vây của Lưu Chương ở phía sau Lưu Bị, nên cũng đã yên tâm hơn.
Không lâu, lại nghe nói Mã Siêu, lãnh tụ quân Quan Trung sau khi bị Tào Tháo đánh tan, theo về với quân Trương Lỗ ở Hán Trung, lại không được vừa ý, bởi thế phái danh sĩ Lý Khôi nổi tiếng ở Ích Châu, ngầm đến Hán Trung kết thân với Mã Siêu.
Đến mùa hạ năm Kiến An thứ 19, Lưu Bị bắt được thông báo, Gia Cát Lượng và Trương Phi đã đến được phía đông và đông bắc Thành Đô, còn quân Triệu Vân đã đánh phá được Kiện Vi, sau đó tiến đến Thành Đô, chỉ đợi Lưu Bị ra chỉ thị, sẽ phát động tổng công kích Thành Đô.
Lưu Bị và Bàng Thống lại tấn công mãnh liệt vào Lạc Thành, Bàng Thống dẫn quân nhử Trương Nhiệm ra khỏi thành, quả nhiên Trương Nhiệm cậy khỏe khinh địch dẫn quân xông ra, trụ quân ở Nhạn Kiều phía nam Lạc Thành, Lưu Bị nhân cơ hội chặt đứt đường về của Trương Nhiệm,
Bàng Thống cũng dẫn quân quay lại tấn công mãnh liệt vào Trương Nhiệm ở trận địa Nhạn Kiều. Trương Nhiệm bắn tên ra như mưa, Bàng Thống đang tự mình đốc chiến ở phía trước, bỗng nhiên không may bị trúng tên, chết ngay giữa trận, lúc ấy mới có 36 tuổi.
“Tam quốc diễn nghĩa” đã miêu tả Lưu Bị và Bàng Thống chia quân tiến đánh Lạc Thành, Bàng Thống ở gò Lạc Phượng trúng phải mai phục của Trương Nhiệm phải bỏ mình, Gia Cát Lượng đang ở Kinh Châu nghe được tin, thảm thiết khóc Bàng Thống, rồi dẫn quân vào Thục, ở Lạc Thành lập kế bắt được Trương Nhiệm, đấy hiển nhiên là có sai lệch lớn với thực tế. Gia Cát Lượng đã vào Thục trước lúc Bàng Thống hy sinh chừng nửa năm, hơn nữa quân Trương Phi và Triệu Vân chưa hế đến Lạc Thành, trận Lạc Thành hoàn toàn do Lưu Bị và Bàng Thống đơn độc đối phó.
Bàng Thống chẳng những không bị trúng kế, trái lại còn dùng kế mai phục để bắt Trương Nhiệm, chẳng qua trong lúc kịch chiến ở đấy, vị quân sư không giỏi võ nghệ đã vì trách nhiệm mà đi ở hàng đầu, cuối cùng trúng tên bỏ mình, song trước cánh quân Kinh Châu cùng giáp kích, quân chủ lực của Trương Nhiệm đúng là bị đánh tan ở Nhạn Kiều, còn Trương Nhiệm bị thuộc hạ của Bàng Thống bắt được.
Lưu Bị đã từ lâu nghe danh Trương Nhiệm trung dũng có ý chiêu hàng song Trương Nhiệm tuổi đã cao, không muôn thay đổi thờ phụng chủ khác, cự tuyệt việc đầu hàng, lại thêm Bàng Thống bị nạn, lòng quân Kinh Châu rất phẫn uất, chẳng thể tha thứ cho Trương Nhiệm, Lưu Bị đành phải xử tử Trương Nhiệm để yên lòng quân.
Chiến dịch Lạc Thành giành được toàn thắng, công lao hy sinh của Bàng Thống là rất lớn.
4. Lưu Bị tấn công chính trị, Lưu Chương vứt bỏ đề kháng
Lưu Bị tuy rất nhớ tiếc Bàng Thống bỏ mình giữa trận, song ông vần rất bình tĩnh nghĩ cách dùng thủ đoạn chính trị, khuyên nhủ Lưu Chương đầu hàng, để tránh tạo thành thù hận sâu sắc giữa hai bên, đôi với việc thống trị Ích Châu sau này, sẽ không có lợi.
Bởi thế theo đề nghị của Pháp Chính, đầu tiên là Pháp Chính sẽ tự mình viết một lá thư gửi cho Lưu Chương, ngoài việc nói rõ tình thế cho Lưu Chương, còn chân thành khuyên Lưu Chương sớm đầu hàng, lá thư viết:
“Pháp Chính tuy thiếu năng lực, song đã nhận nhiệm vụ ký hiệp ước với Lưu Kinh Châu, cố gắng không để nhục sứ mệnh, hoàn thành nhiệm vụ. Song sợ tướng quân và xung quanh không hiểu rõ gốc ngọn, lại đổ lỗi nguyên nhân thất bại lần này cho Pháp Chính khiến tôi chịu nhục không đâu, lại còn tổn hại đến nhiệm vụ đã làm. Nay sự tình đã rơi vào hỗn loạn, phải đình tạm ở trong trại Lưu Kinh Châu, tiếp tục giao thiệp, chưa thể trở về Thành Đô để báo cáo lại với tướng quân.
Cũng bởi như vậy có không ít lời nói gièm, công kích thân phận của thần, khiến tướng quân không hiểu Pháp Chính, mà thần cũng rất băn khoăn... Nay trong nước nguy cấp, tai họa đã ở ngay trước mắt, thân đang tại ngoại, chẳng đủ để tướng quân tín nhiệm, song vẫn muốn bày tỏ không cùng tấm lòng trung của mình...
