Chương XXXI
TỔNG LUẬN VỀ GlA CÁT KHỔNG MINH

    
ia Cát Lượng khiêm nhường, cẩn thận, hiểu rõ và hết lòng với chức phận, có thể nói không quá mức thao lược, song về quản lý thực tiễn cơ hồ là người tài giỏi bậc nhất, về nhân cách con người, đảm đang và kỹ xảo, đích xác thực đáng ca ngợi, đáng được xem là nhân vật chính trị kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc.
Sau khi có tin Gia Cát Lượng mất ở gò Ngũ Trượng, Hiệu uý Liêu Lập từng bởi kiêu xa vô độ, bị Gia Cát Lượng đề nghị phế làm dân thường, đang bị đi đầy ở Vấn Sơn nghe được tin dữ rất đau đớn nói rằng “Thừa tướng Gia Cát mất đi, thế là ta chết già ở đây rồi!”.
Lý Bình là một Thượng thư lệnh, bởi tự bày vẽ tin tức làm hỏng việc quân cơ, nghe tin Gia Cát Lượng mất, lại thương tâm quá đỗi phát bệnh mà chết. Lý Bình sau khi bị lưu đầy, thường nói với bạn hữu, tin rằng có ngày Gia Cát Lượng nhất định sẽ tha thứ cho ông ta mà trọng dụng lại.
Đại lão Trương Duệ vẫn xem việc Gia Cát Lượng đưa vào quân sĩ cũ nắm đại quyền Ích Châu mà không nể phục. Song được bổ nhiệm làm Trưởng sử, sau khi sớm tối gần gũi với Gia Cát Lượng, không khỏi cảm thán rằng:
“Tướng công khi ban bố phần thưởng dẫu người ở xa mà có công cũng không bỏ quên, khi trừng phạt, chỉ cần có tội, dẫu người thân gần cũng không thoát khỏi; tước vị không cấp cho người không có công, hình phạt cũng không kể kẻ có quan tước cao, cho nên người hiền hoặc người ngu đều cảm động trước việc chí công vô tư của ông mà cố gắng làm việc, không kể đến lợi hại cá nhân”. Nếu không lấy thành bại mà luận anh hùng, Gia Cát Lượng với phong cách lỗi lạc mà kẻ đối địch cũng phải cảm động, đích xác đáng được gọi là một đại chính trị gia cổ kim khó thấy.
Tác giả Tam quốc chí là Trần Thọ, có bình luận rằng:
Gia Cát Lượng làm Tướng quốc, vỗ yên trăm họ, đề xướng quy phạm lễ nghi, quản lý quan chức, tôn sùng chế độ, khai sáng lòng thành, công bố đạo luật. Làm việc tận trung mà có ích cho xã hội, dẫu là người không hợp với mình cũng khen thưởng; vi phạm lệnh mà làm việc trễ nải dẫu là người thân cũng phải xử phạt. Thừa nhận lỗi lầm, cố gắng sửa lỗi hướng thiện, bào chữa mắc trọng tội, cũng xem xét tha thứ, bào chữa để lấp tội, thì dẫu là tội nhẹ cũng vẫn không bỏ qua. Một việc thiện nhỏ cũng được khen, một việc xấu nhỏ cũng bị chê trách. Công việc hành chính lấy tinh luyện làm gốc, xem trọng bản chất của sự việc, yêu cầu xác thực từng việc, đối với việc hư cấu ra thường công khai trách cứ cho nên khắp trong nước đều sợ uy mà chịu theo, hình pháp và mệnh lệnh tuy nghiêm mà không xảy ra oán hận, lấy sự công bằng mà làm cho rõ rệt. Đáng được gọi là người có tài cán hiểu được đạo điều hành, có thể sánh với Quản Trọng và Tiêu Hà ngày xưa.
Gia Cát Lượng tuy đối với binh pháp học và quân sự học có nghiên cứu khá sâu sắc, song tài cán ở chiến trường thực tế đích xác không phải là siêu việt, trong suốt cuộc đời chiến bại nhiều hơn chiến thắng, ngoài chiến dịch Tương Dương năm xưa cơ hồ lưu ly bại hoại, các tình huống khác đều nắm rất vững, những tổn thất sau chiến bại đều không lớn. Chẳng qua Gia Cát Lượng đích xác đã lập sách lược ứng dụng chiến thuật kéo dài, Trần Thọ phê bình ông không giỏi kỹ xảo ứng biến, là khá có cơ sở. Song với một nhân vật chính trị mà nói, Gia Cát Lượng khiêm nhường, cẩn thận hiểu rõ và hết lòng với chức phận, có thể nói không quá mức thao lược, song về quản lý thực tiễn cơ hồ là người tài giỏi bậc nhất, về nhân cách con người, đảm đang và kỹ xảo, đích xác thực đáng ca ngợi, đáng được xem là nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc.
