THIÊN THỨ BẢY
BẮC PHẠT TRUNG NGUYÊN
Chương XXIII
XUẤT SƯ BIỂU

...Thần vốn mặc áo vải, mang thân cày ruộng ở Nam Dương, mong giữ toàn tính mệnh ở đời loạn, chẳng mong được nổi tiếng với chư hầu. Tiên đế không xem thần là tầm thường, đem lòng thương đến, ba lần tìm đến nơi lều cỏ, hỏi han thần về việc đương thời, bởi thế mà đem lòng cảm kích, đã hứa theo giúp tiên đế, dốc hết sức lực nhận việc giữa lúc quân thua tướng bại, chịu lệnh trong khi nguy nan, đến nay đã là 21 năm.

... Nay phương nam đã định, binh pháp đã đủ đang khi lòng quân phấn khởi, nên bắc phạt Trung Nguyên, xin đem hết sức lực hèn mọn, để diệt trừ kẻ gian ác, phục hưng lại nhà Hán sẽ trở về kinh đô cũ, như thế thì thần có thể báo đáp được tiên đế, mà cũng tỏ rõ trung thành với chức phận mà bệ hạ đã giao phó.

(Xuất Sư Biểu của Gia Cát Lượng)
 
uất Sư Biểu” như lời một người cha trước lúc đi xa ân cần dặn dò người con phải “thân với hiền thần, xa lánh tiểu nhân”, lời lẽ rất tha thiết, chân tình và cảm động, khiến người khác cũng phải cảm kích.
1. Tào Phi từ trần, Mạnh Đạt khởi nghĩa.
Mùa đông năm Kiến Hưng thứ 3, Gia Cát Lượng sau khi bình định Nam Trung, theo đường từ đông bắc Vân Nam, dẫn quân về triều. Những trọng thần phủ Thừa tướng như Tưởng Uyển và Phí Thi, cũng từ Thành Đô đên đón, cùng đi có cả Lý Hồng mới từ nước Ngụy theo về với Thục Hán. Gia Cát Lượng đã tiếp kiến họ ở huyện Hán Dương quận Chu Đề.
Trong Tam quốc chí ở phần chuyện Phí Thi có chép như sau:
Lý Hồng nói với Gia Cát Lượng: “Tôi trước khi đến đây, từng ở Tân Thành với Mạnh Đạt (tướng nước Thục cùng với Pháp Chính dẫn Lưu Bị vào Thục, sau sự kiện Lưu Phong đầu hàng Tào Ngụy được bổ nhiệm làm tướng giữ Tân Thành) ở đấy có gặp được Vương Xung, ông ta xích mích với Lý Nghiêm theo về với nước Ngụy; ông ta nói với Mạnh Đạt, năm nào Mạnh Đạt đầu hàng quân Ngụy, Thừa tướng Gia Cát Lượng rất giận dữ, muốn xử chém cả nhà Mạnh Đạt, may được tiên đế còn nhớ tình cũ tha thứ cho cả nhà Mạnh Đạt. Mạnh Đạt nghe rồi, lại không nghi ngờ gì, nói với Vương Xung rằng, Thừa tướng Gia Cát Lượng vẫn trọng đạo nghĩa, đối với người khác có thủy có chung, dứt khoát không làm ra như vậy. Sau này tướng quân Mạnh Đạt biết tôi đi về nam ngầm dặn dò, sắp tới muốn thừa tướng đặc biệt lưu ý cho...”.
Gia Cát Lượng nghe rồi, nói với Tưởng Uyển và Phí Thi: “Sau khi về Thành Đô, nên thông báo gấp tình hình cho Mạnh Đạt biết!”.
Phí Thi cũng nói: “Mạnh Đạt vốn ăn ở hai lòng, năm xưa đã theo giúp Lưu Chương mà không tận trung, sau này lại phản bội tiên đế, người này chẳng nên thân gần làm gì”.
Gia Cát Lượng lắc đầu, im lặng không nói, trong lòng đã có chủ trương.
Tháng 12 sau khi trở về Thành Đô, Gia Cát Lượng lập tức cho vời Thị lang Phí Vỹ.
Nam chinh kết thúc, công tác tiếp theo là kế thừa nhiệm vụ của Vương triều Thục Hán, mà Lưu Bị xây dựng, đánh bại Tào Ngụy phục hưng nhà Hán. Song bắc phạt chẳng phải là việc giản đơn, dùng sách lược gì, dùng thủ đoạn gì, đích xác là vấn đề đau đầu lâu dài, chẳng phải quyết định dễ dàng. Nhưng từ lập trường thực hiện, lại có những việc chẳng phải trước đây làm không được, tức là triệt để nghiên cứu thái độ và cách nghĩ của Tôn Quyền ở Đông Ngô.
Phí Vỹ từng có kinh nghiệm đi xứ Đông Ngô, có quan hệ ngoại giao không sai lầm, hơn nữa tuổi còn trẻ chẳng có dáng vẻ như quan lại thời đại Lưu Bị, có thể chính là người được lựa chọn giao thiệp đàm phán tốt nhất, nhạy cảm nhất.
Đúng như dự liệu của Gia Cát Lượng, Tôn Quyền đối với việc nam chinh của Gia Cát Lượng lần này về thái độ cũng khá mâu thuẫn, ông ta từng bố trí khá nhiều binh mã ở vùng giữa Giao Châu và Ích Châu, hơn nữa lại bổ nhiệm con trai Lưu Chương là Lưu Xiển làm Thứ sử Ích Châu, đóng đồn ở vùng ấy, biểu thị Tôn Quyền đối với vùng Nam Trung khá có dã tâm. Song về mặt này Gia Cát Lượng lại cao hơn một nước cờ, ông đối với bố cục của Tôn Quyền giả vờ như không để ý, mà sau khi Lưu Bị chết lại phái nhiều sứ giả, tích cực xây dựng lại quan hệ ngoại giao, khiến Tôn Quyền về căn bản chẳng thể công khai phái quân giúp đỡ bọn phản loạn Ung Khải. Lại thêm khi Gia Cát Lượng dẫn quân vào Nam Trung, lại rất khéo léo, đang khi Tào Phi thân chinh dẫn quân xuống Giang Nam, là thời gian uy hiếp Tôn Quyền và Thục Hán. Tôn Quyền rất biết mục đích của Tào Phi chỉ là dọa nạt mà thôi, chẳng có quyết tâm đánh lớn, song đối mặt với đạo quân Tào Ngụy, Tôn Quyền không dám chủ quan, đành giương mắt mà nhìn Gia Cát Lượng dẫn quân thảo phạt Nam Trung. Tuy Tôn Quyền đích xác không có lực lượng can thiệp, song Gia Cát Lượng cũng rất biết trong lòng Tôn Quyền có sự bất bình, ắt sẽ ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao giữa hai nước sau này, sẽ là nguyên nhân quan trọng để Gia Cát Lượng không thể yên tâm bắc phạt Trung Nguyên.
Nhiệm vụ của Phí Vỹ chính là vỗ yên Tôn Quyền bởi Gia Cát Lượng dẹp loạn ở Nam Trung mà sinh ra tâm lý bất bình.