Ý định của tướng quân mời Lưu Kinh Châu, Pháp Chính cũng đã biết rõ, cũng là nguyên nhân chính để Pháp Chính tiếp tục ở lại bên cạnh Lưu Kinh Châu, cố gắng suy nghĩ để hoàn thành nhiệm vụ. Song nay tình hình lại diễn biến nhùng nhằng như thế chủ yếu là những thuộc hạ của tướng quân không hiểu lẽ anh hùng tòng quyền, suy nghĩ không ra, có cái nhìn sai lầm trước tình hình, dẫn đên việc binh nhung chẳng thu được kết quả gì... Nay quân chủ lực của Ích Châu đã bị đánh tan, còn lại được hơn một vạn quân, thực ra ý chí chiến đấu đều đã mất. Trái lại quân chủ lực Lưu Kinh Châu sau khi chiêm được Lạc Thành, giành được rất nhiều lương thực xe cộ, cũng có được ưu thế tuyệt đối, mà tướng quân thì đất đai mỗi ngày thêm mất, trăm họ mỗi ngày thêm khốn đốn... Cho rằng phải kiên quyết, nghĩ việc cố thủ, sẽ không được lâu vậy.
Quân của Trương Dực Đức (Trương Phi) có vài vạn người, đã bình định được Ba Đông, Triệu Vân lại từ Kiện Vi đánh vào, cùng với Tư Trung, Đức Dương ba đường cùng tiến, tướng quân sẽ liệu định thế nào.
Nay Ích Châu có ba phần thì hai phần đất đai đã bị chiếm, tuy vẫn giữ được Thục Quận và Thành Đô, thực ra nhân dân mỏi mệt khốn khổ, nghĩ rằng có đến 8 phần 10, khiến chưa thấy kẻ địch tiến vào mà trăm họ đã chẳng thể chịu nổi, chỉ cần quân Lưu Dự Châu đánh thêm vào, ắt sẽ chỉ trong một ngày đã theo về... ấy là thế còn mất, đã thấy rõ ràng vậy.
Cứ theo ngu ý của Pháp Chính, cũng còn biết sự việc đã hỏng, huống chi tướng quân xung quanh còn có nhiều bậc trí giả cao minh, thế mà không thấy rõ ư?
Nghĩ rằng những trọng thần bên cạnh tướng quân, lúc bình thường chỉ biết giành lấy ân sủng, ra sức nịnh hót mà không đứng ra bầy vẽ cho tướng quân, lại chưa từng tận tâm hiến kế sách. Nay sự đã bức bách, các thuộc hạ tự tìm đường sống, giữ gìn sự an toàn cho riêng mình, tin rằng cũng không thể liều chết vì tướng quân.
Pháp Chính tuy bị phỉ báng là bất trung, vẫn vắt óc tự hỏi, vẫn không phụ lại tình nghĩa của tướng quân. Bây giờ kết quả như vậy, thực ra Pháp Chính cũng rất khổ tâm. Tả tướng quân Lưu Bị đã giành được ưu thế tuyệt đối, song đối với tướng quân vẫn giữ tình cảm ngày nào, chẳng muốn tướng quân phải khó xử. Bởi thế kẻ ngu này muốn tướng quân hiểu được lẽ quyền biến, để giữ được tính mệnh và sự tôn nghiêm của dòng họ”.
Lá thư của Pháp Chính có lời lẽ binh vận, được viết ra khá sắc xảo, rõ ràng cho thấy ông ta tuy vẫn chưa được Lưu Chương trọng dụng, song đối với cá tính của Lưu Chương thì khá thấu hiểu, nghĩ rằng tài cán ấy không thể không được Lưu Chương trọng dụng, chẳng qua bởi ông ta kiên trì giữ nguyên tắc của mình, mà không phụ theo vậy.
Khi Lưu Bị từ Phù Thành xuống đánh Lạc Thành, Trịnh Độ là tham mưu dưới trướng của Lưu Chương có nói: “Tả tướng quân Lưu Bị dẫn quân đánh chúng ta, song binh lực không đầy vạn người, lòng quân không yên định. Bởi thế về việc phòng thủ, không gì bằng đưa dân ở Ba Tây, Tử Đồng chuyển về phía tây Phù Thủy, lại thiêu hủy những kho lương ở đấy, lấy thành cao hào sâu, lấy tĩnh mà chế động. Khi quân địch đến, chớ vội giao chiến, đợi một thời gian lâu, họ thiếu thốn lương thực, không đến trăm ngày ắt phải rút quân, đến lúc ấy ta sẽ truy kích, nhất định sẽ giành được đại thắng”.
Có thể nói chiến thuật ấy đối với quân viễn chinh của Lưu Bị, sẽ gây khó khăn nghiêm trọng, bởi thế nghe được tin đó, cả Lưu Bị lẫn Bàng Thống đều rất lo lắng, Pháp Chính lại bình tĩnh nói rằng: “Chẳng cần bận tâm, Lưu Chương là người không dám dùng kế sách ấy”.
Quả nhiên không bao lâu, Lưu Chương đã không nghe theo kế hoạch của Trịnh Độ. Ông ta nói: “Ta chỉ nghe nói đến kế an dân cự địch, chưa từng nghe nói đên kế làm phiền dân để đánh địch”.
Từ đấy có thể thấy Pháp Chính khá thấu hiểu cá tính và thái độ của Lưu Chương, lá thư chiêu hàng do ông ta viết ra, nghĩ rằng ắt có hiệu quả tâm lý khá lớn với Lưu Chương. Hơn nữa, những bầy tôi ở Thành Đô, cũng có không ít người có tâm lý đầu cơ chủ nghĩa, dứt khoát sẽ không vì Lưu Chương mà tận trung đến chết.
Đương khi quân Lưu Bị đột phá phòng tuyến Lạc Thành theo phía bắc tiến sát Thành Đô, Thái thú Thục quận là Hứa Tĩnh bèn dự định mở cửa thành đầu hàng may mà quân giữ thành phát hiện được, ngăn cản hành động binh biến ấy Lưu Chương nhìn thấy địa thế đã mất, sự nguy vong đang đến gần, lại thêm Hứa Tĩnh rất có danh tiếng, nên chưa biết phải xử trí Hứa Tĩnh thế nào.