Do sự tô vẽ của nhà viết tiểu thuyết, Gia Cát Lượng được xem như là một người có phong thái thần tiên, có tài “chiêm bốc tiên tri”, khiến người ta hiểu rằng ông ta không kể việc gì cũng đều ăn đứt người khác (bởi trí tuệ của người khác kém ông ta rất nhiều) bởi thế mà hiểu lầm rằng Gia Cát Lượng độc đoán, độc tài, không hiểu được vấn đề dùng người, bồi dưỡng nhân tài cho nên sau này mới phải dốc sức tận tụy cho đến chết mới thôi.
Thực ra Gia Cát Lượng không thể đạt được ý nguyện phục hưng nhà Hán, chẳng phải điều hành nước Thục không có hiệu quả, ngoài bản thân Thục thực lực rất yếu, còn phải kể đối thủ rất mạnh “Tào Tháo, Tào Phi, Tư Mã Ý, Tôn Quyền đều là những người lỗi lạc một thời”, cùng là thời vận bản thân không đến. Gia Cát Lượng trong lịch sử chẳng những như Trần Thọ từng nói, có nhân cách và thái độ chí công vô tư, khiến người người khâm phục, hơn nữa ông khiêm nhường với mọi người, dung nạp nhiều ý kiến, đối với việc bồi dưỡng nhân tài có thể nói là không biết mệt mỏi.
Trong “Xuất Sư Biểu”, Gia Cát Lượng đặc biệt nhấn mạnh: “Châm chước lợi hại, thúc đẩy sự trung thành, bồi lấp nhược điểm, để đem lại lợi ích rộng lớn”. Trong “Gia Cát Vũ hầu tập”, ở thiên “Nạp ngôn”, ông ta viết: “Thu nạp những lời chính đáng, nhiệt tình can gián, sẽ tụ họp được những mưu kế hay của mọi người”. Ông ta cũng chủ trương cần dung nạp nhiều ý kiến của thuộc hạ mới tránh được sơ xuất. Trong thiên “Thị thính” lại nói: “Đạo lý điều hành, phải lắng nghe nhiều, xem xét những ý kiến của nhiều người, những mưu kế của quần chúng làm rộng tầm mắt, những lời lẽ của họ giúp ta nghe được nhiều hơn, nên người ta thấy nhiều làm trí, nghe nhiều làm sáng”. Cũng nói “Bậc vua chúa không nghe lời can gián, thì trung thần không dám dâng mưu kế, mà kẻ gian thần sẽ lộng hành, bởi thế mà có hại cho đất nước”. Tuy thiên sách “Tiện nghi” có không ít nhà sử học cho rằng về văn thế không thể là văn pháp của Gia Cát Lượng; song làm Thừa tướng hằng ngày bận rộn hàng vạn công việc, thư ký thường viết thay phỏng theo ý tứ, điều đấy thường thấy trong các công văn, cho nên văn từ có thể không “thực”, song tinh thần vẫn là của Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng không những chỉ nói, mà còn làm triệt để. Sau khi làm Tể tướng, ông đặc biệt thành lập cơ cấu “Tham thự” trong phủ Thừa tướng, nhằm mục đích tập hợp tư tưởng rộng rãi để dưng nạp ý kiến của nhiều người.
Truyện Đổng Hoà có chép: “Đổng Hoà với ta (tức Gia Cát Lượng) cùng làm việc 7 năm, có lúc phải quyết định một việc chưa được xem xét chu đáo, ông ta nhất định thể hiện cách nhìn không đồng ý của mình, bởi thế chúng tôi thường thảo luận lật đi lật lại, thậm chí có khi đến hơn 10 lần. Nếu như mọi người đều giống như Đổng Hoà ở chỗ nhận rõ sự thực, chẳng những giải quyết tốt việc công, cũng sẽ khiến ta khi phải quyết định không đến nỗi mắc nhầm lẫn lớn.
Ông ta cũng nhắc đến tình hình quan hệ bạn bè ngày xưa. Từ Thứ là một người có đầu óc sáng suốt, không vội vã; Thôi Châu Bình luôn nói đến điều được mất. Hồ Tế sau này luôn nói đến khuyên can. Những người bạn này đưa ra những lời can khiến Gia Cát Lượng cảm động suốt đời không quên. Ông ta cũng không khách khí nói rằng, bản thân mình bản tính thô bỉ, cho nên có lúc chẳng thể hoàn toàn thấu hiểu và vận dụng, song quan hệ của ông ta với Đổng Hoà, Từ Thứ, Thôi Châu Bình, Hồ Tế cả 4 người trước sau đều rất tốt. Bởi thế khích lệ được mọi người không ngần ngại nói thắng.
Rất khiến người ta cảm động là sau khi cuộc bắc phạt thứ nhất thất bại, Gia Cát Lượng ở tiền tuyến Hán Trung đã đưa ra trước quân đoàn bắc phạt bài viết khuyên tướng sĩ chỉ bảo ra khuyết điểm của mình, công khai bày tỏ các tướng sĩ nên đả kích những khuyết điểm của Gia Cát Lượng, mới kể là người có lòng trung thành với quốc gia vậy.