Hiển nhiên Gia Cát Lượng đã chủ động biểu thị sự tôn trọng, Tôn Quyền vẫn là nhà chính trị thực tế có khí chất, biết rõ tính quan trọng của liên minh giữa Thục Hán và Đông Ngô, chẳng những cho gọi Lưu Xiển đang ỏ biên giới trở về còn tặng cho Hậu chủ Lưu Thiện hai con voi đã thuần biểu thị ý muốn thân thiện.
Năm sau, là năm Kiến Hưng thứ 4 tức là năm Hoàng Sơ thứ 7, vào tháng 5 lại phát sinh một sự kiện có ảnh hưởng rất lớn đến thế bình quân vốn có, đó là đột nhiên Ngụy Văn đế Tào Phi từ trần.
Được Tào Tháo cố ý huấn luyện, Tào Phi được xem là văn võ toàn tài, hơn nữa lại là một lãnh tụ chính trị có hiểu biết rộng. Song đấy chỉ là bề ngoài, thực ra về bản tính Tào Phi so với Tào Tháo thì có tình cảm hơn. Ông ta say mê văn học, thấm nhuần tình cảm, bởi thế về quan hệ với người chẳng thể mở rộng như Tào Tháo. Ông ta yêu hoàng hậu Chân Thị, song cuộc tranh chấp hai phe không ngừng cuối cùng Chân Thị cũng bởi thế mà bị bức chết. Quan hệ với người em là Tào Thực, lại là vấn đề nan giải, tuy ông ta chiếm ưu thế, song về tinh thần, thì rất khổ não, cũng bởi thế mà ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ.
Để báo thù Tào Tháo năm nào bị đánh bại ở trận Xích Bích, Tào Phi thường lợi dụng mùa đông để diễn tập thủy quân, tháng 10 năm trước, ông ta tập hợp 10 vạn binh sĩ duyệt binh ở thành cũ Lâm Giang thuộc Quảng Lăng. Do mùa đông năm ấy đặc biệt lạnh giá, nước sông đóng băng, thuyền không qua được, cuộc duyệt binh cuối cùng đành phải từ bỏ, Tào Phi trong bụng rất không vui. Có thể bởi thế mà bị phong hàn, khiến cho sức khoẻ của ông ta vốn kém lại càng thêm xấu đi. Mùa xuân năm sau, Tào Phi trở về Hứa Xương vốn là bản doanh của Tào Ngụy, lại gặp phải chuyện cửa thành phía nam bị sập đổ. Tào Phi đang có bệnh thấy như thế, trong bụng càng nghĩ ngợi, bèn không vào thành, đến thẳng Lạc Dương, dưỡng bệnh ở Cửu Hoa Đà.
Đến tháng 5 bệnh tình thêm nghiêm trọng, lập tức cho vời Đại tướng quân Tào Chân, Đại tướng quân Trần Quần, Chinh đông đại tướng quân Tào Hưu, Phủ quân đại tướng quân Tư Mã Ý, dận dò các đại thần ấy phụ tá cho Thái tử Tào Tuấn. Năm ngày sau mất ở điện Gia Phúc, mới có 49 tuổi.
Tào Phi rất yêu thích văn học, thích sáng tác, Trần Thọ trong Tam quốc chí khen ông ta có thiên bẩm văn chương, hạ bút thành thơ, rộng nghe rộng hiểu, tài nghệ gồm đủ. Ví như ở ngôi Hoàng Đế cao sang, mỗi ngày bận rộn với bao việc chính sự vẫn viết được hàng trăm bài luận văn. Ngoài ra ông lệnh cho những người nho học quốc sĩ biên soạn lại kinh truyện, kể đến hơn 1000 thiên sách gọi là “Hoàng Lãm”.
Tào Tuấn là con cả của Tào Phi cũng là con của hoàng hậu Chân Thị đã bị phế truất, khi nhỏ rất được Tào Tháo yêu thích. Sau khi Tào Tháo chết, Tào Phi xung đột với Chân Thị ngày mỗi lớn, bởi thế không lập làm con kế nhiệm, hơn nữa sau khi Chân Thị bị bức chết, Tào Tuấn vốn là người con có hiếu với mẹ, đối với phụ thân rất không phục tùng, Tào Phi bèn có ý lấy con của người vợ khác là Kinh Triệu Vương làm người kế nhiệm.
Nhưng Hoàng hậu sau này là Quách thị lại rất thương yêu Tào Tuấn, lại bởi Hoàng hậu Quách thị không có con bèn lấy Tào Tuấn làm con nuôi. Tào Tuấn có dáng vẻ tuấn tú, thiên tư hiền lành, thờ Quách thị rất là hiếu thuận bởi thế mà được Quách thị che chở, lại nữa Tào Phi đang ỏ tuổi trung niên cũng không vội vã chỉ định người kế nhiệm.
Có lần, Tào Phi dẫn Tào Tuấn đi săn, thấy hai mẹ con con hươu, Tào Phi lập tức bắn chết hươu mẹ, lại bảo Tào Tuấn bắn chết hươu con, Tào Tuấn dứt khoát cự tuyệt. Tào Phi kinh ngạc hỏi có chuyện gì, Tào Tuấn đáp rằng: “Bệ hạ đã giết mẹ nó, thần không nhẫn tâm lại giết con”. Tào Phi lấy làm kỳ lạ bèn lệnh cho ngừng cuộc săn bắn, lại thấy Tào Tuấn hiền lành mà kiên nghị, quyết tâm lập làm người kế nhiệm.
Tào Phi bị bệnh nặng, trước các đại thần, lập Tào Tuấn làm Hoàng thái tử, dặn dò các đại thần phụ tá, đặt tên cho là Ngụy Minh đế.
Tào Phi từ trần, chính quyển Tào Ngụy ắt phải rơi vào sự hỗn loạn và khẩn trương trong một thời gian ngắn, đối với Gia Cát Lượng lại có thể nói là thòi cơ tốt nhất để phát động bắc phạt.
Song, Gia Cát Lượng không nhằm thực sự vào đấy, để có thể ra đòn đánh phá chính quyền Tào Ngụy, mục tiêu của ông thực ra chỉ là vùng Lương Châu ở phía tây bắc biên cương, nếu may mắn có thể từ đó đánh chiếm thêm được Trường An của vùng Quan Trung. Lương Châu vẫn là một mục tiêu xâm chiếm của chính quyền Thục Hán sau khi đoạt được Hán Trung. Năm xưa khi Tôn Quyền yêu cầu Lưu Bị trả Kinh Châu, Lưu Bị đã trả lời rằng nếu lấy được Lương Châu sẽ trả Kinh Châu. Khi Lưu Bị vào Thục, cố ý lôi kéo danh tướng ở Quan Trung là Mã Siêu cũng là hy vọng sau này khi chinh phạt Lương Châu có được sự trợ giúp. Nếu như thuận lợi đoạt được Lương Châu, từ tây bắc và tây nam cùng giáp kích, có thể chiếm được vùng Quan Trung, chỉ cần nắm được Trường An thì có thể uy hiếp trực tiếp kinh thành mới của Tào Ngụy ở Lạc Dương. Nếu như đồng thời đoạt được cả Trường An và Lạc Dương thì chính quyền Tào Ngụy phải cố thủ ở những căn cứ quân sự quan trọng mà Tào Tháo để lại là Hứa Đô và Nghiệp Thành, song Thục Hán vẫn có thể phản bại thành thắng nắm giữ then chốt Trung Nguyên, mục tiêu khôi phục nhà Hán cũng tiến thêm một bước.