Lưu Chương sau khi nhận được thư khuyên hàng của Pháp Chính, do dự không quyết, lúc ấy lại phát sinh một cuộc binh biến.
Tuy Lưu Chương không ưa gì Trương Lỗ, đương khi quân Kinh Châu vây khốn Thành Đô, Lưu Chương lại nhớ đến phụ thân Lưu Yên từng có ân huệ với Trương Lỗ, lại nhờ Trương Lỗ giúp đỡ. Trương Lỗ bèn phái Mã Siêu, một tướng lĩnh quân Quan Trung mới theo về không lâu, dẫn một đạo quân tiếp viện đên tiếp ứng.
Chẳng ngờ, Lưu Bị lại nhanh hơn một bước, khi trận đánh Lạc Thành đang gay go, từng phái Lý Khôi đến Hán Trung liên hệ với Mã Siêu, mong Mã Siêu cùng liên minh với Lưu Bị. Bởi Lưu Bị là chỗ thân tình với Mã Đằng, phụ thân của Mã Siêu, lại thêm Mã Siêu sau khi vào Hán Trung, Trương Lỗ vẫn lãnh đạm với anh ta, khiến Mã Siêu có tâm lý bất mãn.
Vì thế khi Lý Khôi đến thuyết phục, Mã Siêu không được trọng dụng đã mau chóng ngả về phía Lưu Bị, trao mật thư hẹn sẽ theo về với Lưu Bị. Chẳng ngờ Trương Lỗ lại phái anh ta đến chi viện cho Lưu Chương, Gia Cát Lượng bèn đề nghị Lưu Bị tạm thời dấu kín tin tức này, lại ngầm phái một đội quân cho Mã Siêu chỉ huy, bảo anh ta xuất kỳ bất ý dùng quân mới để khống chế lại quân Hán Trung tiếp viện, cùng hội quân với Lưu Bị ở Thành Đô.
Quả nhiên đương khi Mã Siêu uy phong lẫm liệt dẫn đại quân đến phía tây bắc Thành Đô, Lưu Chương vẫn cho là quân tiếp viện kéo đến, rất đỗi vui mừng lập tức cho sứ giả mạo hiểm phá vòng vây đến liên hệ với Mã Siêu. Ngờ đâu Mã Siêu chẳng những không phải là viện binh, lại là quân của Lưu Bị, ngay lúc này nẩy sinh sự tác động tâm lý rất lớn, là một đòn đánh không nhẹ cân với Lưu Chương. Quân dân trong thành nghe nói mãnh tướng số một của Tây Lương là Mã Siêu đã theo về với Lưu Bị, đều hết sức hoang mang, ý chí chiến đấu cơ hồ đã mất cả.
Lưu Bị đợi đến lúc ấy, lại phái lão thần Giản Ung giỏi ăn nói đến yết kiến Lưu Chương, Lưu Chương thấy đại thế đã mất, định mở cửa thành đầu hàng.
Đại thần Đổng Hòa khuyên rằng: “Thành Đô còn ba vạn tinh binh, lương thực, ngựa xe đủ dùng một năm sao đã vội đầu hàng”. Trưởng lão Hoàng Quyền, Lưu Ba cũng cho rằng dân tâm sĩ khí vẫn còn nên tận lực mà chiến đấu.
Lưu Chương lại than rằng: “Hai cha con ta đã ở Ích Châu 20 năm, vẫn không tăng thêm ân đức cho bách tính, hiện nay lại bắt quân dân Ích Châu phải chinh chiến suốt ba năm, tin rằng họ đã rất khốn khổ, nếu cứ kéo dài mãi như vậy, ta sao nỡ nhẫn tâm?”.
Các đại thần Ích Châu nghe vậy cũng không khỏi rơi lệ, Lưu Chương bèn cùng Giản Ung ra ngoài thành, cùng ngồi một cỗ xe, đến hội kiến Lưu Bị.
Lưu Bị thấy Lưu Chương đến, lại nhớ chuyện cũ, Bàng Thống khi còn sống đã có lời khuyên: “Nghịch mà thuận vậy, chiếm lấy là thuận với nghĩa lý”. Ông ta nói: “Chẳng phải ta không nghĩ đến đạo nghĩa, việc xảy ra như thế, thực là bất đắc dĩ vậy!”.
Gia Cát Lượng cũng khuyên Lưu Bị nên đưa Lưu Chương rời xa Ích Châu, để triệt để cắt đứt mưu toan phản kháng của những đại thần cứng rắn, Lưu Bị tuy không nỡ, song nghĩ lý tính là trách nhiệm rất lớn của người điều hành. Bởi thế Lưu Bị bèn phong Lưu Chương làm Chấn uy tướng quân, mang theo toàn bộ tài sản của mình với ấn thụ tân quan, đến định cư ở quận Công An thuộc Kinh Châu.
Theo Long Trung Sách, bước thứ hai tranh bá thiên hạ, sách lược có được Kinh Châu đến đây đã hoàn toàn thành công; đấy là năm Kiến An thứ 19, tức là năm 214 sau Công Nguyên, đúng vào tháng 5, Lưu Bị 54 tuổi, Gia Cát Lượng 34 tuổi, nếu tính ngày Tam cố thảo lư mời Gia Cát Lượng hoạch định kế hoạch là đúng bảy năm.
5. Thu dọn yến tiệc thắng lợi, bày ra ân uy điều hành.
Lưu Bị sau khi vào Thành Đô, lập tức bày tiệc lớn mừng công, khao thưởng cho quân viễn chinh vào Thục, bày ra một không khí tưng bừng chiến thắng.
Lưu Bị lấy danh nghĩa Kinh Châu mục kiêm Ích Châu mục, Tả tướng quân, đại tư mã đứng ra cai trị. Lại phong Gia Cát Lượng làm Quân sư tướng quân, lấy Đổng Hòa vốn là Thái thú quận Ích Châu làm Trung lang tướng, Gia Cát Lượng được bố trí làm tả tướng quân Đại tư mã trông coi chính sự.
