Ngày mai không hẹn trước
Chương 11

     hi Bob và Peggy Beldon chuẩn bị đi ngủ thì gió vẫn còn gào thét và mưa vẫn trút nước quanh ngôi nhà của họ. Đêm mùa đông trôi đi thật chậm chạp. Đã ba ngày nay không có ai đến thuê kể từ khi người khách cuối cùng của họ trả phòng. Đây là công việc lúc về hưu của họ, nhưng Bob lại không quan tâm việc khan hiếm khách trọ. Vì không có khách, anh và Peggy lại có thời gian mà nghỉ ngơi và thưởng thức không khí gia đình bên nhau.
Gió vẫn gào thét qua những cành lá mùa đông trơ trụi bên cửa số. Bob tắt tivi sau khi bản tin mười một giờ chấm dứt. Những ánh đèn điện vẫn lung linh bên ngoài khung cửa. “Xem ra chúng ta đã hoàn toàn ở trong bóng tối rồi”, anh nói “tốt hơn là có vài cái đèn pin trong tay”.
Peggy gật đầu, nhặt những chiếc cốc cà-phê và đi vào trong bếp. Bob chuẩn bị đi lên gác sau thì nhận ra có ánh đèn pha đằng trước. Một chiếc ôtô rẽ vào con đường nhà họ. “Chúng ta có hẹn khách nào đâu nhỉ?”. Mặc dù biết rõ câu trả lời, anh vẫn hỏi Peggy vì biết đâu cô đã hẹn rồi sau đó quên mất. “Cuối tuần chúng ta mới có khách mà”. Peggy vẫn giữ hai chiếc cốc trong máy rửa bát, dừng lại trả lời anh.
“Có vẻ như ai đó đang đến nhà mình đấy”.
Vợ anh kéo rèm và vươn người qua bồn rửa để nhìn ra ngoài cửa số. “Hình như không phải là khách quen anh ạ”.
“Mưa thế này thì biết làm sao được có phải là khách quen hay không. Nhưng anh chưa nhận ra cái xe này”. Bob gần ra đến cửa thì chuông cửa reo vang. Anh bật chiếc đèn ngủ và mở khóa. Một người đàn ông mặc áo mưa và đội mũ bẻ cong vành xuống. Anh ta mang một chiếc va-li nhỏ trong tay. Đầu cúi gằm, khuôn mặt chìm vào bóng tối càng làm cho người ta khó nhận ra anh ta hơn. “Trên đường tôi nhìn thấy ánh đèn. Ông có còn phòng nào cho thuê đêm nay không?”, anh ta hỏi với giọng trầm và khàn khàn.
“Chúng tôi có đấy”. Bob bảo anh ta và mất một lúc để đoán tuổi người lạ. Người đàn ông trạc khoảng năm nhăm tuổi, anh đoán thế, nhưng khó lòng khẳng định chắc chắn được. Anh ta khom khom người và hơi lao về phía trước khi bước vào nhà. Bob nghĩ, trông anh ta rõ ràng là rất quen. Peggy lúc nào cũng tỏ ra nồng hậu và ấm áp khi đón khách. Chị dẫn người khách vào trong bếp, nơi có mẫu đăng ký thuê phòng. Người đàn ông liếc nhìn tờ đơn Peggy đưa. “Tôi sẽ trả tiền bây giờ”. Anh ta nói, rút luôn tiền mặt trong túi.
“Chúng tôi cần anh điền vào thẻ thông tin”. Bob nói. Anh có một cảm giác rất lạ về người khách này, mặc dù anh không thể đoán được anh ta là ai.
“Tôi là Bob Beldon”, anh nói, “có thể anh thấy hơi ngớ ngẩn nhưng hình như chúng ta gặp nhau ở đâu rồi thì phải?”.
Người đàn ông lạ vẫn không trả lời.
“Anh à, đừng hỏi khách làm gì. Mất thời gian của họ”. Peggy thì thầm. Bob hơi bực nên anh cau mày một chút. Anh không thể không băn khoăn xem vì sao người lạ này lại chọn một nhà trọ xa xôi, chỉ phục vụ phòng ngủ và bữa sáng thay vì chọn một nhà khách nào tiện đường hơn.
“Tôi lấy cho ông một cái gì ấm ấm để uống nhé”. Peggy hỏi
“Không, cảm ơn bà”. Giọng anh ta nghe chẳng mấy thân thiện.