Gia Cát Lượng cẩn thận và thực tế, tự nhiên không thể nằm mộng giữa ban ngày, mục tiêu bắc phạt của ông chỉ nhằm vùng Lương Châu mà chính quyền Tào Ngụy phòng thủ yếu mà thôi. Nếu như chiếm Lương Châu thuận lợi, thì đất Tân Thành mà Mạnh Đạt đang trấn giữ, cũng là đất không thể không tranh chiếm vậy.
Tuy sau khi Phí Vỹ đi sứ Đông Ngô, tình hình căng thẳng ở chiến tuyến đông đã lắng xuống, song việc phòng thủ vẫn không thể không tăng cường, để tránh những việc phát sinh chẳng ngờ. Thực ra, Gia Cát Lượng ngay từ đầu năm này, đã tâu với Hậu chủ, đề bạt đại thần Lý Nghiêm làm Tiền tướng quân, mang quân đến đóng đồn ở Giang Châu, để đề phòng Đông Ngô và trông nom quân sự hậu phương. Ngoài ra ông ta đặc biệt đưa đội quân của Trần Đáo về phòng thủ ở Bạch Đế thành, lại phong ông ta làm Vĩnh An đô đốc, phụ thuộc hệ phòng thủ của Lý Nghiêm, để giúp đỡ tăng cường phòng thủ phía đông. Sau khi chuẩn bị thoả đáng, Gia Cát Lượng lại nghĩ đến công lao của Mạnh Đạt. Tuy năm trước Phí Thi từng can gián, cho rằng không tin Mạnh Đạt được, song nếu như Mạnh Đạt có thể khởi nghĩa ở Tân Thành, quân Thục đích xác có thể dễ dàng đánh Quan Trung, thậm trí có cơ hội trực tiếp lấy được Lạc Dương, bởi thế Gia Cát Lượng vẫn có ý xem xét kỹ việc ấy.
Đầu tiên ông ta mời Lý Nghiêm là chỗ thân tình với Mạnh Đạt, trước hãy gửi thư để xem xét thái độ Mạnh Đạt. Lý Nghiêm trong thư nói rõ, bản thân cùng với Gia Cát Lượng được Lưu Bị ủy thác trọng trách, lo lắng đến trách nhiệm, hy vọng được Mạnh Đạt sẽ dốc sức giúp đỡ người bạn già. Nhưng Mạnh Đạt quan tâm nhất lại chẳng là Lý Nghiêm còn nhờ người bạn già hay không, mà là thái độ của Gia Cát Lượng đối với ông ta, phải chăng thực có thể tha thứ cho tội lỗi ông ta. Đang khi do dự không yên, Mạnh Đạt chẳng ngờ lại tiếp được lá thư của Gia Cát Lượng viết, trong thư nói:
“Cuối năm ngoái đang khi tôi từ Nam Trung mang quân trở về, may gặp được Lý Hồng ở Hán Dương được biết tình hình túc hạ hiện nay rất lấy làm cảm động. Với chí hướng năm nào của túc hạ, tin rằng chẳng phải là phường tham lam phú quý mà đi ngược con đường chính đáng!
Về việc năm xưa tôi với tiên đế biết là túc hạ bị Lưu Phong xem thường, bởi phẫn uất đành bỏ chức mà đi. Hành vi của Lưu Phong đã phản lại nghĩa lý quý trọng hiền sĩ của tiên đế! Hy vọng túc hạ chẳng nên bận tâm về việc cũ.
Nghe Lý Hồng nói, năm xưa Vương Xung cố ý nói xằng bậy, làm tổn hại đến tình nghĩa tôi với túc hạ, may mà được túc hạ thông cảm cho, không lấy thế làm nghi hoặc, khiến tôi cảm thấy rất được an ủi. Để bày tỏ tấm lòng mong túc hạ hiểu được tình cảm trong lòng tôi, tôi mượn bút thay lời, bày tỏ cảm tình thương nhớ không nguôi”.
Trong thư chẳng những không có ý trách cứ Mạnh Đạt lại còn biểu hiện sự độ lượng của người tri kỷ. Lá thư này tự nhiên thấy là Mạnh Đạt cảm kích bội phần, cũng bắt đầu có thư từ qua lại với Gia Cát Lượng; đặc biệt là sau khi Tào Phi từ trần. Mạnh Đạt càng quyết tâm mạnh mẽ phản Ngụy về với Thục.
Đương khi Mạnh Đạt theo về với nước Ngụy, có không ít đại thần nghi ngờ ông, song bởi Mạnh Đạt đọc nhiều hiểu rộng, rất hiểu biết văn học, nên được Tào Phi sùng ái, chẳng những bảo lưu hoàn toàn số biên chế hơn 4000 quân phụ thuộc, lại gộp ba huyện Phòng Lăng, Thượng Dong, Tây Thành làm quận Tân Thành, bổ nhiệm ông ta làm Thái thú ở đấy, trực tiếp ủy thác nhiệm vụ phòng thủ phía tây nam nước Ngụy.
Tuy các đại thần trong triều đình nước Ngụy đối với Mạnh Đạt thường không tín nhiệm, song Thượng thư Hoàn Giai và Chinh nam đại tướng quân Hạ Hầu Thượng, đối với Mạnh Đạt lại khá thân thiện, khiến nhiệm vụ của Mạnh Đạt có được sự giúp đỡ rất lớn.
Nay Tào Phi đã mất, các quan đại thần phụ tá, đặc biệt là Tư Mã Ý, đối với Mạnh Đạt thường không tín nhiệm. Lại thêm Hoàng Giai và Hạ Hầu Thượng đều đã mất cả, Mạnh Đạt riêng cảm thấy hình đơn chiếc bóng rất không an toàn.
Gia Cát Lượng lập tức tăng cường tiến hành đối thoại chính trị với Mạnh Đạt, Mạnh Đạt cũng mau chóng đáp ứng, hai bên ước định thời giờ thích hợp, sẽ khởi nghĩa ở Tân Thành để theo về với Thục Hán.
Mạnh Đạt ngầm phái người thân tín mang đến tặng Gia Cát Lượng một chiếc khăn nhiễu, một viên “ngọc quyết” để bày tỏ tấm lòng, Gia Cát Lượng muốn cẩn thận lại nhắc nhở Mạnh Đạt, phải tạm lặng yên, nhẫn nại đón đợi thời cơ, đặc biệt phải thật giữ bí mật, chẳng thể chủ quan.
2. Lý Nghiêm khuyên phong cửu tích, Gia Cát Lượng vẫn khiêm nhường.
Người lôi kéo quan hệ giữa Mạnh Đạt và Gia Cát Lượng, chính là phụ tá đại thần, Tiền tướng quân Lý Nghiêm.