Lại cho mở cửa kho, luận công ban thưởng, Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Trương Phi, Pháp Chính mỗi người được thưởng 500 cân vàng, 1000 cân bạc nén, cùng nhiều tiền bạc gấm vóc. Ngoài ra Triệu Vân, Hoàng Trung, Ngụy Diên, Mạnh Đạt, cũng xét theo công lao lớn nhỏ được ban thưởng hậu hĩ.
Tiếp đó Lưu Bị dự định lấy nhà cửa của quan lại cũ ở Thành Đô, cùng vưòn tược cấp cho các văn quan võ tướng mới đến. Những người được phần thưởng đều vui mừng trước chiến lợi phẩm không dễ có được.
Lão tướng Triệu Vân một mình đứng ra khuyên Lưu Bị rằng: “Ngày xưa Hoắc Khứ Bịnh (danh tướng đánh Hung Nô đời Hán Vũ để) từng nói: “Hung Nô chưa diệt được sao nghĩ đến việc nhà”. Nay Tào Tháo tàn hại nhà Hán, chẳng khác gì Hung Nô ngày xưa, tuy chúng ta đã thu được Ích Châu song chẳng thể cầu an tại chỗ. Để đến khi thiên hạ bình định, cởi giáp về quê, đấy mới là lúc hưởng thụ thái bình! Huống chi dân Ích Châu vừa mới trải qua chiến tranh điêu linh, lại đoạt lấy ruộng vườn của họ, ắt sẽ ảnh hưởng đến sinh kế, tạo ra sự không yên ổn trong xã hội như thế là rất không công bằng. Không gì bằng trả lại ruộng vườn của họ, để an cư lạc nghiệp, có được không khí phấn khởi, sau này mọi việc binh lương giao dịch, mới có được sự giúp đỡ và ủng hộ chân chính từ họ”.
Những lòi lẽ nghiêm chỉnh của Triệu Vân, hoàn toàn đứng trên lập trường ổn định và hợp pháp của chính quyền mới, thể hiện đầy đủ một nhân cách cao quý, quan tâm đến dân tình thống khổ, chí công vô tư. Bởi thế Lưu Bị rất đỗi cảm động, lập tức tuyên bố đình chỉ chính sách phân chia trước đây, để tập trung vào việc vỗ yên trăm họ ở Ích Châu. Thế rồi những người có công đều được ban khen một chén rượu quý; bởi Triệu Vân chí công vô tư như thế nên cũng đắc tội với bằng hữu, nhiều người không vừa lòng cũng không tiện nói ra.
Về phương diện giai cấp thống trị, Lưu Bị dung hòa thế lực Kinh Châu và Ích Châu biểu hiện bề ngoài thì Đổng Hòa cùng với Gia Cát Lượng nắm đại quyền, còn về phân phối quyền lực thực tế, đều dựa cả vào Gia Cát Lượng và Pháp Chính. Theo đề nghị của vài người, Lưu Bị đã sử dụng những kẻ sĩ tài giỏi thời cũ, chẳng kể gì thân sơ, theo tài năng mà đề bạt thích hợp.
Đổng Hòa nguyên là người Kinh Châu, thời trẻ theo Lưu Yên vào Thục, là một viên quan hành chính rất có năng lực, phàm là những nơi ông ta cai trị, đều đã biến đổi phong tục, sợ uy mà không phạm lỗi. Thời Lưu Chương, Đổng Hòa ra làm Thái thú quận Ích Châu ở phía nam; ông ta có quan hệ tốt với các dân tộc thiểu số ở địa phương, được dân yêu mà tin theo. Dưới thời Lưu Chương hôn mê, những quan lại địa phương có thành tích như Đổng Hòa rất ít. Gia Cát Lượng biết rõ Đổng Hòa là một nhân tài khó kiếm được, bởi thế yêu cầu Lưu Bị đặc biệt đề bạt, trở thành cánh tay quan trọng của Gia Cát Lượng trong việc điều hành Ích Châu.
Hứa Tĩnh là Thái thú Thục quận, là anh của Hứa Thiệu, nổi tiếng ở Nhữ Nam, vẫn có tiếng ở vùng Giang Nam, Lưu Chương đặc biệt cho ngươi mời mọc ông ta làm Thái thú Thục quận cũng là một trưởng quan hành chính rất quan trọng ở Thành Đô, có thể nói là một đại thần được Lưu Chương tín nhiệm và tôn trọng, song đang khi Thành Đô nguy cấp, Hứa Tĩnh thấy sinh mệnh của trăm họ là điều quan trọng nhất, bởi thế chủ trương hòa bình giải quyết vấn đề Thành Đô, do Lưu Chương ngần ngừ không quyết, Hứa Tĩnh đã dự định lén mở cửa thành để tiếp đón quân Kinh Châu, may mà Lưu Chương cảnh giác, âm mưu chưa thể thực hiện. Song bởi Hứa Tĩnh có danh vọng cao, rất được lòng người, nên Lưu Chương đối với việc làm phản này cũng chưa thể truy cứu.
Lưu Bị sau khi nắm quyền bính, đối với hành vi bán chúa lúc lâm nguy của Hứa Tĩnh, không được vừa ý, bởi thế có dự định không trọng dụng ông ta nữa.
Pháp Chính lại nhìn nhận khác hẳn, ông ta nói: “Trong thiên hạ có không ít người hữu danh vô thực, Hứa Tĩnh là một người như thế. Song chúa công hiện nay đang sáng nghiệp, chẳng thể khiến trăm họ Ích Châu nhìn rõ được Hứa Tĩnh, ông ta có danh vọng lớn khắp trong vùng nếu không trọng dụng ông ta, thiên hạ sẽ nhìn nhận chúa công là có ý khinh mạn hiền sĩ. Theo đề nghị của thần, vẫn phải trọng dụng ông ta, mới có thể lôi kéo nhân tài xa gần, đấy cũng là cốt lõi”. Yến Chiêu Vương ngày xưa trọng dụng Quách Hòe! Quách Hòe là một đại thần của Yến Chiêu Vương thời Chiến Quốc, Yến Chiêu Vương lên ngôi trong lúc loạn lạc, tích cực tìm kiếm nhân tài, gây dựng cơ đồ. Bởi nước Yên ở tận phương bắc, không dễ lôi kéo nhân tài ưu tú ở Trung Nguyên, Yến Chiêu Vương bèn hỏi han Quách Hòe về sách lược cầu hiền.