Ông từng nghe theo đề nghị của Dương Hồng khẩn cấp phái quân chi viện cho Lưu Bị khi bị Tào Tháo đánh mạnh ở Hán Trung, để ổn định cuộc chiến ở phía bắc; cũng trưng cầu sách lược của Đặng Chi đối với Tôn Quyền; lại làm theo sách lược “công tâm làm đầu” của Mã Tắc, lấy đó làm tinh thần chỉ đạo chủ yếu cho cuộc chinh phạt Nam Trung. Có thể những quyết định này đã sớm hình thành ở trong ông, song ông ta dứt khoát sẽ không thành công, nêu để ánh sáng của mình át đi sự ưu tú của thuộc hạ; mỗi người tài đều có thể vui vẻ phát huy trí tuệ của mình để tâm với công việc.
Trong số ba nước ở thế chân đỉnh, lực lượng của Thục Hán là nhỏ nhất, song nhân tài rất nhiều, cho nên mới có lực lượng tấn công Tào Ngụy. Những nhân tài ưu tú này, đích xác là bởi Gia Cát Lượng có thái độ không cậy công không cậy tài, bình tĩnh nghe lời can gián nên mới giành được.
Nhà cải cách lớn thời bắc Tống là Vương An Thạch trong “bài thơ Gia Cát Lượng” có viết “Một lòng giúp Thục phòng Ngô Ngụy, nếu chẳng chuyên tâm há được hiền”.
Một đại Nho đời Minh là Lý Nhụ bình luận rằng: “Gia Cát Khổng Minh làm thừa tướng mẫn tiệp quên mình, lại mong cầu được nghe những lời chỉ bảo, những tướng quốc từ Tần Hán về sau đều không bằng ông ta vậy”.
Tư tưởng chính trị của Gia Cát Lượng là sự hỗn hợp giữa phái Nho gia và Pháp trị. Ông ta xem trọng chế độ, khi định ra điều lệ quản lý, ắt nên dựa vào lập trường lý tính, thấy mỗi người đều có thể làm ác, nên pháp lệnh phải được chấp hành một cách nghiêm chỉnh; Trần Thọ khen ông ta về hình pháp và chính lệnh đều rất nghiêm minh. Song về chấp hành ông ta rất xem trọng việc lãnh đạo, người ở trên phải lấy mình làm gương mới có thể giáo hoá được nhân dân và binh lính.
Trong thiên “Trị quốc” ở cuốn “Tiện nghi” của ông có nói việc trị quốc giống như đối với sửa sang việc nhà, việc trong nhà ắt phải lo sửa gốc, gốc có vững thì ngọn mới thẳng vậy... Nói về việc gốc, cách thông thường thì quan trọng là ở qui củ vậy.
Ở đoạn văn này, rõ ràng biểu thị tính quan trọng của chế độ, quốc gia có chế độ của quốc gia, gia đình có chế độ của gia đình, là căn bản của việc điều hành...
Trong thiên “Quân thần” có viết rằng:
“Vua lấy phô bày làm Nhân, bề tôi lấy công việc làm Nghĩa, kẻ hai lòng chẳng thể thờ vua, kẻ nghi ngờ chánh sự chẳng thể trao quan chức, trên dưới giữ được Lễ thì dân dễ khiến trên dưới hoà thuận thì vua chúa và bề tôi đều vẻ vang; vua lấy lễ mà sai khiến bề tôi, bề tôi lấy trung thành thờ vua, vua lo ở công việc chính đáng, thần lo ở sự thờ phụng... quân thần trên dưới lấy lễ làm gốc, phụ tử trên dưới lấy Ân làm thân gần, phu phụ trên dưới lấy Hoà làm yên ấm...”.
Đoạn văn này cho thấy Gia Cát Lượng xem trọng giáo hoá tư cách. Giáo hoá tư cách trọng ở lời nói, người chỉ đạo không chỉ nói mà không làm, có làm gương tốt, thì mới có thể khiến chính lệnh được quán triệt, đấy chính là tinh thần Nho học, lấy mình làm gương.
Gia Cát Lượng nghiêm khắc yêu cầu tự mình giữ gìn bổn phận cẩn thận, chẳng mảy may cẩu thả. Khi xảy ra đại chiến Xích Bích, phụng mệnh Lưu Bị đến Đông Ngô, Tôn Quyền yêu mến tài năng, có yêu cầu Gia Cát Cẩn là anh của Gia Cát Lượng nghĩ cách giữ Gia Cát Lượng ở lại Đông Ngô.
Song Gia Cát Cẩn “biết em không ai bằng anh” nói rằng: “Gia Cát Lượng em trai hạ thần đã gửi thân ở người ta, về nghĩa lý chẳng thể hai lòng, nó không ở lại Đông Ngô cũng như thần chẳng thể theo về với nơi khác vậy”.
Sau này Gia Cát Cẩn đi sứ sang Thục Hán, Gia Cát Lượng cũng chỉ tiếp đãi ông ta, người anh cả đã nhiều năm không gặp, bằng nghi lễ sứ thần quốc gia, ngoài những lúc gặp gỡ để đàm đạo việc công, hai người không hề tiếp xúc riêng.
Anh em Gia Cát triệt để tuân thủ đúng những qui củ của kẻ bề tôi, là điều mà cổ kim trong ngoài khó thấy. Gửi thân ở đời chiến loạn, nếu không hiểu được sự cẩn thận như thế ắt sẽ bị người ta nghi kỵ, và ảnh hưởng đến việc hoàn thành nhiệm vụ.