Lý Nghiêm tên chữ là Chính Phương, người Nam Dương, thời trẻ làm thư lại ở quận, có tài cán, rất được Lưu Biểu tín nhiệm. Tào Tháo đánh chiếm Kinh Châu, Lý Nghiêm chạy về Thục Trung, theo về với Lưu Chương, Lưu Chương rất ưa thích ông ta, cho làm Thành Đô lệnh.
Khi Lưu Bị đánh chiếm Ích Châu, Lưu Chương cho Lý Nghiêm làm Hộ quân, ngăn chặn đội quân chủ lực của Lưu Bị ở Miên Trúc. Chẳng ngờ Lý Nghiêm cho rằng Lưu Chương đại thế đã mất, cuối cùng không đánh mà đem toàn quân theo về với Lưu Bị, khiến sự phòng thủ của Lưu Chương bị một đòn chí mạng, cuối cùng không thể không đầu hàng Lưu Bị. Từ đấy có thể thấy Lý Nghiêm tuy là người lão luyện, lại cũng là một phần tử đầu cơ tiêu biểu.
Nhưng Lưu Bị vẫn rất mến mộ tài cán của Lý Nghiêm, cho làm Tỳ tướng quân, không lâu lại bổ nhiệm làm Thái thú ở Kiện Vi, lại phong làm Hưng nghiệp tướng quân.
Lưu Bị trước lúc lâm chung, lại đặc biệt cử Lý Nghiêm làm thượng thư lệnh, cùng với Gia Cát Lượng phụ tá cho Hậu chủ, với chức Trung đô hộ, thống lĩnh việc quân sự trong ngoài. Gia Cát Lượng sau khi bình định Nam Trung, lại khẩn trương công việc bắc phạt, đề bạt Lý Nghiêm làm Tiền tướng quân, phụ trách phòng thủ phía đông. Bởi Lý Nghiêm khi làm quan ở Ích Châu, với Mạnh Đạt rất thân thiết, Gia Cát Lượng bèn phái ông ta tiếp xúc sơ bộ với Mạnh Đạt.
Do có công lôi kéo Mạnh Đạt, quan hệ giữa Lý Nghiêm và Gia Cát Lượng càng thêm thân thiết. Trong thư gửi cho Mạnh Đạt, Gia Cát Lượng khen Lý Nghiêm: “Xử lý công việc tự nhiên mau chóng như nước chảy, công việc khó khăn như thế nào rơi vào tay ông ta cũng dứt khoát chẳng thể trì trệ”. Từ đấy dễ thấy, Lý Nghiêm đích xác là một quan chức tài giỏi. Ông viết một lá thư đề nghị lên Gia Cát Lượng, hy vọng Gia Cát Lượng có thể tự xưng vương và phong lễ cửu tích.
Thể chế từ Xuân Thu đến giờ khi các đại thần ngoài hoàng tộc được phong vương, có thể được hưởng phong lễ cửu tích; lễ cửu tích là phần thưởng gồm chín thứ đặc biệt, đại biểu cho chức phận, có thể cùng với hoàng đế hưởng phần quyền quý cao sang; đó là ngựa xe, áo quần, lễ nhạc, cửa son, được đứng ở gần bệ rồng, có quân hổ bôn, cung nỏ đặc biệt, búa tầm sét, hưởng rượu ngon.
Năm xưa Tào Tháo xưng vương nhận lễ cửu tích xác lập vị trí của mình ở Nghiệp Thành và Hứa Đô không thua kém Hán Hiến đế ở triều đình.
Có thể Lý Nghiêm cho rằng, Gia Cát Lượng sắp xếp đội quân bắc phạt rất lớn, thực ra để có ưu thế thống trị tuyệt đối, một lực lượng nào ở Thục Hán cũng không đủ mạnh như thế, bởi thế khiến ông ta ngay lập tức có được địa vị lớn, để ổn định được chính quyền Thục Hán.
Cũng có nhà sử học cho rằng, Lý Nghiêm trong chính quyền Thục Hán, có thực lực gần như Gia Cát Lượng, bởi vậy ông ta thấy thế lực của Gia Cát Lượng không ngừng bành trướng, rất lấy làm nghi ngại đã có ý thử xem thái độ của Gia Cát Lượng cũng không biết chừng.
Song Gia Cát Lượng cũng không vội vã chút nào, viết thư trả lời cho Lý Nghiêm với tinh thần nghiêm chỉnh, nguyên văn như sau:
“Tôi với túc hạ biết nhau đã lâu, khá là không có gì không hiểu thấu, túc hạ nói đến chấn hưng đất nước, nhắc nhở về đạo quyền biến, có chỗ còn chưa phải. Tôi vốn là kẻ sĩ hèn mọn ở phương đông, bởi Tiên đế lầm dùng đã được hưởng chức cao, được nhiều ân sủng. Việc thảo phạt chưa thành công, biết rằng chưa báo đáp được gì, thực chẳng dễ so với những hiền thần đời Tề, Tấn. Nếu như đã diệt được Tào Ngụy, phục hưng nhà Hán, được chư vị tiến cử thì “thập tích” cũng xin nhận huống chi là “cửu tích”.
Gia Cát Lượng trong thư thản nhiên bày tỏ, ông và Lý Nghiêm là bạn cũ quen biết lâu ngày. Chẳng nhẽ Lý Nghiêm thực còn chưa hiểu nhau ư? Ông tin rằng đề nghị của Lý Nghiêm là có thiện ý, phải nỗi bởi nhằm tăng cường uy thế của đạo quân bắc phạt, mà chưa phải lúc phân định chính phụ, cho nên mới bày tỏ như vậy để cùng thông cảm.
Cứ như sự bày tỏ khiêm nhường của Gia Cát Lượng, ông ta chỉ là một kẻ sĩ hèn mọn của phương đông (Gia Cát Lượng là người Sơn Đông), bởi được Lưu Bị đề bạt đặc cách, đã ở ngôi quan tước cao nhất (Thừa tướng), bổng lộc hàng vạn quan tiền, song trước mắt còn chưa thảo phạt được quốc tặc (chỉ Tào Ngụy) cũng chưa có thể báo đáp được ân huệ trọng dụng của Lưu Bị, lại tự lấy làm công lao sánh cùng Tề Hoàng Công và Tấn Văn Công, lại muốn được hưởng lộc cửu tích, cách làm như vậy là đánh giá mình quá cao, là rất không hợp với chính đạo, cho nên ông dứt khoát không thể tiếp thu.
Trừ khi cuộc bắc phạt đã thành công thuận lợi, diệt trừ được Tào Ngụy, khiến cho Hoàng Đế được trở về cố hương, được như vậy thì cùng với mọi người thăng quan mới là đúng. Đến khi đó chẳng phải nói là “cửu tích”, đến như “thập tích” (chỉ tước lộc cao hơn) ông ta cũng xin tiếp thu cả mà không từ chối nữa.
Qua lá thư này có thể thấy Gia Cát Lượng thực không vẽ vời, ông ta biểu thị rõ ràng, chẳng phải không đáng được hưởng cửu tích, mà là bởi chưa lập được công lớn, chưa hoàn thành được trách nhiệm cần có, thực tại chưa có tư cách để tiếp thu tước lộc ấy.
Gia Cát Lượng bề ngoài là người cẩn thận, thực ra trong lòng rất có khí chất vậy.
