Phụ chương
QUAN ĐIỂM THỰC DỤNG
KẾ SÁCH TĂNG CƯỜNG NỘI BỘ

    
ang quân ra ngoài trước phải yên được bên trong, cơ hồ là mỗi nhà chính trị và kinh doanh thường vẫn nhắc ở cửa miệng, song thực sự làm được, có thể nói chẳng phải dễ dàng chút nào.
Vấn đề nội bộ, xem ra không khẩn cấp như vậy, ở mức độ nghiêm trọng cũng thường thấy là bình thường, song xử lý thực sự lại rất khó khăn. Chinh phạt bên ngoài ít nhiều có thể tạo thành sự gắn bó lực lượng nội bộ, lại có thể đối diện với vấn đề, tiến tới giải quyết vấn đề. Xử lý vấn đề nội bộ thì rất khó khăn, trái lại lực đàn hồi rất lớn, thực tế không khẩn cấp lắm, song khi trực tiếp xử lý thường bởi ý kiến rất nhiều mà tạo thành chia rẽ, khi làm nói chung thường ngại động chân tay.
Sau khi chinh phạt bên ngoài kết thúc, nói là lực lượng có đủ, có thể dùng lực bên ngoài để thống trị, cũng giành được thêm lợi ích. Chẳng may lực lượng không đủ, lại có thể nói là “lấy đức báo oán”, thả trâu ăn cỏ, không rõ thế nào. Song bình định bên trong thì không như vậy, thành công có thể làm tăng thêm oán hận giữa hai bên, về sau lại thường thấy mặt, cân nhắc không khéo sẽ diễn ra vấn đề nghiêm trọng hơn.
Huống chi đã nói chinh phạt bên ngoài ắt phải yên bên trong, thông thường là trong ngoài đều có kẻ địch, khi xử lý nội bộ sẽ tạo ra phân hoá lực lượng, có thể khiến áp lực bên ngoài tăng mạnh, bên trong còn chưa yên định, khi kẻ địch đã đến chân thành thì tất cả đã chấm hết.
Song binh pháp Tôn Tử nhấn mạnh: “Trước thì không có thể thắng mà chờ đợi thì có thể thắng được kẻ địch. Đích xác chinh phạt bên ngoài tuy có thể tập trung nội bộ, song kẻ địch bên ngoài nếu có thực lực thường không thể trong thời gian ngắn mà giành được ưu thế tuyệt đối, cho nên thời gian mài mòn phải cần rất nhiều, nếu nội bộ không yên ổn, vấn đề không giải quyết, phát động chiến tranh đối ngoại, thường sẽ làm cho hao của mệt người. Thắng được bên ngoài, thu được nội bộ, kết quả tự nhiên là thông suốt toàn thể.
Bởi Tào Phi nam chinh đánh Đông Ngô, có ý cảnh cáo hơn là thực tế tác chiến, tuy nói là ngự giá thân chinh song chỉ tăng áp lực ở chiến tuyến phía đông, còn quận Tương Phàn ở phía tây chưa phối hợp gây áp lực, bởi thế Tôn Quyền chưa yêu cầu Gia Cát Lượng chi viện. Hai ngoại lực phương bắc và phương đông đang đối chọi nhau, áp lực bên ngoài chợt giảm đi, tự nhiên là thời cơ rất tốt để dẹp yên nội bộ.
Phản loạn ở Nam Trung xảy ra đã lâu, song Gia Cát Lượng không vội vã xử lý, một mặt là do ý kiến nội bộ trong triều đình chia rẽ, hợp lực không đủ, có thể Gia Cát Lượng bản thân cũng chưa tìm được một biện pháp tốt có thể giải quyết; được triệt để. Lại thêm áp lực bên ngoài rất lớn, thời cơ không thuận lợi, cho nên đành nhẫn nại chờ đợi.
Yên định nội bộ và chinh phạt bên ngoài không giống nhau, chinh phạt bên ngoài thường bởi nhiều yếu tố không thể khống chế, cho nên cần phải “mài thời gian”. Bình định nội bộ thì không như vậy, bởi sau này vẫn phải luôn luôn đối diện, cho nên, sự việc tốt nhất là triệt để giải quyết một lần, nếu không lực lượng nội bộ oan oan tương báo, ắt sẽ làm hỏng lợi ích chung. Anh em đánh nhau trong tường, thường so với va chạm bên ngoài lại càng kịch liệt hơn.