“Sao anh lại đến đây vào một đêm như thế này?”. Bob vẫn cố lục vấn “Nhà chúng tôi có nằm trên trục đường chính đâu”.
“Bây giờ thì những thứ đó có quan trọng gì”. Peggy nói, mắt nhìn Bob. Anh biết chị đã bực vì thái độ của anh. Nhưng anh thật sự cảm thấy có một chút gì đó không thoải mái.
Người đàn ông lạ chẳng đếm xỉa đến câu hỏi của Bob. “Tôi sẽ rất biết ơn nếu ông chỉ giúp tôi phòng của tôi”.
“Tất nhiên rồi”. Peggy dẫn đường dọc theo hành lang dài xuống bếp. “Anh có thể lựa chọn. Chúng tôi có phòng Chim sẻ vàng và...”
“Phòng đó được rồi”. Anh ta có vẻ thiếu kiên nhẫn và sẵn sàng chấp nhận mọi căn phòng. “Tôi sẽ điền vào mẫu đăng ký cho bà vào sáng mai”. Anh ta mở cửa và mang va-li vào trong, sau đó quay lưng lại với họ và nói “tôi hi vọng ông bà không thấy phiền nếu tôi đi nghỉ bây giờ chứ. Tôi đã đi suốt cả một ngày dài rồi”.
Bob định nói với anh ta rằng việc giấy tờ thủ tục cần phải làm trước đã nhưng Peggy đã ngăn anh lại. “Bữa sáng được phục vụ từ tám đến mười giờ sáng. Chúc ông ngủ ngon”.
“Cảm ơn”. Người khách đóng cửa và họ nghe thấy tiếng anh ta khóa bên trong.
Bob đợi cho đến khi cả hai vợ chồng lên gác mới lên tiếng, “Anh không thích cái kiểu nhìn của anh ta”.
“Anh đừng có kỳ cục như vậy”. Peggy nói khi đi vào phòng tắm lớn để tẩy trang. “Anh ta là khách thuê phòng. Anh không cần phải thích anh ta. Em đoán là sáng mai anh ta sẽ đi sớm và thế là xong chuyện”.
“Có lẽ thế. Bob nói nhỏ nhưng chẳng hiểu sao anh lại có cảm giác nặng nề rằng sẽ không phải như vậy.
Cơn mưa bão vẫn tiếp tục ngoài hiên. Bob đứng ở cửa sổ phòng ngủ nhìn ra khu cảng tối om của thị trấn Cedar. Xa xa vẫn còn vài ngôi nhà sáng ánh đèn.
Rất nhiều lần, anh băn khoăn về việc kinh doanh của mình. Đó là một nghề bắt buộc phải cho khách lạ vào nhà. Anh không thích người đàn ông trong căn phòng dưới gác kia, mặc dù anh không biết chính xác lý do tại sao mình không thích. Bản năng của anh mách bảo người đàn ông này có thể gây rắc rối.
Peggy là người phụ nữ có tâm hồn và trái tim nhân hậu. Thế nên cô chỉ nhìn thấy hoàn cảnh khó khăn của một nguời bị mắc kẹt giữa cơn mưa bão, đang muốn tìm chỗ trú thân qua đêm. Bob ước gì mình cũng có cảm giác như vợ. “Anh có định đi ngủ không thế”?, Peggy hỏi, trải chiếc chăn bông và nằm dài xuống chiếc khăn trải giường sạch sẽ thơm tho.
Có lẽ Peggy đúng. Nói chung từ trước đến nay chị luôn đúng. Người đàn ông dưới căn phòng kia chỉ là khách qua đường mà thôi. Sáng mai anh ta sẽ trả phòng và họ sẽ không bao giờ gặp lại anh ta nữa. Người đàn ông lạ này đã trả tiền đầy đủ, và nếu anh ta lưỡng lự không muốn điền vào thẻ thông tin thì đó là quyền của anh ta thôi.