Cũng như vậy, Lưu Bị chẳng những khen Gia Cát Lượng đối với mình như nước với cá còn đem việc lớn của mình sau này hoàn toàn ủy thác cho Gia Cát Lượng, chẳng mảy may nghi ngờ, tin rằng đối với nhân cách của Gia Cát Lượng ắt đã xem xét khá sâu sắc.
Song Gia Cát Lượng tuy nắm đại quyền, lại rất đỗi hiểu rõ phải tự kiềm chế mình, sau khi nam chinh trở về danh vọng đạt đến chưa từng thấy; lại khiến riêng một người là phụ tá đại thần Lý Nghiêm rất đỗi nghi ngại. Ông ta viết thư đề nghị Gia Cát Lượng nhân thời cơ này thăng tước phong vương, nhận lễ cửu tích. Đối với việc này, Gia Cát Lượng thản nhiên bày tỏ:
“Tôi là một kẻ sĩ thấp hèn tài năng ở phía đông, phụ tá tiên đế, mà không được việc song lại được lầm ái mộ, ở vị trí là kẻ bầy tôi đứng đầu, bổng lộc được thừa hưởng cũng đã nhiều, nay thảo phạt giặc dã chưa hiệu quả, biết rằng ân tên chưa báo được, nếu tự mãn xem mình là lớn, thì không hợp với đạo nghĩa, mà tôi cũng chẳng thấy dễ chịu...”.
Bùi Tùng Chi khi chú giải Tam quốc chí cho rằng: Gia Cát Lượng đang có đại quyền, lại không thể để mất tiết chế, tuyệt không muốn vượt quá bề trên, thay thế hoàng đế làm việc, song ít có người hoài nghi ông có dã tâm thoái vị, làm được việc trên không nghi kỵ, dưới không gièm pha, trong tình hình nước Thục đang bày ra cảnh cá vượt Vũ môn, dễ lôi kéo những quan hệ của ông ta, thực là việc không giản đơn chút nào.
Đương nhiên cũng có người thấy ông nắm đại quyền một mình mà nghi ngại, kể như Liêu Lập, Lý Nghiêm, Trương Duệ, tuy có phần không phục Gia Cát Lượng song vẫn tin tưởng ở nhân cách của ông. Chỉ có một người là viên quan Lý Mạc, có nhiều biểu hiện ác cảm với Gia Cát Lượng, thường tự cho là có phân tích thông minh, rằng Gia Cát Lượng là một đại thần như thế, công cao hơn chủ, sẽ có một ngày nhất định nảy sinh xung đột với hoàng đế, đến lúc đó không thoái vị được sẽ thân bại danh liệt. Gia Cát Lượng nghe nói vậy, trái lại xem Lý Mạc như người giám sát đối với mình, tự mình cảnh giác, chẳng thể có biểu hiện vượt bổn phận của mình.
Sau khi Gia Cát Lượng mất, Lý Mạc vẫn không chịu yên, ông ta dâng sớ lên Hậu chủ bày tỏ: “Gia Cát Lượng cậy có quân mạnh ở bên mình, như hùm như sói, dã tâm bồng bột, lại nhiều năm trấn thủ ở biên cương, thần thường lo lắng sẽ phát sinh những chuyện chẳng ngờ. Nay Gia Cát Lượng chết đột ngột, chính quyền họ Lưu từ nay được bảo toàn, việc tây chinh cũng được nghỉ ngơi, già trẻ lớn bé cả nước nên ăn mừng mới đúng chứ!”.
Lưu Thiện và các đại thần Thục Hán đang đau đớn thương tiếc Gia Cát Lượng, thấy tờ sớ lời lẽ như thế, tự nhiên sinh ra rất giận giữ, cho rằng Lý Mạc có ác ý hủy hoại hiền thần tận trung với nước, lập tức bắt ông ta hạ ngục trị tội. Bởi lúc này chẳng còn người như Gia Cát Lượng bảo hộ kẻ đối địch với mình cầu xin cho, Lý Mạc không lâu bị xử tử hình.
Gia Cát Lượng là một ông quan thanh liêm, gạt bỏ những dục vọng, lấy mình làm gương để mưu cầu đổi thay không khí quan trường của quan lại đời Đông Hán phù hoa hưởng lạc, ông sinh hoạt rất cần kiệm, vẫn thường tự so sánh với Tôn Thúc Ngạo, tướng nước Sở thời Xuân Thu, từ sớ tấu gửi lên Lưu Thiện khi bắc phạt cho thấy, ông công bố tài sản riêng của mình, một trọng thần danh tướng bậc nhất như thế lại sống rất khắc khổ để giữ cho không khí xã hội được đoan chính.