Lợi ích và lực lượng dùng đến đều phải quân bình cân nhắc, những ý kiến sai khác về xung đột có thể giúp lập ra được trình tự công việc để giải quyết vấn đề, là mục tiêu sau khi yên ổn nội bộ ắt phải đạt đến, cũng tức là chế độ bình thường hoá nói chung. Để tránh mức độ xung đột và khác biệt xảy ra, yên định nội bộ tốt nhất là dùng đàm phán mà không dùng vũ lực, để giải toả hữu hiệu thù hận giữa hai bên. Khi bất đắc dĩ mà phải dùng đến vũ lực, tốt nhất là giảm đến mức thấp nhất thương tổn của hai bên. Sách lược “công tâm làm đầu” của Mã Tắc, Gia Cát Lượng nhận thức rằng vấn đề ở Nam Trung chính trị nặng hơn quân sự, nguyên nhân chủ yếu cũng là ở đấy.
Đã là vấn đề chính trị, rất trọng yếu là thành ý và tính đàn hồi, hơn nữa là một bên có lực lượng rất lớn, càng phải rõ ràng bày tỏ ý định và tình cảm chủ động giải quyết vấn đề, nếu không rất khó thực sự giải quyết được vấn đề.
Khí hậu và địa thế Nam Trung rất hiểm trở lại thêm phải đợi thời Ngụy Ngô không quấy nhiễu, cho nên Gia Cát Lượng ắt phải nhằm mùa hạ, tiến vào vùng rừng rậm nhiệt đới lắm hồ đầm, điều kiện thực tế xấu, nguy hiểm rất lớn, cho nên quan lại Thục Hán phản đối với Gia Cát Lượng trong vai trò quốc gia quan trọng lại tự mình nam chinh, nếu từ lập trường thông thường nhìn như vậy là đúng, vấn đề Nam Trung nghiêm trọng như vậy, hơn nữa binh lính và đội quân huy động cũng không nhiều, từ góc độ đơn thuần quân sự hoặc bình loạn mà xem, phái một viên thượng tướng thống soái là đủ.
Nam Trung tuy thuộc vùng biên cương, song Gia Cát Lượng hiển nhiên rất có thành ý, xem là vấn đề nội bộ của vương triều Thục Hán, bởi thế ông ta cho rằng chính trị trọng hơn quân sự, để triệt để giải quyết, không thể không tự mình xuất chinh. Tuy binh mã động viên không nhiều, hơn nữa có rất nhiều quân đoàn vốn phải phụ trách một khu vực an toàn ở đấy, mà không là quân trực thuộc triều đình, song thống soái tối cao lại tự mình cầm quân ra trận, rõ ràng biểu thị thành ý giải quyết vấn đề trọng ở quân uy.
Đã là vấn đề chính trị, Gia Cát Lượng sau khi kết thúc chiến sự, càng cần xử lý tốt vấn đề chính trị, lấy công tâm làm đầu, khiến các thế lực thiểu số yếu đuối yên tâm, triệt để làm cho họ cảm thấy được thành ý của người thống trị, càng không thể lợi dụng quân uy, cho nên công việc sau này của Gia Cát Lượng, lại ủy thác cho những người đã làm phản lúc đầu. Tiếp nhận sự đầu hàng của họ, tự nhiên cần biểu hiện sự tin tưởng vào họ, khiến tất cả lại khôi phục ở nguyên trạng thái ban đầu chưa xảy ra chiến sự mới có thể lập ra được chế độ bình thường. Tuy vấn đề không có thể giải quyết một lần, song một bên có ưu thế nếu như không có thành ý và nhẫn nại hơn người, nghĩ đến xây dựng hoà hợp hai bên, như vậy sẽ hoàn toàn không giải quyết được.
Giải quyết vấn đề nội bộ rắc rối, phải điều động một lực lượng hơn hẳn trong giao tranh, thái độ của bên yếu và bên mạnh không giống nhau, ắt phải có thành ý, song nhất định phải kiên trì nguyên tắc “an toàn” của mình, binh pháp Tôn Tử đề cập lập trường của mình đổi với kẻ yếu là “không gì bằng né tránh”. Điều kiện để giải quyết vấn đề không chỉ ở kẻ mạnh, kiên trì lập trường sinh tồn của mình và nguyên tắc an toàn, mới có thể khiến bên có thế lực mạnh đưa ra được thành ý chân chính.
Gia Cát Lượng khi chiếm được sức mạnh tuyệt đối, lại làm như nhượng bộ triệt để, chính là một nước cờ cao tay khiến ông ta giải quyết vấn đề nội bộ ổn thoả, sự hoài niệm và tôn sùng của các dân tộc thiểu số hàng nghìn năm đối với ông, đích xác là có đạo lý của nó.