3. So sánh quân lực giữa Ngụy và Thục
Năm Thục Hán Kiến Hưng thứ 5, vào tháng 3, Gia Cát Lượng lệnh cho Trung thư lệnh Trần Chấn, Trưởng sử Trương Duệ, Tham quân Tưởng Uyển cùng giữ Thành Đô, thay thế ông ta điều hành việc nước. Tướng quân Hướng Sủng làm tổng chỉ huy đội quân giữ Thành Đô, phụ trách nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho kinh thành.
Biên chế quân bắc phạt như sau:
Tổng tư lệnh: Gia Cát Lượng tự đảm nhiệm
Bộ tham mưu: Dương Nghi, Đổng Quyết, Thoán Tập, Đỗ Nghĩa, Phàn Kiến.
Tổng bộ tham mưu chủ lực: Mã Tắc, Lý Thịnh, Cao Tường, Ngô Ban, Hoàng Tập, Hồ Tế.
Tổng chỉ huy tiền quân: Trấn bắc tướng quân kiêm Lương Châu thứ sử Ngụy Diên
Đạo quân tiên phong: Trương Dực, Vương Bình
Tổng chỉ huy hậu quân: Phấn uy tướng quân Mã Trung.
Đạo quân phụ thuộc: Trương Nghi, Lưu Đàm
Tổng chỉ huy quân sự dự bị: Trấn đông tướng quân Triệu Vân.
Đạo quân phụ thuộc: Đặng Chi, Hướng Lãng.
Quân hậu cần: Mã Đại, Lưu Hoá.
Theo như biên chế trên, cơ hồ đã động dụng các tướng lĩnh Thục Hán hiện có, song theo ghi chép lịch sử, biên chế quân đoàn vào khoảng 5 vạn người. Hiển nhiên Gia Cát Lượng chưa dốc túi ra hết, ông ta tựa hồ không dự định một đòn tiêu diệt Tào Ngụy, lấy quan hàm của Ngụy Diên là Lương Châu thứ sử mà xem, mục tiêu thứ nhất của cuộc bắc phạt là kiềm toả Lương Châu mà thôi. Trừ quân chủ lực bản bộ, biên chế ở các quân đoàn khác thường là nhỏ, số lính ỏ mỗi đội quân vào khoảng 5000 người. Sự chỉ huy của Gia Cát Lượng vận dụng chế độ phân quyền rõ ràng, chỉ huy các đạo quân có năng lực tác chiến khá độc lập.
Nước Thục xây dựng không lâu, lại thêm Lưu Bị chưa ổn định chính quyền đã từ trần, bởi thế cuộc bắc phạt tuy quan trọng, sự duy trì ổn định nội bộ càng là vấn đề then chốt sinh tử, tuy Gia Cát Lượng đã mấy năm khổ tâm điều hành, chính quyền Thục Hán đã có thực lực tương đối, song thời gian Gia Cát Lượng không ở Thành Đô, phải chăng sẽ có phần tử đã dã tâm nhân đó làm loạn, vẫn chẳng thể chủ quan được. Đạo quân bắc phạt chưa thể tập kết đầy đủ quân lực; Gia Cát Lượng có nỗi khổ tâm bất đắc dĩ vậy.
Thòi đại Tam quốc thế lực Tào Ngụy ở phương bắc rất lớn, cai quản cả 9 châu (bao gồm Kí, Cổn, Thanh, Tinh, Từ, Dự, Ung, Lương và khu Tư Lệ) tổng số hộ vào khoảng 66 vạn hộ, số nhân khẩu khoảng 443 vạn người.
Đông Ngô cai quản ba châu là Dương, Kinh, Quảng, số hộ khoảng 52 vạn hộ, số nhân khẩu khoảng 230 vạn người.
Thục Hán chỉ có Ích Châu, số hộ khoảng 38 vạn hộ, số nhân khẩu khoảng 94 vạn người. Nếu dự tính mỗi hộ lấy một tráng đinh, thì tổng quân lực của Thục Hán không vượt quá 38 vạn người, lại phải phòng vệ chiến tuyến phía đông, kinh thành Nam Trung và giữ an toàn cho các nơi trong toàn quốc, quân lực có thể động dụng trong cuộc bắc phạt tự nhiên không nhiều. Sau này Ngụy Minh đế phái quân nghênh chiến với Gia Cát Lượng, đạo quân của Tào Chân, Trương Cáp lúc đầu đã có 20 vạn, mà đạo quân hậu bị do Tư Mã Ý sắp xếp, Tào Chân tự cầm đầu, lại có đến hơn 30 vạn người; tuy đội quân hậu bị chưa ném vào chiến trường. Song chỉ với đạo quân lúc đầu, đối mặt với quân bắc chinh của Gia Cát Lượng, cũng đã có ưu thế áp đảo.
Chẳng những số quân không đủ, trong đạo quân Thục Hán, các tướng lĩnh có kinh nghiệm tác chiến phong phú, thực ra cũng không nhiều. Quan Vũ để mất Kinh Châu, Lưu Bị bại trận ở Tỉ Qui, khiến quân đoàn ở tuyến thứ nhất năm xưa cơ hồ đã hoàn toàn bị tiêu diệt, chỉ có lão tướng quân Triệu Vân trải qua trăm trận may mà vẫn còn lại, tuổi đã cao, không thích hợp với chiến đấu gian khổ, bởi thế chỉ có thể sắp xếp vào quân hậu bị, phụ trách chỉ huy ở tuyến thứ hai. Các đại tướng Ngụy Diên, Mã Trung tuy có kinh nghiệm phong phú về bảo vệ lãnh thổ, chinh phạt phản loạn nội bộ, song trong chiến tranh viễn chinh có tính chất lớn, phải chăng có thể phát huy đầy đủ năng lực còn chưa thể biết trước.
Việc tác chiến rất cần có tài chính, trải qua việc điều hành có kế hoạch của Gia Cát Lượng, lực lượng kinh tế của Thục Hán so với ba nước, có phần nổi trội. Sau khi bình định Nam Trung, lại giành được không ít vàng, bạc, muối, sắt, trâu cày, ngựa chiến, sừng tê giác cống nạp, đối với trù bị của quân phí Thục Hán, đích xác có giúp đỡ rất lớn. Song chinh phạt Đông Ngô thất bại, lại thêm hành động quân sự nam chinh vừa rồi, ắt tiêu sài kinh phí không ít, đối với Thục Hán chỉ cai quản có một châu, phải liên tục chuẩn bị kinh phí nhiều như vậy, đích xác là rất không dễ dàng gì. Bất luận binh lực, tài chính hiển nhiên đều ở thế yếu, vì sao Gia Cát Lượng lại có hành động chủ động công kích nhỉ? Gia Cát Lượng vẫn là người thực tế, quyết tâm như vậy thực khiến người ta rất khó hiểu!
Có một số nhà sử học cho rằng Gia Cát Lượng theo đại nghĩa, không thể không làm như vậy, bởi thế càng dễ thấy lòng trung thành và sự vĩ đại của Gia Cát Lượng, “Hán tặc không thể tranh ngôi, vương nghiệp không thể đổi dời”. Không nghĩ đến mọi điều bởi chức phận khôi phục nhà Hán, hiển nhiên tinh thần của Gia Cát Lượng thật lớn lao.