Bởi phản đối phong tục ma chay linh đình đương thời, Gia Cát Lượng di chúc rằng cứ an táng cho mình ở núi Định Quân tại tiền tuyến, chẳng cần đưa về Thành Đô cử hành quốc táng, để tránh lãng phí phô trương. Ông cũng chỉ thị rõ, nghi thức tang lễ thật đơn giản, lấy núi làm mộ, có thể dùng quan tài loại thường cũng được, khi liệm chỉ cần dùng quần áo bình thường không nên vùi theo vật quý. Là một tể tướng chỉ ở dưới một người, trên cả vạn người có được tấm lòng như thế, ở giai đoạn những ngày giờ cuối cùng của cuộc sống, vẫn kiên trì nguyên tắc, thi hành tinh thần tiết kiệm, thực là điều khó thấy vậy.
Gia Cát Lượng tin rằng trị quốc ắt đầu tiên phải trị gia, cho nên đối với con cháu của mình đều yêu cầu đến nghiêm khắc; đến năm 46 tuổi ông mới có con, cho nên lúc đầu đem người con thứ của Gia Cát Cẩn là Gia Cát Kiều làm con nuôi để thừa kế. Khi Gia Cát Lượng bắc phạt, Gia Cát Kiều cũng đi theo ra tiền tuyến để được rèn luyện thêm, Gia Cát Lượng đặc biệt sắp xếp anh ta đảm nhiệm việc áp tải lương thực ở vùng núi, đội mưa gió khá gian khổ, chịu những nỗi nguy hiểm phải vượt qua núi non hiểm trở đường dài.
Trong thư viết cho Gia Cát Cẩn, Gia Cát Lượng đặc biệt đề cập đến việc này: “Cứ theo đạo lý thì cháu Kiều có thể ở lại Thành Đô, song hiện nay các con em thế hệ hai của các chư tướng đều ở tiền tuyến vận chuyển quân nhu, mọi người đều phải đồng cam cộng khổ mới đúng, cho nên tôi đặc biệt lệnh cho cháu dẫn 500 binh sĩ, cũng giống như các con em khác, đảm nhiệm việc vận chuyển lương thực”.
Rất không may, Gia Cát Kiều ở chiến dịch Nhai Đình, để bảo hộ lương thảo an toàn, trên đường rút quân, đã quyết chiến với địch mà chết.
Đến những năm cuối đời, đối với con trai Gia Cát Chiêm của mình, về dạy bảo cũng rất nghiêm khắc, trong thư gửi cho Gia Cát Cẩn có đề cập: “Cháu Chiêm hiện nay đã 8 tuổi, thông minh đáng yêu, song hiềm nỗi sớm chín chắn một chút, sợ sau này lớn lên nếu không được rèn luyện nhiều sẽ khó có được khí chất lớn”.
Ông hy vọng lấy yêu cầu và rèn luyện thật nhiều để huấn luyện cho con được trưởng thành.
Gia Cát Lượng có học thức rất rộng, lại có thói quen độc lập suy nghĩ, tuyệt không để tư tưởng của mình hạn chế ở một nhà nào, bơi thế ông nhấn mạnh đạo học cần phải thu được chỗ mạnh của mọi nhà. Không ít các nho gia đời sau, xem Gia Cát Lượng là sự hỗn tạp giữa Nho gia và pháp gia, cho rằng đường học vấn của ông không thuần thục, tạp loạn vô chương, thực ra đó chỉ là kiến giải nặng về một môn phái mà thôi.
Trong “Giới tử thư”, Gia Cát Lượng bầy tỏ rõ ràng cách nghĩ của mình về đạo học và sự tu dưỡng: “Phàm việc làm của người quân tử, lấy tĩnh để tu thân, lấy kiệm để nuôi đức, nếu chẳng đạm bạc thì chẳng sáng được chí, nếu chẳng tĩnh lặng thì không đến được xa, phàm đã học tập ắt phải tĩnh lặng mới thành được đạo học, nếu chẳng học thì chẳng có tài lớn, chẳng có chí thì cũng không học được”.
Ông nhấn mạnh tu tâm phải giảm đến mức tuyệt đối những dục vọng, học nhiều mới có tài lớn, xác lập ý chí lớn lao, không ngừng yêu cầu bản thân thì đạo học và sự tu dưỡng mới có được thành, công thực sự, đấy cũng là tinh thần cơ bản dốc lòng tận tụy của Gia Cát Lượng.
Tuy về vị trí quan chức và quyền lực thuận buồm xuôi gió, song về sự nghiệp có thể nói rằng, suốt đời gập ghềnh. Để thực hiện lý tưởng của phái Thanh Lưu có từ khi còn trẻ, ông chọn Lưu Bị làm minh chủ để mình suốt đời phụng sự, mới bước vào xã hội, đã gặp phải đại quân của Tào Tháo là một bậc quân sự kỳ tài bậc nhất gây sức ép, thực là được bổ nhiệm đang khi quân bại trận, phụng mệnh giữa lúc nguy nan. Song chẳng kể bắt bẻ như thế nào, vị quân sư trẻ tuổi này cự tuyệt lời mời của Tôn Quyền vẫn kiên trì đứng trong tập đoàn Lưu Bị.