Sáng hôm sau, lúc Bob thức dậy thì mặt trời đã lên cao tự bao giờ. Anh giật mình mở choàng mắt, ngạc nhiên thấy trời đã sáng quá rồi. Peggy đã đi xuống gác anh có thể nghe thấy tiếng vợ hát theo chiếc đài trong khi đang nướng món bánh xốp dâu tây xanh. Đó là món bánh đặc biệt của chị, và những quả dâu tây xanh ấy cũng là do họ trồng được ở một khoảng đất nhỏ ngay cạnh vườn rau thơm - niềm tự hào của Peggy. Mùi hương quyến rũ của cà-phê bốc lên tận gác. Bob xoa tay lên mặt, nhớ lại những dư âm về một cơn ác mộng của đêm qua. Cơn ác mộng đến với anh không phải bằng những hình ảnh mà bằng những cảm giác, những ấn tượng, và chúng không hề dễ chịu. Sau khi trèo lên giường, lúc đầu còn thiu thiu sau đó anh chìm vào giấc ngủ sâu từ lúc nào, và đó là khi cơn ác mộng kéo đến. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng anh vẫn không thể nhớ những giấc mơ đã trải qua lúc ấy.
Thường thì anh vẫn là người dậy sớm hơn Peggy và pha cà-phê. Cảm thấy áy náy vì dậy muộn nên Bob nhanh nhẹn mặc quần áo. Suy nghĩ một lát, anh bước nhanh đến bên cửa sổ. Chắc chắn rồi, chiếc xe Ford màu trắng vẫn còn đậu bên dưới. Vậy là người khách lạ lùng kia vẫn chưa chuồn mất như Bob đã nghi ngờ - và cả hi vọng rằng anh ta sẽ làm như vậy. Có lẽ sáng nay ta sẽ cảm thấy dễ chịu hơn đêm hôm trước, anh tự nhủ. Và Bob sẽ tìm ra được một số điều gì đó về anh ta. Bởi Bob luôn có cảm giác mình đã từng gặp nguời khách này rồi.
Peggy mỉm cười khi thấy chồng. “Chúc anh buổi sáng tốt lành. Đã lâu rồi em không thấy anh ngủ muộn thế này đấy”.
“Anh biết. Anh cũng chẳng hiểu tại sao nữa”.
Vợ anh hơi do dự. “Anh lại gặp ác mộng à”.
“Thực sự anh không nhớ gì nữa...”.
“Sáng nay anh thấy có ổn không?”. Peggy nhìn chồng, khuôn mặt nhăn nhó vì lo lắng.
“Anh vẫn ổn”, Bob lầm bầm, “anh đã dậy thật chưa ấy nhỉ?”. Trong năm nay đã hai lần Bob thức dậy ở một nơi khác ngoài phòng ngủ. Cách giải thích duy nhất là anh bị chứng mộng du.
“Lúc tỉnh dậy thì anh vẫn đang ở trên giường đấy chứ?”, Peggy trêu anh. Bob gật đầu và bỗng thấy nhẹ nhõm hẳn. Anh ôm vợ rồi rót cà-phê vào cốc cho mình. Dùng “phương pháp” của Hội cai rượu, anh bước ra phòng tắm nắng và thả mình xuống chiếc ghế tựa rồi đọc sách. Anh đã bỏ lại sau lưng hai mươi năm say khướt, nhưng đôi lúc anh vẫn muốn uống một chút. Anh đã từng bị say khi chỉ uống có một cốc rượu và sau đó không ngày nào anh không tự nhắc nhở mình về chuyện ấy. Hai mươi phút sau Peggy mang bánh xốp nướng ra khỏi lò.
Thói quen mỗi sáng của họ là thế. Đến tận gần mười giờ sáng thì vợ anh mới nhận ra rằng họ chưa nhìn thấy người khách đâu, cho dù ôtô của anh ta vẫn đậu ở sân. Trí tò mò xui khiến Bob đi ra bên ngoài và nhìn qua của số của chiếc xe. Một tấm bản đồ được trải ra trên ghế dành cho khách và một chai nước đã uống dở một nửa đựng trong hộc đồ uống. Nói chung mọi thứ đều có vẻ bình thường. “Em đã nói với anh ta là bữa sáng sẽ từ tám đến mười giờ, đúng không?”, Peggy hỏi chồng khi anh quay vào nhà.
“Có lẽ anh ta vẫn đang ngủ. Anh ta nói là đã vất vả cả ngày mà”.
“Để sau mười một giờ”. Peggy lầm bẩm hơi muộn.
“Anh ta đúng là một con vịt vớ vẩn”. Bob vẫn muốn giữ nguyên ý kiến của mình.
Nửa tiếng sau, Peggy lại băn khoăn. “Có lẽ chúng ta phải kiểm tra xem khách có ổn không anh ạ”.
“Để anh ta ngủ”. Bob bảo vợ, “biết đâu anh ta đang làm việc trong phòng thì sao. Anh ta cũng mang theo máy tính thì phải?”.