Cách nói này, thực ra khá phù hợp với phái “Bát cổ”, đánh nhau và phải tiêu tốn rất nhiều nhân lực và tiền tài, biết rất rõ chưa có thể thắng được, biết không thể làm lại miễn cưỡng mà làm, về công việc cá nhân có thể được gọi là anh hùng, song thống lĩnh vài vạn binh mã trong tay, với thái độ như vậy là rất không có trách nhiệm, tin rằng Gia Cát Lượng vốn có trí tuệ và cẩn thận chẳng muốn làm vậy.
Cũng có một số nhà sử học cho rằng, hành động bắc phạt của Gia Cát Lượng là lấy công kích thay phòng ngự, thực ra chẳng cần thắng lợi, chỉ hy vọng quân dân nước Thục phải cánh giác, chẳng thể đam mê hưởng lạc, cách nói này hiển nhiên thiếu thưòng thức quân sự học.
Ngoài đội quân du kích, ắt phải không ngừng vận dụng chiến thuật chủ động tấn công quấy rối ở những điểm bất định, nói chung tấn công hữu hiệu, so ra có binh lực gấp từ 5 đến 10 lần so với phòng ngự, Tôn Tử binh pháp nói đến: “Có mười thì bao vây, có năm thì tấn công”. Nếu binh lực, tài lực kém hơn người khác, lại lấy tấn công thay cho phòng ngự, hơn nữa lại một mặt liên tục phát động viễn chinh đường dài, đấy không nghi ngờ gì là đào mồ tự chôn mình, tin rằng Gia Cát Lượng chẳng dại gì mà vận dụng chiến lược và chiến thuật như vậy.
Phán đoán về sự hợp lý và khả năng, thấy rằng bất luận là có nghĩ đến sự an toàn phòng ngự Thục Hán, hoặc là nghĩ tìm cơ hội đánh bại Tào Ngụy, khôi phục nhà Hán, Gia Cát Lượng ắt phải nhằm mục tiêu thứ nhất để chiếm lấy trong cuộc bắc phạt, đó là Lương Châu.
Sau khi Lưu Bị đông chinh thất bại, Kinh Châu đã dứt khoát không đoạt lại được, nếu chỉ có một châu, chính quyền Thục Hán vẫn thường như ở trước giông gió, bởi thế Gia Cát Lượng ắt phải mau chóng tìm một châu nữa để tăng sự cai quản, đủ thực sự duy trì cục diện ba chân đỉnh lớn.
Khả năng lớn nhất đánh chiếm được là vùng Lương Châu mà Tào Ngụy đang cai quản và vùng Quan Trung của khu Tư lệ mà trung tâm là Tràng An. Vùng này Tào Tháo cuối đời mới cai quản được, lại thêm có danh tướng Mã Siêu nổi tiếng ở Quan Trung và Lương Châu, bị Tào Tháo đánh đuổi mà theo về với Lưu Bị, rất được trọng dụng. Mã Siêu với các thủ lĩnh địa phương ở đấy vẫn có quan hệ, bởi thế quân dân địa phương có ấn tượng với Thục Hán khá tốt, lại nữa sự cai quản của chính quyền Tào Ngụy đối với vùng này vẫn là rất đau đầu. Như trên đã nói, nếu thuận lợi chiếm được Lương Châu và Quan Trung, rất có thể liên hợp với Đông Ngô từ các phía tây bắc, tây nam, đông nam mà giáp kích Tào Ngụy, lại nữa kinh thành Lạc Dương của Tào Ngụy sẽ bị uy hiếp trực tiếp đối với dân tâm sĩ khí của Tào Ngụy sẽ là một đòn đánh rất lớn. Như vậy chẳng những có thể cải biến được thế yếu của Thục Hán, hơn nữa đối với sự nghiệp khôi phục nhà Hán cũng có được sự giúp đỡ về thực chất.
Tin rằng Gia Cát Lượng nhìn nhận như vậy để phát động cuộc bắc phạt lần này.
Vì sao Gia Cát Lượng vói một binh lực ít hơn lại chủ động tấn công Lương Châu? Ông ta tin tưởng vào đâu? Đã vận dụng sách lược gì? Sự thành bại ra sao? Trong những chương sau, chúng tôi sẽ trình bày cụ thể.
4. Có thể với “Xuất Sư Biểu”, quỷ thần cũng phải khóc than
Sau khi hoàn thành việc sắp xếp đội quân bắc chinh, Gia Cát Lượng trình lôn Hậu chủ Lưu Thiện bản “Xuất Sư Biểu” thiên cổ còn truyền tụng.
Thừa tướng Văn Thiên Tường cuối đời Nam Tống để lại di bút trong “Chính khí ca”, khi đánh giá cao Xuất Sư Biểu có nói, “Có thể với Xuất Sư Biểu, quỷ thần cũng phải khóc than”. Nho gia đời sau cũng thường nói: “Đọc Xuất Sư Biểu mà không khóc chẳng phải là người có lòng trung”. Xuất Sư Biểu đích xác đã thể hiện đầy đủ niềm trung thành sáng láng của Gia Cát Lượng với vương triều Thục Hán. Đặc biệt đọc nguyên văn ghi chép lại dưới đây, từ lời văn và khí chất ở đó chúng ta có thể thấy rõ nhân cách và khí chất của Gia Cát Lượng:
“Tiên đế sáng nghiệp chưa đến nửa đường đã từ trần, nay thiên hạ chia ba, Ích Châu suy yếu, sự nguy cấp tồn vong ở ngay trước mắt. Cho nên kẻ bày tôi chầu chực không thể lười nhác, một lòng trung thành quên cả thân mình, đã rằng đi theo Tiên đế, muốn báo đền với Bệ hạ. Rất mong Bệ hạ nên lắng nghe rộng rãi, để sáng đức tốt cho Tiên đế, phải rộng thúc đẩy chí khí, không nên khinh bạc, dẫn đến điều thất nghĩa sẽ lấp lối. Sự trung thực của kẻ can gián.
Ở trong cung phủ, đều là một thể, phải rõ sự thiện ác, không nên nhầm lẫn. Nếu như có điều sai phạm hoặc thiện tâm, nên giao cho sở ty luận rõ mà thưởng phạt để làm sáng đạo lý của Bệ hạ, không nên tư riêng để có chỗ pháp luật trong ngoài sai khác.
Các quan Thị Trung, Thị lang như Quách Du Chi, Phí Vỹ, Đổng Doãn đểu là hiền thần, có chí lớn và trung thành, là những người mà Tiên đế đã lựa chọn để lại cho Bệ hạ. Theo ngụ ý thì làm việc ở trong cung, việc không kể lớn nhỏ, đều phải bàn kỹ, sau mới thi hành, để có thể lấp được sự rò rỉ, có ích rộng rãi. Tướng quân Hướng Sủng, tính hạnh thuần thục, hiểu rõ việc quân, qua những việc ở ngày trước, Tiên đế khen là có năng lực, cũng là do quần chúng tiến cử vào trọng trách. Theo ngu ý phàm việc ở trong doanh trại ắt phải bàn bạc kỹ, mới có thể khiến quân đội hoà thuận có được ưu thế.