Trong thời gian khó khăn nhất, người quản lý cao nhất về kế hoạch này, lại làm được kế hoạch “ba chân đỉnh lớn” xây dựng được một sự nghiệp thật hiển hách, hơn nữa dần dần thực hiện, chẳng những phản bại làm thắng, mà còn khiến tập đoàn Lưu Bị hoàn toàn thoát khỏi tình hình nguy vong, ở đây không thể không nói đến công lao của Gia Cát Lượng.
Song những đòn đánh và vấp ngã liên tiếp như “mất Kinh Châu”, “thua ở Hồ Đình”, “gửi con ở thành Bạch Đế’, Nam Trung phản loạn, khiến cho Thục Hán chính quyền mới thiết lập lại có nguy cơ chết yểu, bởi thế mà Gia Cát Lượng không thể không xốc lên, một vai gánh vác đại quyền để ngăn sóng cả.
Lưu Thiện tuổi còn rất trẻ lại không có kinh nghiệm, lại thêm Lưu Bị đã có di mệnh, Gia Cát Lượng rất có thê nắm lấy mà làm thay. Song ông ta lại có thể làm được người bầy tôi không hài lòng, toàn tâm phụ tá Lưu Thiện, trong số những Đại thần phụ tá thời Tam quốc, Gia Cát Lượng có quyền lực lớn nhất, gánh vác nặng nhất, mà khó khăn cũng nhiều nhất.
Để khắc phục khó khăn như vậy, mở ra cơ hội phát triển cho nước Thục, để báo đáp ân tri ngộ với Lưu Bị, Gia Cát Lượng ngày đêm trằn trọc suy nghĩ hết mình với công việc, ông không những đảm nhiệm quyết định và thúc đẩy các kế sách lớn về quân chính toàn quốc, lại tự mình đứng ra tu bổ thủy lợi, cầu cống, đường xá, nhà trạm, lại còn tổ chức việc nuôi tằm, dệt vải, nấu muối, đúc sắt, đúc tiền, lại tự mình thiết kế ra các công cụ tác chiến và vũ khí mới như trâu gỗ, ngựa máy, nỏ liên châu.
Mỗi công việc đều có tính khai sáng, không có tính tiền lệ, chẳng thể bảo để người khác làm thay, nên phải tự mình mò mẫm, phải nắm mọi việc lớn nhỏ khác, tự mình coi xét so sách, vất vả suốt ngày. Chủ bạ Dương Ngưng, lo lắng cho sức khỏe của ông, từng khuyên ông không nên quá vất vả, lấy câu chuyện Bính Cát, Trần Bình ngày xưa, lưu ý Thừa tướng chỉ nên phụ trách quyết sách là đủ.
Gia Cát Lượng tự nhiên thấy rất rõ ràng đạo lý ấy, song vấn đề là tất cả còn chưa đi vào qũy đạo, ông không những phải quyết sách, mà còn phải triệt để đôn đốc chấp hành. Huống chi không tự mình tham dự, quyết sách có thể không được thực hiện khẩn trương, cho nên đành phải thâu tóm dẫu có vất vả mọi tư liệu có được, để mong cầu đạt được sự quán triệt nhất tinh thần của chính sách.
Có thể tự mình đôn đốc những việc nhỏ sẽ ảnh hương đến quyết sách lớn, song Gia Cát Lượng dứt khoát chẳng phải là người không biết phân biệt sự nặng nhẹ và tính khẩn trương của công việc, ông hiểu rõ công việc rất mạch lạc, hiệu suất làm việc rất cao, chỉ phải nỗi đích xác là người ham mê với công việc, việc này hoàn thành là lập tức vội làm công việc khác, phải trị quốc, phải trị quân, phải học tập, phải tu tâm, phải viết sách, một ngày dẫu có 48 tiếng cũng là không đủ với ông.
Ông đã sớm thấy sự bao la của đời sống, mà hơn nữa lại là người lạc quan chủ nghĩa, biết rõ lý tưởng của mình, có thể suốt một đời cũng không thể đạt được. Song ông không phải là người theo bi quan luận, giữ mệnh tích cực làm việc không ngừng, có thể làm được bao nhiêu biết bấy nhiêu, tổng hợp để được có thành quả lớn. Đấy có thể mới là chỗ sâu xa của binh pháp, đối với thế giới và đời sống cá nhân, trải qua tĩnh lặng mà hiểu biết thấu triệt, xây dựng được cho mình triết học đời sống.
Cũng giống như Thần Phật, lấy sự quan tâm vô tận, để đối mặt với cuộc đời bao la và rắc rối, không mưu cầu sự trả giá, nỗ lực làm việc cho đến thời khắc cuối cùng của sinh mệnh, đấy chẳng phải là chỗ cao cả phổ độ chúng sinh của phật học như Địa Tạng Vương nói “Ta không xuống địa ngục thì còn ai xuống địa ngục” đó ư?
Tuy chúng ta chẳng thể từ những tác phẩm và hành vi của Gia Cát Lượng thấy được ông ta có tôn giáo tín ngưỡng gì, song ông ta đã lấy suy nghĩ lý tính trong bịnh pháp học, lấy thái độ tĩnh lặng nhất, tình cảm ôn hòa nhất để đối mặt vói đời sống hữu hạn và công việe vô hạn.