“Em cũng chẳng nhớ nữa”.
Theo như cách nghĩ của Bob, nếu người đàn ông lạ kia muốn có tự do cá nhân thì Bob sẽ để anh ta được hài lòng.
Vợ anh quẳng cho chồng một cái nhìn đầy hoài nghi, sau đó nhún vai và quay lại chỗ để tấm chăn bông mà chị vừa bắt đầu gấp cho gọn lại. Bob đi sang xưởng ga-ra; khi về hưu anh đám đương luôn công việc làm mộc với những thiết bị đồ gỗ gia đình. Nhiều năm qua, anh đã khéo léo tự chế được nhiều sản phẩm rất đẹp mắt. Anh vừa làm xong một bộ ngăn kéo và rất tự hào vì tính cần cù của mình. Sau khi đánh nốt một lớp nước áo véc-ni thì anh đi vào nhà. Bây giờ đã là mười hai rưỡi rồi. Nhìn qua cửa sổ, anh phát hiện ra chiếc xe của người đàn ông lạ lùng kia vẫn còn đỗ ở nguyên chỗ cũ.
Bob tự kẹp dăm-bông vào bánh mỳ xăng-uých và tiếp tục lang thang quanh ga-ra. Mấy phút sau, Peggy tìm được anh.
“Em nghĩ chúng ta phải đi lên đó xem sao”, vợ anh bảo, “em đã gõ cửa nhưng chẳng có tiếng trả lời cũng không ai mở cửa”.
Bob quyết định nghe lời Peggy. Đi theo vợ lên căn phòng của người khách đó, anh đấm mạnh vào cánh rửa phòng ngủ.
“Anh gì ơi, anh đã dậy rồi đấy chưa?”. Bob gọi rất to.
“Chẳng cần phải hét lên như thế đâu anh ạ”. Peggy nói thầm. Trông chị rất hồi hộp và thật sự là Bob cũng bắt đầu có chung cảm giác đó với vợ. Mặc dù họ kinh doanh được hơn mười năm nay, nhưng đây là lần đầu tiên họ gặp phải chuyện rắc rối này, và đây cũng là người khách kỳ lạ đầu tiên của họ.
“Em có chìa khóa”. Peggy bảo chồng khi không thấy tiếng trả lời từ bên trong.
“Được”.
“Chúng ta có nên gọi cho Troy Davis không anh?”. Cô hỏi. Viên Cảnh sát trưởng là một người bạn tốt của hai vợ chồng Bob, nhưng Bob chưa muốn mất thời gian của Troy nếu chưa có một lời giải thích lô-gíc nào
“Chưa cần đâu”.
“Nhưng có gì đó không ổn lắm”.
“Em đừng có vội kết luận như thế, Peg ạ”. Bây giờ anh ước gì mình nghe theo cảm tính của mình đêm trước và bảo người đàn ông lạ mặt này đi tìm chỗ trọ khác.
Peggy đưa chìa khóa cho chồng. Bob lượng lự một giây rồi tra chìa vào ổ. Rất chậm rãi, anh vặn tay nắm cửa và mở hẳn ra. Người khách trọ đang nằm ngủ giữa giường. Chiếc áo khoác treo trong tủ quần áo, còn chiếc mũ thì được đặt ngay ngắn ở trên giá. Va-li hành lý thì mở tung trông như là một bác sĩ phẫu thuật đã đóng đồ vào đó vậy. Mọi thứ đều được gấp gọn gàng ngay ngắn. Chiếc va-li chẳng có biểu hiện gì là bị lục lọi cả.
“Có lẽ anh ta ốm rồi”. Peggy nói, bám chặt cánh Bob nghi ngờ điều đó. Anh nhận ra rằng mùi của người khách và da dẻ của anh ta đều gợi lại những kỷ niệm về cuộc chiến tranh trong rừng xảy ra khoảng bốn mươi năm về trước. Cảnh chết chóc ấy khiến nguời ta không dễ dàng quên đi nhanh chóng. Mục đích của người lạ này đến vịnh Cedar để làm gì thì cho đến giờ vẫn còn là một điều bí ẩn.
Bob lại gần chiếc giường và nhìn vào mặt anh ta. Đêm hôm trước, khuôn mặt anh ta bị che khuất vì anh ta kéo chiếc mũ xuống rất thấp. Bây giờ không còn bị che nữa nên trông anh ta trẻ hơn rất nhiều. Trẻ hơn và hoàn toàn thanh thản.