Thân hiền thần, xa lánh kẻ tiểu nhân, nhờ thế mà nhà Tiền Hán đã hưng thịnh vậy, thân với kẻ tiểu nhân, xa lánh hiền thần, bởi thế mà nhà Hậu Hán bị suy vong vậy. Tiên đế khi còn sống, mỗi lần cùng với thần đàm luận, không khỏi không than thở đau xót cùng Hoàn Linh.
Những Thị trung, Thượng thư, Trưởng sử, Tham quân đều là những kẻ bề tôi trung trinh đến chết, nguyện vì Bệ hạ mà bày tỏ tín nghĩa thì sự phục hưng nhà Hán, khá có thể thấy rõ.
Thần vốn áo vải, đem thân cày bừa ở Nam Dương, lo toan tính mệnh ở đời loạn, chẳng cần nổi tiếng với chư hầu. Tiên đế không xem thần là tầm thường, đem lòng chiếu cố, ba lần tìm đến nơi lều cỏ, bàn bạc với thần về việc đương thời, bởi thế mà rất cảm kích, nguyện theo phò Tiên đế. Đã nguyện đem hết lòng cố gắng, nhận việc giữa lúc quân thua tướng bại, phụng mệnh trong khi nguy nan, đến nay đã được 21 năm.
Tiên đế biết thần cẩn thận, nên trước lúc lâm chung có trao cho thần việc đại sự. Từ lúc phụng mệnh đến nay, ngày đêm lo lắng, sợ phụ lại sự ủy thác, làm tổn hại đến trông mong của Tiên đế, nên tháng 5 vượt sông Lô, vào sâu đất không cây. Nay phương nam đã định, binh pháp đã đủ, đương khi ba quân phấn khích, nghĩ rằng cần phải bắc định Trung Nguyên, dốc hết nỗ lực bản thân, diệt trừ gian thần, phục hưng nhà Hán, trở lại cố đô, như thế thần báo đáp được Tiên đế mà cũng tỏ được lòng trung với chức phận mà Bệ hạ đã giao. Còn như châm chước lợi hại, bày tỏ lời trung thành, thì đã có Quách Du Chi, Phí Vỹ đảm nhiệm vậy. Những mong Bệ hạ ủy thác để thần được bắc phạt, phục hưng nhà Hán thành công; nếu không thành công, thì thần xin chịu tội để báo cáo cùng vong linh Tiên đế. Nếu như việc không tiến triển thì cứ trách cứ lỗi của Du Chi, Phí Vỹ, Đổng Doãn; Bệ hạ nêu khiêm nhường, lắng nghe điều thiện, làm theo điều phải, thực hiện di chiếu của Tiên đế, thần không ngừng chịu ơn cảm kích, nay đương ở nơi xa xôi dâng biểu mà khóc chẳng thể nói hết lời”.
Qua “Xuất Sư Biểu”, chúng ta có thể thấy Gia Cát Lượng đối với việc bắc phạt có tin tưởng rất lớn, tuyệt đối chẳng phải là một việc khổ hạnh chẳng thể đừng. Trái lại, ông lo lắng chẳng phải ở tiền tuyến mà là ở quốc nội. Lưu Thiện đích xác là “A Đẩu vực chẳng nổi”, yếu đuối không có năng lực, đầu óc chẳng sáng suốt, thích thân gần với kẻ phục dịch bên mình, còn đối với những đại thần vẫn nói đạo lý, dám can ngăn thì vẫn “kính mà xa đấy”. Gia Cát Lượng khi ở triều đình, thì Lưu Thiện dẫu có thế nào cũng không quan trọng, song Gia Cát Lượng không ở triều đình, nếu như Lưu Thiện vẫn thân gần với kẻ tiểu nhân thì có thể sẽ ảnh hưởng đến sự thúc đẩy công việc triều chính. Ở đây, “Xuất Sư Biểu” giống như là một người cha đang ở xa dặn đi dặn lại và răn bảo đứa con phải thân hiền thần, xa tiểu nhân, lời lẽ khẩn thiết, chân tình lộ rõ, thực khiến người ta phải cảm động.
Để Lưu Thiện đang ở yên mà biết nghĩ đến nguy hiểm, Gia Cát Lượng nhắc nhở ông ta nay tuy thiên hạ chia ba nhưng Thục Hán chỉ có Ích Châu vẫn là bé nhất trong ba nước, lại thêm Lưu Bị kiến quốc không lâu đã từ trần, đích xác là sáng nghiệp chưa được nửa đường đã mất, Ích Châu suy yếu, đang là lúc then chốt của sự nguy cấp tồn vong.
Chỉ ra chỗ nguy cơ, đương nhiên cũng bày tỏ rõ chỗ cơ hội, văn võ bá quan của Thục Hán có tư chất và lòng trung thành đích xác cao hơn Tào Ngụy, cho nên điều quan trọng nhất là Lưu Thiện với cương vị người chủ chẳng thể có thái độ khinh bạc, khiến cho những kẻ bầy tôi trung nghĩa phát huy được tài năng. Tiếp đó Gia Cát Lượng lại nói cụ thể Lưu Thiện phải làm ông chủ như thế nào, nhân tài phụ tá và công việc thực tế thì đã do Gia Cát Lượng sắp đặt trước, về mặt hành chính có Quách Du Chi, Phí Vỹ, Đổng Doãn, về mặt quân sự đã có Hướng Sủng. “Ông chủ” Lưu Thiện chỉ cần bất luận là việc trong dinh trong phủ, đều chỉ cần bình thản khiêm nhường bàn bạc với họ là xong. Sợ Lưu Thiện tuổi trẻ nóng nảy, Gia Cát Lượng lại đặc biệt đưa ví dụ giải thích nguyên nhân chủ yếu khiến Tiền Hán, Hậu Hán hưng suy, cùng những việc Lưu Bị đã làm, nghiêm khắc cảnh cáo Lưu Thiện, chớ như Hoàn đế, Linh đế ngu muội, không được việc gì.
Phần thứ ba kể rõ nguyên nhân chủ yếu mà mình phải phát động bác phạt là để hoàn thành di nguyện của Lưu Bị. Chẳng phải là bởi dã tâm của mình, càng chẳng phải bởi nhân cơ hội mà khuếch trương quyền thế. Bởi thế cho nên mong muốn Lưu Thiện phải hết sức phối hợp thân hiền thần, xa tiểu nhân, làm tốt công việc trong nước, để tránh cho ông ta đang ở tiền tuyến vẫn phải lo lắng hậu phương. Cuối cùng, Gia Cát Lượng cụ thể làm rõ ranh giới công việc của mình và Lưu Thiện. Công việc bắc phạt ủy thác cho mình phụ trách, nếu như thất bại thì cứ trách phạt. Việc nội chính thì do Lưu Thiện và các phụ tá phụ trách, yêu cầu phải triệt để phân rõ vai diễn của từng người.