Quách Hòe cười mà nói với ông ta rằng: “Xin trước hãy trọng dụng Quách Hòe tôi đây! Nếu kẻ tài hèn như tôi vẫn được đức vua trọng dụng, kẻ sĩ có thực tài tự nhiên sẽ không ngại nghìn dặm mà tìm đến”. Yến Chiêu Vương bèn phong Quách Hòe làm Thái phó, đặc biệt tôn trọng, quả nhiên có không ít kẻ sĩ thực tài, rối rít từ Trung Nguyên đến nước Yên tìm cơ hội. Danh tướng Nhạc Nghị cũng vào thời gian ấy, theo về với Yến Chiêu Vương, rất được trọng dụng, đã giúp đỡ Yến Chiêu Vương xưng bá thiên hạ.
Ý tứ của Pháp Chính là tiếp tục lợi dụng danh tiếng lớn của Hứa Tĩnh, đối với chính quyền mới của Lưu Bị ở Ích Châu đang thu hút nhân tài, sẽ có được sự giúp đỡ rất lớn.
Lưu Bị cũng làm theo đề nghị của Pháp Chính để Hứa Tĩnh làm Tả tướng quân Trưởng sử, Lưu Bị sau khi xưng làm Hán Trung Vương, lại cất nhắc Hứa Tĩnh làm Thái phó, sau này lập ra đế chế Thục Hán lại phong làm Tư đồ. Gia Cát Lượng sau khi nắm quyền cai trị, cũng rất tôn trọng Hứa Tĩnh.
Lưu Ba ở Linh Lăng, lúc đầu là người tích cực giúp đỡ chính quyền của Tào Tháo, Lưu Bị trong thời gian liên hợp với Tôn Quyền chống Tào Tháo, thì Lưu Ba cùng với các nhân sĩ thân Tào ở Kinh Châu, chủ trương Trung Quốc thống nhất, tiếp thu yêu cầu của Tào Tháo, đến chiêu an ở ba quận Trường Sa, Linh Lăng, Quê Dương ở phía nam.
Trận đánh Xích Bích, thế lực Tào Tháo bị bức rút khỏi Kinh Châu, ba quận phía nam ấy bị rơi vào phạm vi thế lực của Lưu Bị. Gia Cát Lượng thấy Lưu Ba có tài năng và nhân cách, đã viết thư chiêu dụ, song Lưu Ba lại bỏ quan mà đi, để lại lá thư không muốn phò tá một chính quyền không chính thống như Lưu Bị, khiến Lưu Bị đối với Lưu Ba rất chi căm giận.
Sau này Lưu Ba đến Giao Chỉ theo giúp Lưu Chương được Lưu Chương cho làm một chức quan cao cấp ở văn phòng. Đến khi Trương Tùng, Pháp Chính nêu kế hoạch mời Lưu Bị vào Thục cùng chống lại Trương Lỗ, Lưu Ba đã phản đối mãnh liệt, ông ta cho rằng Lưu Bị có dã tâm rất lớn, vào Thục ắt sẽ mang theo tai họa lớn. Đến khi Lưu Bị đã vào Thục chuẩn bị bắc phạt Trương Lỗ, thì Lưu Ba lại nói: “Nếu để Lưu Bị đi đánh Trương Lỗ như thế là thả hổ về rừng”.
Sau mấy lần can gián, đều không được Lưu Chương tiếp thu, Lưu Ba đành đóng cửa cáo bệnh, không tham dự vào chính sự ở Ích Châu.
Khi Lưu Bị bao vây Thành Đô mọi người đều cho rằng lần này Bưu Ba số đã hết, song Lưu Bị lại nghe theo đề nghị của Gia Cát Lượng, hạ lệnh rằng: “Nếu ai làm hại Lưu Ba thì phải tru di tam tộc”. Lưu Ba nghe vậy rất đỗi cảm động, sau khi Lưu Bị vào Thành Đô, Lưu Ba đến tận nơi tạ tội, Lưu Bị tự nhiên không trách cứ ông ta, lại nghe theo sự tiến cử của Gia Cát Lượng, để Lưu Ba giúp việc ở phủ thừa tướng.
6. Khoan dung trong mọi mặt, xây dựng công thức chung.
Ngoài những đại thần Ích Châu như Hoàng Quyền năm nào phản đối Lưu Bị vào Thục, hoặc những trưởng lão như Lý Nghiêm, Ngô Ý năm nào ở chiến trường đã đi theo Lưu Bị, Bành Dạng là người có tài năng, song vẫn chưa được Lưu Chương trọng dụng; Gia Cát Lượng đã cân nhắc tài cán và ý nguyện, trao cho chức vị để những người như ông ta tham gia chính phủ mới, phát huy hết tài năng.
Trong 5, 6 năm, có được hai châu Kinh, Ích, trận tuyến của Lưu Bị đã khuyếch đại mau chóng, các mặt lập trường, ý kiến, lợi hại cũng có nhiều mặt. Bởi thế Gia Cát Lượng phải đặc biệt chú ý mâu thuẫn giữa các quan lại văn võ mới cũ, để họ dốc lòng cống hiến, vì sự ổn định và phát triển của chính phủ mói mà nỗ lực ở mức lớn nhất.
Lại ví như danh tướng Quan Trung là Mã Siêu, vốn là lãnh tụ hùng cứ một phương, nay mắc nạn phải theo về với mình, đã cấp cho địa vị đặc biệt, bởi thế sau khi vào Thành Đô, Lưu Bị đã phong Mã Siêu làm Bình tây tướng quân. Địa vị ấy đã vượt cả lão tướng Triệu Vân, thậm chí còn bằng vai với Trương Phi.