“Anh ta... chết rồi à?”. Peggy hỏi, khuôn mặt chị đầy lo sợ. Mặc dù biết rõ câu trả lời, nhưng Bob vẫn sờ vào nhịp mạch đập nơi cổ anh ta. Chẳng có gì cả. “Anh nghĩ đến lúc mình phải gọi Troy rồi”, anh nói. Mười lăm phút sau, sân nhà Bob đã đầy xe cấp cứu. Các nhân viên y tế, vài sĩ quan cảnh sát và bác sĩ khám nghiệm tử thi đã tụ tập khắp nhà. Bob trả lời hết câu này đến câu khác, nhưng anh không thể cung cấp nhiều thông tin cho Troy hoặc Joe Mitchell, bác sĩ khám nghiệm tử thi.
“Có lẽ phải mổ xác thôi”. Troy nói.
“Các ông sẽ đưa anh ta đi khỏi đây sớm chứ?”. Peggy hỏi. Vợ anh bị chấn động mạnh vì chuyện này. Sự thật phải được làm sáng tỏ, anh cũng nghĩ vậy.
Bác sĩ khám nghiệm ra khỏi phòng và tháo bỏ đôi găng tay nhựa. “Ông có biết làm sao anh ta chết không?”. Bob hỏi.
“Giờ thì chưa thể biết được”. Joe nói, đôi mày nhíu lại. “Bằng lái xe của anh ta cho biết tên anh ta là Whitcomb. James Whitcomb, quê ở Florida. Cái tên đó có gợi cho ông điều gì không?”
“Không”. Bob khẳng định, bất chấp thực tế tối hôm qua anh có linh cảm thấy người này quen quen. “Tôi chưa bao giờ gặp người này”.
Joe tiếp tục nhíu mày. “Anh ta phẫu thuật thẩm mỹ khá nhiều”. Bob khó mà biết được thông tin đó có nghĩa gì.
“Có một cái gì đó rất khác thường trong chuyện này”. Joe nói, chân bước theo sau chiếc băng ca chở xác người đàn ông ra khỏi phòng.
Uy tín của Maryellen ở hiệu sửa móng tay xem ra đã suy giảm sau bữa tiệc Halloween. Rachel, cô thợ sửa móng, đã gặp người bạn trai thích ôtô bị bỏ rơi của Terri. Mọi chuyện giữa hai người có vẻ tiến triển được một thời gian. Suốt cả tháng Một và tháng Mười hai, Rachel cứ rối rít khen ngợi Larry và những gì anh ấy làm cho chiếc xe của cô. Đầu tiên, anh ta thay bộ phanh trượt cho xe, mà chi phí chỉ bằng một phần rất nhỏ nếu mang ra ngoài cửa hàng để làm. Sau đó, anh lại sửa luôn bộ đèn bên trong xe cho chúng hoạt động trở lại. Thậm chí anh còn cố gắng chữa lại sàn xe cho cô nữa. Rachel hàm ơn anh vì điều đó và cố thuyết phục bản thân là phải yêu anh đến phát điên lên. Tại sao cô lại không thể yêu một người đàn ông đã tiết kiệm cho cô hàng trăm đô la được cơ chứ?
Thế rồi bộ truyền điện xe cô bị hỏng. Đó là một lần sửa chữa lớn và quan trọng. Người hùng của Rachel rất tin tưởng rằng anh ta sẽ chữa được nó. Tất cả những gì cô phải làm là mua bộ truyền điện mới cho xe. Không may Larry lại hơi quá đáng trong việc dự đoán khả năng của mình. Chẳng những anh làm hỏng thêm mà Rachel còn phải đưa xe ra tận cửa hàng để sửa. Tất nhiên cô phải trả tiền lần thứ hai cho chuyện sửa chữa đó. Đã thế, Larry còn chìa cho cô tờ hoá đơn đòi thanh toán tất cả những chi phí sửa chữa cộng với công sức anh ta bỏ ra từ trước đến nay cho chiếc xe của cô. Chẳng cần phải nói, mối quan hệ đó không thể tiến xa hơn được nữa.