Có thể là sự nỗ lực của Gia Cát Lượng, khiến trong trăm họ ở Trung Quốc rộng lớn, ông trở thành nhân vật ở thời đại Tam quốc được tôn kính mà nhớ tiếc nhất, miếu thờ tế tự ông ta rất là phổ biến, những câu chuyện liên quan đến ông ta cũng lưu truyền rất rộng.
Bậc vua nổi tiếng một thời là Đường Thái Tông khi bình luận về Đào Khản có nói: “Cơ mưu thông sáng tựa Ngụy Vũ (Tào Tháo), trung thuận cần lao như Khổng Minh (Gia Cát Lượng). Bốn chữ “trung thuận cần lao” này, có thể nói là hình tượng rất rõ ràng về Gia Cát Lượng.
Ông vua nổi tiếng nhất đời Thanh là hoàng đế Khang Hy, lại trực tiếp bày tỏ rằng: “Gia Cát Lượng nói: Dốc lòng tận tụy đến chết mới thôi. Làm kẻ bầy tôi, duy chỉ có Gia Cát Lượng có thể được như vậy”. Đây là sự bình giá của một nhân vật cũng làm chính trị đối với ông. Đến như trăm họ dân chúng, sự thể hiện lại càng nhiệt tình, sau khi Gia Cát Lượng mất, toàn dân Thục Trung rất đỗi thương tiếc, trăm họ tế cúng trong ngõ, người Nhung, Di tế cúng ngoài đồng nội.
Tuy nhà cầm quyền nước Thục cho rằng không hợp phép tắc lễ nghi, cự tuyệt việc lập miếu thờ Gia Cát Lượng, song trăm họ ở Thục Trung, người Man Di ở Nam Trung, người Nhung ở phía tây, cơ hồ là toàn dân đều vận động, phong trào chưa từng có như thế, triều đình cũng không cấm được. Nghe nói tình hình này kéo dài suốt mấy chục năm không thôi.
Tôn Tiền đời Đưòng cho rằng: “Gia Cát Vũ Hầu đã mất 500 năm, nhân dân từ Lương Hán đến nay, vẫn ca tụng sự tích, lập miếu và tế tự ở nhiều nơi, ông đã để lại sự thương nhớ của mọi người mãi mãi khắc sâu như thế”.
Năm 263 sau Công Nguyên, đầu năm nhà Thục Hán bị diệt vong, bộ binh hiệu úy Tập Long, Trung thư lang Hướng Sủng dâng thư lên Hậu chủ Lưu Thiện, đề nghị lập miếu thờ Gia Cát Lượng, họ nói: “Từ đời Hán đến nay, có người có đức thiện nhỏ mà nhiều nơi đã tô vẽ đền miếu để kỷ niệm. Mà phẩm đức của Thừa tướng Gia Cát Lượng đáng gọi là tấm gương của bốn biển, công trạng là vô song ở đời, Thục Hán đến nay may còn tồn tại, công sức của Thừa tướng rất lớn. Trước mắt nếu triều đình không làm, trăm họ vẫn làm cúng tế riêng, đấy dứt khoát chẳng phải là phương pháp kỷ niệm tiêu hiền. Cho nên chúng thần đề nghị, nên lập tức xây dựng miếu thờ Vũ Hầu, khiến người thân có thể theo ngày mà tế cúng, trăm họ mong mỏi cũng có thể đến miếu ấy mà cúng mới là lễ nghi chính đáng vậy!”.
Lưu Thiện đã phê chuẩn bản sớ đó, lệnh cho ở vùng Miện Dương (Thiểm Tây), gần với mộ phần của Gia Cát Lượng, xây dựng miếu thờ, đấy cũng tức là miếu thờ Vũ Hầu sớm nhất.
Năm 304 sau Công Nguyên, Lý Hùng xây dựng được chính quyền nhà Hán ở Thành Đô, ở Thiếu Thành của Thành Đô có xây dựng “miếu Khổng Minh”.
Năm 347 sau Công Nguyên, Đông Tấn đại tướng quân Hoàn Ôn khi diệt được chính quyền nhà Hán ở đây đã thiêu hủy Thiếu Thành, song miếu Khổng Minh lại được cố ý bảo tồn mãi, cho thấy người đời sau rất kính trọng Gia Cát Lượng, đã vượt qua cả quan niệm riêng của mình.
Sau này ở phía nam Thành Đô trong hậu đường đều thờ Lưu Bị, có xây dựng một điện thờ Gia Cát Lượng. Đến đời Đường, danh tiếng của Gia Cát Lượng vượt quá Lưu Bị, đền thờ ấy được gọi là đền thờ Vũ Hầu, hơn nữa vẫn được lưu truyền đến nay, trở thành một nơi danh thắng cổ tích quan trọng ở Thành Đô.
Đền thờ Vũ Hầu này, các thi nhân nổi tiếng như Đỗ Phủ, Lý Thương Ẩn, Lục Du đã từng đến đó chiêm ngưỡng, lại còn viết không ít thơ ca tưởng nhớ Gia Cát Lượng. Bài thơ “Thừa tướng nước Thục” được lưu truyền rất rộng, nhất là câu “Kỳ Sơn giữa trận từ trần, khách anh hùng để tần ngần lệ rơi, đã là danh ngôn bất hủ lưu truyền hàng nghìn năm nay.