Triệu Vân vẫn không coi trọng quyền tước, còn Trương Phi đối với danh sĩ có biệt tài, cũng hiểu rằng phải đặc biệt tôn trọng. Song Quan Vũ đang trấn thủ Kinh Châu xa xôi lại có vẻ không vừa ý, Quan Vũ vẫn tự coi mình là bậc cao, ông ta thấy Mã Siêu chỉ một bước đã lên đến chức Bình tây tướng quân, trong lòng sôi sục bất bình, lại đặc biệt viết thư cho Gia Cát Lượng bầy tỏ rằng Mã Siêu có tài năng đến đâu, thao lược so được với ai? Gia Cát Lượng rất hiểu Quan Vũ, bèn viết thư trả lời rằng: “Mã Siêu tài kiêm văn võ, anh hùng hơn người, là người hào kiệt trên đời, ví như Kình Bành có thể tranh cao thấp với Trương Phi, chẳng thể so sánh được với ông râu dài về tài năng phi phàm vậy (người đời vẫn khoe Quan Vũ có bộ râu đẹp)”.
Gia Cát Lượng qua lá thư ấy đã ví Mã Siêu với những mãnh tướng hữu dũng vô mưu như Bành Việt và Anh Bố, hoặc giống như Trương Phi mà thôi, dứt khoát không bằng Quan Vũ có văn võ toàn tài, vượt cả đám quần hùng. Quan Vũ xem thư rất đỗi cao hứng, đặc biệt còn đưa thư cho các tân khách xung quanh cùng thưởng thức, xem thế khá thấy thái độ ngạo mạn tự đắc của Quan Vũ lúc bấy giờ. Đấy cũng là nguyên nhân chủ yếu gây ra việc để mất Kinh Châu sau này. Song Gia Cát Lượng muốn để Quan Vũ yên tâm mới làm như thế. Đương nhiên Gia Cát Lượng cũng tự mình làm gương, có quan hệ tốt với các nhân sĩ, Kinh Ích Châu, ông với Đổng Hòa cùng vui lo với công việc. Hai người đắp đối dài ngắn, đồng lòng đồng trí, trở thành đôi bạn tâm giao. Ví như nhân vật Lưu Ba lại là người không dễ gần, ông ta tài hoa hơn người, có hiểu biết sâu rộng. Năm ấy, khi Lưu Bị bao vây Thành Đô, từng hứa với các tướng lĩnh vây thành là đánh xong Thành Đô, sẽ mang tài vật trong kho làm chiến lợi phẩm để mọi người cùng hưởng. Bởi thế sau khi chiếm được thành, các tướng sĩ đã vơ vét sạch châu báu trong kho, đến nỗi sau này đồ quân dụng không đủ, thường bị tài chính bó buộc, cũng khá đau đầu.
Lưu Ba lại đề nghị với Lưu Bị rằng: “Việc ấy thực ra chẳng khó khăn gì, chỉ cần cho đúc nhiều tiền 100 quan bình ổn vật giá, quan phủ định ra giá cả, sẽ quản lý được tình hình thị trường”. Có thể nói đây là một chính sách kinh tế tốt, lại là một chính sách phối hợp tiền tệ với hàng hoá để chủ động điều chỉnh và không chế thị trường, người có đầu óc như vậy thực không nhiều. Lưu Bị làm theo phương pháp của Lưu Ba, quả nhiên sau vài tháng kho tàng đã mau chóng đầy đủ cả.
Song Lưu Ba rất cao ngạo, ông ta xem thường võ tướng; đến cả Trương Phi cũng vậy. Có rất nhiều lần khi Trương Phi xin ông ta chỉ giáo, ông ta đều thoái thác, khiến Trương Phi rất bất bình.
Gia Cát Lượng khuyên Lưu Ba rằng: “Tướng quân Trương Dực Đức tuy là quan võ, song ông ta rất kính phục túc hạ, chúa công tập hợp cả văn võ để định đại sự. Túc hạ bản tính thanh cao, lẽ ra phải hiểu được một chút mới phải”.
Không ngờ Lưu Ba kiêu ngạo đáp rằng: “Đại trượng phu ở đời, phải rộng giao tiếp với anh hùng bốn biển, còn với kẻ võ phu thô lỗ thì có gì để nói”.
Gia Cát Lượng thấy thế, cũng không muốn nói nữa. Song Lưu Bị nghe được lại rất giận giữ mà rằng: “Ta muốn tập hợp đủ mọi người có văn tài và võ bị, để ổn định thiên hạ, Lưu Ba chỉ chuyên môn chống đối ta, ông ta hẳn muốn thích đến chỗ nào với Tào Tháo để làm quan à! Ông ta chỉ khiêu khích chúng ta mà chẳng có thành ý giúp đỡ chúng ta vậy!”.
Lưu Ba thấy Lưu Bị tức giận, phải vội vàng lui lại.
7. Nội chính vừa ổn định, ngoại nạn lại liên miên
Ích Châu vừa ổn định Gia Cát Lượng đã nghĩ ngay đến việc bình ổn nhân sự ở Trung ương và pháp chế, Lưu Bị thì thường đến các châu quận để giám sát, triệt để không chế Ích Châu một cách hữu hiệu. Song một điều khiến Lưu Bị và Gia Cát Lượng lo lắng là Tôn Quyền ở phía đông và Tào Tháo ở phía bắc, đối với Lưu Bị mới có được hai châu Kinh, Ích, đỏ mặt tức tối, vẫn thường có hành động khiêu chiến, khiến Lưu Bị và Gia Cát Lượng đang lúc chưa ổn định không khỏi lo lắng, để tâm đối phó cẩn thận.