Trường hợp của Jane cũng chẳng khá khẩm gì hơn. Cô muốn tìm một anh chàng biết tiêu tiền. Jeannie đã từng yêu một người làm cố vấn tài chính nhưng anh chàng này rất buồn tẻ nên đã chia tay và cô giới thiệu anh này cho Jane hôm lễ hội Halloween, Jane và Geoff ngay lập tức đã bắt hồn nhau. Jane khăng khăng rằng Geoff không hề buồn tẻ như Jeannie nói. Nhưng sau đó, Geoff đã nói cho cô biết một thủ thuật để chơi chứng khoán nóng mà chỉ những người nội bộ mới biết được thông tin này. Thấy chắc chắn, Jane liền đầu tư toàn bộ tiền tiết kiệm và ngay lập tức chứng khoán bị giảm xuống tám phần trăm. “Cái mà tớ học được sau tất cả những chuyện này là”, Rachel nói khi làm xong công việc đánh bóng móng tay cho Malyellen, “nếu như một trong số chúng ta đánh gục được một anh chàng nào, thì đó chỉ có thể là một người đáng nguyền rủa”.
“Cậu nói lại xem nào”. Jane có vẻ đồng tình.
“Thế còn người đàn ông của cậu thì sao?”. Jeannie hỏi Maryellen. Maryellen nhấp nháy mắt, giả vờ như không hiểu câu hỏi của Jeannie. “Tớ có gặp ai đâu”.
“Cái anh chàng cứ bám dính lấy cậu như là keo ấy.” Terri kêu lên từ bên kia cửa hàng, nơi cô đang làm móng cho một người lớn tuổii hơn. “Tớ đã để mắt đến anh ta suốt đấy, nhưng anh ta chẳng nói chuyện gì với tớ cả”.
“Tớ chắc chắn là cậu tưởng tượng ra thế thôi”. Người cuối cùng cô muốn đề cập đến với các bạn chính là Jon Bowman.
“Không hề nhé”. Terri nói nhỏ, vẫn đứng đánh bóng móng tay cho khách. Cô nhấc một cái chai và đọc tên ở đáy chai. “Em dùng loại 'Không chỉ là nữ bồi bàn' có được không hả chị?”, cô hỏi vị khách.
May quá, thế là cô ta không chú ý đến Maryellen nữa mà chuyển sang vị khách kia.
“Cậu đã đi chơi với anh ta à?”. Rachel hỏi, cô lại tiếp tục tấn công Maryellen bằng câu hỏi của mình. “Có lẽ cậu không nhận ra là anh chàng đó thích cậu như thế nào, chỉ có chúng tớ biết thôi”.
“Tớ không gặp lại anh ta từ trước Giáng sinh. Nhưng nếu gặp, cậu có muốn tớ cho cậu số điện thoại của anh ấy không?”. Đây là cách duy nhất để thuyết phục Rachel rằng cô không thích thú gì chuyện yêu đương cùng Jon.
“Chẳng ích gì. Tớ đã từng ở cùng những anh chàng mà tâm hồn chỉ hướng tới những người con gái khác. Những gì cậu vừa nói chỉ là một liều thuốc xoa dịu nếu như cậu biết ý tớ muốn nói gì”. Vừa tô màu cho chiếc móng tay cuối cùng, Rachel hẹn giờ và vặn nhỏ đèn sấy những chiếc móng tay cho Maryellen để chúng sẽ có một màu hồng hoàn hảo.
Khi những chiếc móng tay đã khô, Maryellen đi nhanh ra khỏi cửa hàng. Cô hẹn gặp mẹ vào bữa tối nay ở nhà hàng Pancake Palace. Toàn bộ lịch làm việc của cô đã kín đặc, đã thế cô còn phải tham dự một cuộc họp bất ngờ với những người chủ phòng tranh. May mà, Rachel đã sắp xếp làm móng cho cô vào lúc chiều muộn thế này.
Sợ sẽ bị hỏi han nhiều, Maryellen tránh gặp gỡ gia đình. Kelly vẫn luôn bận rộn với bé Tyler. Kelly luôn sẵn sàng tin lời thanh minh của cô, nhưng với Grace thì không dễ nói dối như thế. Chẳng còn cách nào khác, Maryellen đành hẹn gặp mẹ ở quán Palace, nơi có nhiều loại thức ăn rất ngon và rẻ. Lúc Maryellen tới nơi thì mẹ cô đã ở đó rồi. Cô ngồi vào ghế cạnh mẹ và cầm lấy thực đơn.
“Con cảm thấy thế nào?”, mẹ cô hỏi ngay.