Ở đền thờ Vũ Hầu tại Thành Đô, còn có rất nhiều văn vật kỷ niệm Gia Cát Lượng trong đó có tấm bia Gia Cát Vũ Hầu rất có giá trị. Đấy là tấm bia mà nhà chính trị nổi tiếng đời Đường là Bùi Độ viết ra, nhà thư pháp nổi tiếng Liễu Công Sước (anh của Liễu Công Quyền) trực tiếp viết chữ. Tấm bia đó đã khen Gia Cát Lượng có tài khai quốc trị dân, sánh được với những danh thần trong lịch sử như Khương Thái Công, Y Doãn, Quản Trọng, Tiêu Hà. Cũng thừa nhận thành tựu quân sự của ông đã bắc phạt Trung Nguyên, khiến Tào Ngụy phải khiếp sợ. Đặc biệt cũng tán dương Gia Cát Lượng quyền uy nghiêng một nước lại có phẩm đức rất là tiết tháo dẫu công cao không lấn át chúa, biểu thị đầy đủ cách nhìn của một nhân vật chính trị đời sau, sự tôn kính và nhớ tiếc Gia Cát Lượng.
Trong những văn vật còn bảo tồn được, rất hấp dẫn sự chú ý của mọi người là ba mặt trống đồng của ‘‘trống Gia Cát”, trong đó có một chiếc đúc trước đời Đường, hai chiếc khác nhỏ hơn là sản phẩm của đời Minh, Thanh. Trống đồng đã có từ thời Xuân Thu, lưu hành trong dân tộc thiểu số vùng tây nam, lúc đầu dùng để đun nấu, về sau mới dần dần biến thành nhạc khí, được sử dụng khi cúng tế hội hè hoặc khi có chiến tranh, đời sau trống đồng được gọi là “Trống Gia Cát”, cơ sỏ chủ yếu dựa vào một truyền thuyết: khi Gia Cát Lượng viễn chinh Nam Trung, chế ra trống đồng này, ban ngày để thổi cơm, ban đêm nếu có tình huống dùng để gõ lên báo động. Truyền thuyết này vẫn được lưu truyền rộng ở vùng Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên có rất nhiều người cho rằng Trống Gia Cát do Gia Cát Lượng phát minh ra.
Cũng giống như chúng ta qui nhiều phát minh ngày xưa vào công lao của Hoàng đế trong truyền thuyết, những truyền thuyết về Gia Cát Lượng ở vùng tây nam đã thể hiện đầy đủ sự nhớ tiếc vô hạn của người vùng ấy đối với công lao của Gia Cát Lượng.
Trong đền thờ Vũ Hầu cũng có không ít các câu đối của các danh nhân đời sau để lại, như Triệu Phan đời Thanh có viết:
“Rất mực công tâm, binh pháp tinh thông không hiếu chiến.
Bao la nhân hậu, quốc gia điều độ những lo toan”.
Phùng Ngọc Tường sau đó cũng viết:
“Thành việc lớn bởi toàn tâm, một đời cẩn thận,.
Đón gió lành nơi thắng tích, vạn cổ thanh cao”.
Ở đây đã biểu hiện đầy đủ, con cháu đời sau trải qua mấy nghìn năm, đã đánh giá Gia Cát Lượng như thế nào.
Ngoài Thành Đô, đền thờ Vũ Hầu ở thành Bạch Đế cũng như các đền thờ ở Nam Dương và Tương Dương cũng đều rất nổi tiếng. Ở đền thờ Vũ Hầu tại thành Bạch Đế, nổi tiếng nhất vẫn là tác phẩm của thánh thơ Đỗ Phủ:
Gia Cát danh thơm khắp hải hà,
Tôn thần tượng ấy đủ cao xa.
Ba chân đại đỉnh phân ranh giới,
Một quạt kê mao đuổi giặc tà.
Gây dựng bá vương tài Lã Vọng,
Mở mang cơ nghiệp chí Tiêu Hà
Những mong gánh vác phò vua Hán,
Ngũ Trượng chưa yên mộng hải hà.
Anh hùng dân tộc đời Tống là Nhạc Chi sau khi chiêm ngưỡng đền thờ Vũ Hầu, đối với sự trung thành của Gia Cát Lượng đã muôn vàn cảm khái. Nghe nói ngay tối hôm đó Nhạc Phi cầm bút viết lại bài Xuất Sư Biểu, để lại trong đền bày tỏ chí hướng của mình và sự nhớ tiếc Gia Cát Lượng.
Đôi với nhân vật lịch sử, do sự bất đồng về lập trường, sự đánh giá của đời sau thường có cao có thấp, có tốt có xấu, có chính có tà, song mấy nghìn năm lại đây, sự đánh giá của người đời với Gia Cát Lượng lại đều là chính diện, có thể có sự cao thấp về trình độ, song lập trường nói chung đều tán dương tô vẽ, khâm phục và nhớ tiếc không nguôi.