Năm Kiến An thứ 15, cũng tức là hai năm sau khi Lưu Bị bình định Ích Châu, Tào Tháo phát động tấn công vào Trương Lỗ và Hán Trung, Lưu Bị lập tức phái một số lớn tình báo bí mật chú ý tình hình quân sự phái bắc, lại điều động hai đại tướng Trương Phi và Mã Siêu có kinh nghiệm phong phú đến phía bắc Ích Châu, để tăng cường việc phòng bị.
Không lâu sứ giả của Tôn Quyền là Gia Cát Cẩn, đến Ích Châu yết kiến Lưu Bị, yêu cầu trả lại Kinh Châu.
Lưu Bị đối với việc Tôn Quyền nhân khi ông ta vào Ích Châu, đã triệu hồi em gái là Tôn phu nhân về nước, hơn nữa lại còn bắt cả A Đẩu đi theo, thì tức giận không thôi. Song Gia Cát Cẩn lại là anh ruột của Gia Cát Lượng, một nhân sĩ Đông Ngô vẫn có cảm tình với Lưu Bị, nên Lưu Bị đành phải nói rằng: “Đợi chúng tôi chiếm được Lương Châu, tự nhiên sẽ đem Kinh Châu trả cho các ông”.
Gia Cát Cẩn tuy biết rõ đấy chỉ là lời thoái thác, song cũng không dễ cưỡng bức nữa đành mang ý kiến của Lưu Bị về báo lại cho Tôn Quyền.
Chẳng ngờ Tôn Quyền nghe vậy rất giận dữ, lập tức lệnh cho đại tướng Lã Mông dẫn quân tập kích vào ba quận phía nam là Trường Sa, Linh Lăng và Quế Dương.
Lưu Bị biết được quân tình, lập tức giao Ích Châu lại cho Gia Cát Lượng và Pháp Chính, tự mình dẫn 5 vạn quân chủ lực trở về Kinh Châu, đến đóng trại ở Công An để chỉ huy chung. Lại lệnh cho Quan Vũ dẫn quân Kinh Châu theo đường Giang Lăng xuống phía nam, cùng với quân Trường Sa trấn giữ Ích Dương, để biểu thị thái độ cứng rắn.
Song Tôn Quyền cũng không chịu lùi, ông ta lệnh cho Lỗ Túc và Hạ Khẩu theo phía nam đến Ích Dương chuẩn bị với Quan Vũ cùng lấy cứng trọi cứng còn mình thì đóng ở Lục Khẩu, nắm diễn biến quân sự, trước mắt mối liên minh hai bên sắp bị phá vỡ, tình thế đại chiến có thể sẽ nổ ra.
Đang vào lúc khẩn cấp như thế, có tin ở phía bắc Hán Trung đang có chiến sự, Tào Tháo đã giành được thắng lợi quyết định, Lưu Bị thất kinh, sợ Tào Tháo thuận đà tràn xuống phía nam, Ích Châu có thể có biến, bèn chủ động phái sứ giả đàm phán với Tôn Quyền hai bên ký hiệp định phân chia Kinh Châu, lấy sông Tương Thủy làm ranh giới, ba quận phía đông Tương Thủy là Giang Hạ, Trường Sa, Quế Dương thuộc Tôn Quyền các quận phía tây Tương Thủy là Nam Quận, Linh Lăng, Vũ Lăng thuộc Lưu Bị; như vậy chiến tranh tạm thời hoà hoãn lại, kéo dài thêm liên minh Tôn - Lưu vốn đã rệu rã.
Thực ra với tình thế lúc ấy mà nói, chẳng những Lưu Bị đang chịu uy hiếp, nếu như Tào Tháo hoàn toàn khống chế Hán Trung, thì chiến tuyến Hợp Phì ở phía đông cũng ắt sẽ bị nguy cấp, Tôn Quyền sẽ bị áp lực nghiêm trọng cho nên liên minh Tôn - Lưu đối với cả hai bên đều rất cần thiết.
Quân chủ lực của Lưu Bị không dám quay lại Kinh Châu mà đến thẳng Giang Châu ở phía bắc Ích Châu để tuần tra. Trương Lỗ lúc ấy đã chạy khỏi Ba Trung, tham mưu Hoàng Quyền nói với Lưu Bị rằng, Hán Trung đã mất, ba quận Ba Đông, Ba Tây, Ba Trung đều khó phòng thủ hữu hiệu, nếu ba quận ấy mà mất, ví như Ích Châu mất cánh tay, tình huống sẽ rất nghiêm trọng, bởi thế không gì bằng liên hợp với Trương Lỗ, cố thủ ở Ba Trung để chống lại quân Tào Tháo tràn xuống phía nam. Lưu Bị lập tức lệnh cho Hoàng Quyền làm hộ quân, dẫn quân lên phía bắc đón Trương Lỗ.
Không ngờ Hoàng Quyền mới đến Ba Trung (nay là Gia Lăng) Trương Lỗ đã trở về Nam Trịnh, chính thức tuyên bố đầu hàng Tào Tháo.
Hoàng Quyền lập tức tấn công vào ba quận ấy, uy hiếp Thái thú Ba Đông là Phác Hồ, Thái thú Ba Tây là Đỗ Hỗ và Thái thú Ba Quận là Nhiệm Ước, thế là Ba Trung hoàn toàn bị Lưu Bị khống chế.
Lúc đó Tào Tháo cũng phái đại tướng Trương Tích xuất binh thu hồi ba quận ấy, đến đóng đồn ở Nhan Cừ, Lưu Bị lệnh cho Trương Phi đang làm Thái thú Ba Tây dẫn quân nghênh chiến, hai hên đối trận hơn 50 ngày. Trương Phi dùng kế đánh bại được Trương Cát, Trương Cát rút quân về Nam Trịnh. Diện mạo ba quận ở đấy tạm thời được ổn định, thực ra qui mô chiến tranh lại càng lớn, đang ủ men ngấm ngầm. Quân Lưu Bị vừa mới được nghỉ ngơi, lại không tránh khỏi bị cuốn vào cuộc tranh giành Hán Trung với Tào Tháo ở phía bắc.