“Tuyệt vời mẹ ạ”. Đó là một lời nói dối. Nhưng Maryellen không muốn Grace quá lo lắng cho tình hình của cô. Lúc này đây, chỉ có mỗi mình mẹ cô biết chuyện cái thai; cô chưa sẵn sàng tiết lộ cho Kelly hay bạn bè, đặc biệt là lúc này, khi cô cảm thấy mệt mỏi vô cùng. Ngày nào Maryellen cũng phải thức dậy vì cơn buồn nôn cuộn lên trong bụng. Và lần nào cũng vậy, mặc dù vừa nôn xong nhưng chỉ một lát sau cô lại gục đầu trong toa-lét. Cô không kể cho Kelly nghe những triệu chứng của thời kỳ thai nghén. Hồi trước, khi em gái cô phải chịu đựng chuyện ốm nghén vào buổi sáng, Paul thường ở bên vợ để yêu thương, động viên khích lệ và sau đó đưa cho vợ một cái khăn lau. Maryellen cảm thấy mình thật cô đơn.
Grace đặt quyển thực đơn sang bên. “Vậy là con hoàn toàn khỏe đúng không? Mẹ không tin đâu”.
“Mẹ à”, Maryellen nói, gắng hết sức để giữ bình tĩnh. “Mẹ đừng như thế mà, con xin mẹ đấy”.
“Đừng cái gì mới được chứ?”. Grace hỏi, sau đó nghĩ lại và đổi giọng. “Chúng ta hãy bắt đầu lại con nhé?”.
“Con xin mẹ. Hãy nói với con xem mẹ có chuyện gì. Chứ đừng khuấy đảo lòng con lên bằng những câu căn vặn, con xin mẹ đấy. Con không muốn trả lời”. Cô cắn môi và cầu cho mẹ chịu nghe mình.
Grace nhìn con chăm chú, rõ ràng là không vui chút nào về đề nghị của con gái. “Thôi được rồi”, chị chậm rãi nói, “có rất nhiều chuyện khác mà chúng ta cần phải bàn bạc”.
“Chuyện gì thế ạ?”. Maryellen hỏi, lòng đầy biết ơn vì mẹ đã chuyển chủ đề. “Thứ nhất là”, Grace nói, xoay xoay cốc nước bằng cả hai tay. “Mẹ đã đi chơi với Cliff Harding tối thứ bảy vừa rồi”.
Đây mới là tin mà Maryellen chờ đợi. “Chú Cliff gọi mẹ à?”, theo cô thì Cliff là người rất kiên nhẫn.
Nét mặt mẹ cô ửng đỏ. Grace nhìn xuống quyển thực đơn. “Thực ra là mẹ gọi cho chú ấy”. Chị nói điều này với vẻ ăn năn như thể mình đã vi phạm nghiêm trọng lễ giáo vậy.
“Mẹ, điều đó thật tuyệt!”.
“Trong đời mình, mẹ chưa bao giờ gọi điện cho một người đàn ông nào”. Thậm chí cho đến bây giờ Grace vẫn chưa chắc chắn hành động của mình có đúng đắn không.
“Cái gì đã thôi thúc mẹ làm như vậy?”.
“Cô Olivia”, Grace nói không do dự. “Và hai cốc rượu. Cô ấy đã thuyết phục mẹ rằng chú Cliff sẽ hết quan tâm nếu mẹ cứ tiếp tục bỏ rơi chú ấy - mà mẹ thì lại đang cô đơn và khổ sở quá”.
Maryellen nhướng mày. “Rượu luôn làm cho con người ta can đảm hơn mẹ ạ”. Cô là người biết rất rõ điều đó, vì cô đã từng trải qua.
“Cô Olivia sẽ tổ chúc ăn mừng”, Grace giải thích. “Seth và Justine cũng sắp có con. Và con có biết là hai vợ chồng nó đã mua được một nhà hàng không? Chúng nó có quá nhiều tin vui”.
“Vâng, con có nghe nói, là nhà hàng Bếp Thuyền Trưởng. Con chắc chắn rằng hai đứa sẽ quản lý tốt và con…”.
Một cô gái hầu bàn trẻ tuổi bước đến bên họ ghi thực đơn. Maryellen đợi cho đến khi cô gái đi khuất không nghe được chuyện của họ thì mới tiếp, “Mẹ không nói gì về chuyện của con với Justine đấy chứ?”.
“Không con ạ”, Grace nói nhỏ “nhưng mẹ mong được nói”.
“Không ai được quyền biết chuyện của con, mẹ ạ”.
“Nhưng tại sao chứ...?”.