Đấy không những là những lời can gián chính thức của kẻ đi xa đối với đức vua, mà đấy cũng là những lời kiến nghị sáng tỏ về việc lãnh đạo điều hành. Chẳng phải là những lời trung nghĩa sáo rỗng kiểu “Bát cố”, mà từng câu đều là những sách lược cụ thể để thi hành. “Xuất Sư Biểu” sự thực dã cảm kích lòng người có thể chính là ở đấy.
Ngoài ra “Xuất Sư Biểu” cũng là một luận văn ưu tú rất có giá trị văn học. Tô Đông Pha là văn hào đời Bắc Tông được xếp là tám đại gia Đường Tống, cho rằng Gia Cát Lượng xứng đáng được kể là nhà văn học ưu tú; văn chương của ông khá rõ ràng mà lưu loát diễn đạt dược cách nghĩ của mình, chẳng có lời nào thừa. “Xuất Sư Biếu” lời văn giản dị, nội dung khá hoàn chỉnh, ý tứ thẳng thắn, tình cảm phong phú lại thành khẩn, thực là văn chương hay thiên cổ khó thấy. Tô Đông Pha lại chỉ ra, Gia Cát Lượng rất vĩ đại mà khiến người ta hết mực yêu mến, là bởi ông ta danh tiếng và thực tế đều nhất quán, chỉ có người tư lự tận trung, thành khẩn mới có thể viết ra những câu chữ sáng tỏ mà cảm động lòng người như thế. Sau khi trình lên bản “Xuất Sư Biểu”, Gia Cát Lượng lại lấy danh nghĩa của Hậu chủ Lưu Thiện, viết một tờ chiếu thư thảo phạt Tào Ngụy. Chiếu thư đề cập cùng với Tôn Quyền hợp mưu hỗ trợ làm thế ỷ giốc, lại còn đối với các tộc người ở Lương Châu như Chư Quốc, Nguyệt Chi, Khang Cư, Hồ Hầu, Chí Phú, Khang Thực cũng sẽ phái quân giúp đỡ, cho nên quân bắc phạt sẽ đạt đến hơn 20 vạn người. Như vậy so với 5 vạn quân hắc phạt thực tế có sai biệt rất lớn, chỉ là dùng để làm công cụ tuyên truyền chính trị mà thôi.
Sau đó Gia Cát Lương dẫn quân bắc phạt, đóng doanh trại ở Hán Trung, đại bản doanh thì đặt ở Dương Bình Quan vùng Miện Thủy.

Lời bình của Trần Văn
Binh pháp Tôn Tử có nói, then chốt của sự thắng bại khi thảo phạt, phải sáng tạo như thế nào để lấy cái thực của mình đánh vào chỗ yếu của đối phương, thu được ưu thế tuyệt đối.
Hình thế của chiến trường biến đổi trong nháy mắt, kẻ mạnh cũng có thể nếm đòn chí mạng của kẻ yếu, trong trận Quan Độ, Viên Thiệu với số quân gấp 10 lần bị Tào Tháo đánh bại, bởi thế mà ngã không dậy được. Tào Tháo trong trận đại chiến Xích Bích, quân đội của mình có ưu thế tuyệt đối, lại bị thất bại bởi liên quân yếu hơn của Chu Du và Lưu Bị. Cho nên chỉ cần nắm sách lược thực tế mà vận dụng, thì quân đội có bao nhiêu cũng không quyết định sự thắng bại. Vậy thì then chốt là ở chỗ nào? Nguyên tắc tác chiến cơ bản của Tôn Tử là biết người mà không để người biết, nói cách khác là tuỳ thời nắm quyền, chủ đạo, có thủ đoạn chuyển thế yếu thành thế mạnh; biến nhược điểrn của kẻ địch chuyển hoá thành lực lượng của mình.
Nói giản đơn, rốt cuộc phải nắm quyền chủ đạo như thế nào? Làm sao khiến kẻ địch mất đi sự tự do vận dụng sách lược, hoàn toàn bị động, khiến lực lượng của mình tăng lên rất lớn? Khoa học kinh doanh nói với chúng ta về tầm quan trọng nhãn mác bao bì cố định của sản phẩm, bởi thế không ít người cho rằng, biểu lộ rõ lập trường của mình, mới có thể tăng cường được đặc sắc của mình, giành được ưu thế về cạnh tranh.
Nếu như bởi bày tỏ rõ lập trường, đã tranh thủ đồng cảm giành được ưu thế cạnh tranh đấy tức là vận dụng lầm nguyên tắc biết người mà người không biết mình. Bởi thế chỉ thuyết minh cho thiên sách “hư thực” Tôn Tử từng nói đến sách lược “Biết người mà không rõ ta”, sách lược cạnh tranh ắt phải phối hợp hoàn cảnh mà tiến hoá hữu hiệu, hoàn cảnh thì mỗi giờ đều biến hoá, nhất là khi cạnh tranh kịch liệt. Bởi thế nếu như duy trì hữu hiệu tính đàn hồi về lập trường của mình, mới là then chốt thắng bại quan trọng nhất.
Người lộ mà ta không lộ chân tướng, trong thực tế kẻ địch cố định hình thái, lập trường cứng nhắc, mà hình thái của ta có thể không câu nệ như vậy có thể tùy thời cơ tìm được nhược điểm của đối phương điều chỉnh thành ra ưu thế lớn của ta tiến tới không ngừng công kích, thì có thể giành đưực thắng lợi tuyệt đối.
Binh pháp Tôn Tử chỉ ra phương pháp bố cục tạo hình, chỉ rõ rằng “Việc binh có hình giống như nước”, binh chẳng phải vô hình mà phải cũng giống như hình thái của nước vậy, khiến người ta không mò được đầu mối mới được. Khi lực lượng yếu phải tùy hoàn cảnh biến hoá mà cần yên, ở hình vuông thì nước có hình vuông, song ở hình ống thì nước có hình ống.
Nước chẳng có lực lượng, tùy hoàn cảnh mà biến hình, song một khi phát huy sức mạnh, trở thành Hồng Thủy cuộn xoáy, thì tường đồng vách sắt gì cũng không ngăn cản được. Nếu bất động thì thôi, đã chuyển động thì có thế lớn kinh người, đấy là sức mạnh quan trọng nhất của “việc binh giống như nước”.
Trong cuộc tuyển cử tổng thống Mỹ năm 1984 Đảng dân chủ đưa ra ứng cử viên, nghĩ đến một hình tượng tổng thống hoàn toàn không giống trước đó, không ngừng đưa ra hình thái ý thức về lý tưởng của mình để trưng cầu, quá nhấn mạnh lập trường của mình mà không chú ý đến tính đàn hồi của chính sách. Khi đưa ra ý kiến “Chẳng có sách lược mới là sách lược”, “Chẳng có chủ nghĩa mới là chủ nghĩa”, để trưng cầu, Đảng dân chủ ưu thế lớn trong cuộc bầu cử lại gặp phải thất bại lớn chưa từng có.
Gia Cát Lượng lập kế hoạch bắc phạt đã nắm chắc nguyên tắc này. Tuy đối phương có số quân và của cải chiếm ưu thế tuyệt đối, song chỉ cần có kế hoạch tập trung lực lượng, nhằm mục tiêu không lớn, cũng không thể không sáng tạo ra ưu thế lớn. Niềm tin của Gia Cát Lượng chính là ở đấy.