Lời bình của Trần Văn
Trong chiến dịch công thủ liên tục, không tránh khỏi va chạm với cường địch khó khắc phục, lúc ấy chiến thuật khéo léo đến đâu, hoặc liều mạng quyết đâu, đều rất khó có hiệu quả. Ngô Khởi tác giả cuốn Ngô tử binh pháp cho rằng, như thế phải có binh lực rất lớn, hoặc mưu kế của thánh nhân. Nói cách khác, khi đối diện với cường địch, chiến lược có tầm quan trọng lớn hơn so với chiến thuật.
Trong cuốn Ngô Tử có chép: “Ngụy Vũ Hầu hỏi rằng: Có quân rất đông, lại có võ dũng, hơn nữa địa hình rất có lợi, lưng dựa vào núi lớn, mặt nhìn ra nơi hiểm trở, bên phải là núi, bên trái là sông, hào thì sâu, lũy thì cao, lại có lắm nỏ cứng, công sự phòng ngự cẩn mật, trụ vững như núi, tiến như gió lốc, lương thực rất nhiều, khó đối trận lâu dài với họ, như vậy là thế trận bất lợi với ta, phải đối phó như thế nào?”.
Ngô Khởi đáp rằng: “Đấy là vấn đề rất quan trọng! Song không thể dựa vào số ngựa xe binh lính để giải quyết, mà phải dựa vào mưu kế của bậc thánh nhân, từ đại cục mà cân nhắc, vận dụng trí tuệ, tìm kiếm sách lược, mới có thể giải quyết vấn đề.
Đầu tiên phải bố trí trận địa nhiều tầng lớp, bởi thế binh lực điều động nhất định phải đầy đủ, nếu không quân lực phải chia ra, lực lượng ắt suy yếu, bề mặt nên chia thành năm tuyến, hơn nữa các tuyến đều phải nắm được vị trí xung yếu.
Bố trí chia quân làm năm tuyến, chủ yếu làm cho kẻ địch khó nhận ra, không biết quân ta sẽ hành động ra sao, cũng khiến họ phải phân tán binh lực để phòng thủ.
Nếu quân địch cố thủ không ra, bảo thủ thực lực, nên lập tức phái gián điệp, trinh sát tường tận hành động và mưu toan của kẻ địch, để hiểu rõ phải chăng họ có quân tiếp viện. Đồng thời phái sứ giả hoà bình, đến đàm phán hoặc chiêu hàng. Kẻ địch nghi ngờ thực lực của quân ta, nếu biết rõ tình thế, kẻ địch có thể thấy khó mà rút lui, không cần phải huyết chiến cứng chọi với cứng, sẽ có thể giải trừ được thế đông cứng.
Nếu như đàm phán không xong thì năm tuyến quân cùng nhất tề tiến đánh. Nếu giành được thắng lợi, chẳng nên truy đuổi, để tránh rơi vào cạm bẫy của đối phương; còn không giành được thắng lợi, nên lập tức rút lui mau chóng, vận dụng phương pháp tác chiến cơ động. Song khi giả vờ rút chạy phải chú ý đến trật tự, chẳng thể hỗn loạn. Một tuyến sẽ đánh vào chính diện; một tuyến sẽ dùng chiến thuật vu hồi, chặt đứt phía sau để tác động tinh thần binh sĩ đối phương; hai tuyến khác thì tập kích vào bên trái hoặc bên phải; còn một tuyến nữa thì dùng chiến thuật du kích đánh vào điểm yếu của đối phương. Năm tuyến cùng tương hỗ công kích như vậy, để sáng tạo ra nhiều cơ hội có lợi, đấy chính là phương pháp tốt nhất để tiến đánh cường địch”.
Trận đánh ở Lạc Thành, quân viễn chinh của Lưu Bị, trước sự phòng thủ vững chắc của mãnh tướng Trương Nhiệm bị rơi vào thế đông cứng. Trong lúc nguy cấp, Lưu Bị và Gia Cát Lượng chẳng những không chịu rút lui về thế co cụm, trái lại không để ý đến tuyến phòng thủ ở phía đông và phía bắc, lại chọc vào tổ kiến, tập trung lực lượng để giải quyết gọn vấn đề.
Trong đợt công kích thứ hai, Gia Cát Lượng lại dùng chiến thuật phân tán mà tiến đánh, để Trương Phi mang quân chủ lực đánh vào chính diện, tự mình với Triệu Vân chia làm hai mũi giáp kích, mục đích chủ yếu để tạo ra những nguy cơ làm nhiễu loạn suy nghĩ của đối phương. Hơn nữa cánh quân của Triệu Vân đánh ở phía tây bắc, chẳng những có thể cắt đứt hậu phương của Trương Nhiệm, mà còn bức Trương Nhiệm không thể không ra ngoài thành quyết chiến với Bàng Thống, cũng tạo thành sự uy hiếp khá lớn với quân phòng thủ ở Thành Đô.
Song chiến thuật phân tán mà đánh này nghiêm chỉnh mà nói cũng khá nguy hiểm. Quân đội tác chiến lấy tập chung cơ động làm nguyên tắc. Phân tán rất dễ bị đánh phá từng phần, bởi thế khi vận dụng chiến thuật này cần phải chú ý đặc biệt.
Gia Cát Lượng trong đợt tây tiến thứ hai, có thể nói ông ta trong quá trình phân tán quân đội, vẫn không ngừng hội quân. Hội quân lần đầu ở Giang Châu, lại phân làm ba đường trong thời gian rất ngắn, theo các hướng đông nam tây bắc, hẹn hội quân ở Thành Đô. Mục đích chủ yếu vẫn là khi phân tán binh lực, để sau đó lại tập trung, mà không vấp phải nguy cơ trong khi tiến hành.
Trong phân tán có hợp nhất, trong hợp nhất có phân tán, trong chân chính có kỳ ảo, trong kỳ ảo có chân chính, đấy là nguyên tắc rất thần diệu trong vận dụng binh pháp chiến thuật.