“Con có lý do của con”.
“Mẹ muốn nói với con điều này, Maryellen, bởi mỗi lần định nói thì con cứ khép chặt lòng mình và tỏ ra phòng thủ. Mẹ là mẹ của con. Con nghĩ là mẹ không biết rằng con đang lẩn tránh mẹ à? Mẹ muốn biết tại sao”.
Mẹ cô nói đúng. “Ước gì con đừng cho mẹ biết... Con rất ân hận và bây giờ cũng vậy”.
“Không phải chỉ là chuyện cái thai”, Grace thì thầm, “mà là chuyện con trong bữa trưa hôm nọ ấy”.
“Xin mẹ đừng hỏi con nữa”. Có cái gì đó cứ nghẹn ứ dần lên trong cổ Maryellen. “Mẹ đừng hỏi nữa. Con không thể đề cập đến chuyện ấy được”.
“Con nói trước đây con đã từng có thai. Mười lăm năm trước, con đã nói thế. Điều đó xảy ra trước đám cười hay là…”.
Maryellen lắc đầu, từ chối không muốn nói về quãng thời gian đau khổ nhất cuộc đời cô. “Bữa tối của mẹ hôm nọ thế nào, mẹ kể đi”. Cô đánh trống lảng.
Grace nhìn con chăm chú, đôi mắt như mờ đi vì buồn bã, “Một ngày nào đó con sẽ kể cho mẹ nghe chứ?”.
Maryellen không tìm ra cách nào để tránh khỏi câu hỏi của mẹ. Cả cuộc đời cô đã thay đổi bởi cái thai ngày ấy. Người đàn bà hôm nay trong cô là kết quả của việc mang bầu đứa con của Clint Jorstad, và sẽ luôn là như vậy. Nếu không chẳng bao giờ cô cưới anh ta, chẳng bao giờ đi con đường mà giờ đây cô biết là sai lầm như thế nào. Nhưng hễ muốn trách móc người chồng cũ thì cô lại càng nhận thức rõ được sự thất bại của mình. Nói thì dễ thôi, và để biện bạch cho những việc mình làm cũng lại càng dễ. Cô có thể thanh minh rằng hồi đó mình còn quá trẻ và dễ bị tổn thương, lại rất ngây thơ khờ khạo nữa.
“Con sẽ kể cho mẹ nghe vào một hôm khác chứ?”, Grace nhắc lại câu hỏi.
“Có lẽ vậy”. Lần có mang này là cơ hội thứ hai của Maryellen, dù đó là một cơ hội không mong đợi. Lần này cô sẽ làm theo lời trái tim mách bảo.
“Con có nói cho em Kelly biết chuyện không?”. Grace vẫn tiếp tục đưa ra các câu hỏi mà Maryellen không muốn trả lời.
“Chưa mẹ ạ. Nhưng con sẽ nói sau”.
“Khi nào?”.
“Mẹ à... con sẽ nói cho Kelly biết khi nào con sẵn sàng”. Maryellen rất quý em gái, nhưng đơn giản là Kelly không biết giữ bí mật. Nó mà biết tin này thì cả thị trấn sẽ biết.
“Mẹ kể cho con nghe chuyện ăn tối với chú Cliff đi Maryellen lại nói, lòng cảm thấy hứng khởi với sự tiến triển về cuộc hẹn hò chính thức đầu tiên của mẹ kể từ khi ly hôn.
“Bọn mẹ đã ăn ở một nhà hàng ý rất tuyệt bên Tacoma”.
“Để tránh xa những con mắt soi mói tò mò”. Maryellen gật đầu. “Mẹ và chú tính toán giỏi ra phết đấy. Thế chú ấy có hôn mẹ không?”.
Một màu hồng ấm áp lan tỏa trên khuôn mặt mẹ cô chính là câu trả lời. “Có”. Grace ngượng ngùng cầm dĩa lên và giả vờ săm soi nó một cách cẩn thận.
“Mẹ này, mẹ đang thẹn đấy”.
“Thì người đàn ông duy nhất hôn mẹ trong ba mươi lăm năm qua là bố con mà. Tất nhiên là tính đến hôm thứ bảy đó”.
“Mẹ thấy thế nào ạ?”. Maryellen biết là không nên tỏ ra thích thú khi mẹ mình ngượng ngập thế này. Cô cố gắng kiểm chế để khỏi phải cười phá lên, nhưng cô cực kỳ vui vì Cliff đã tạo được một buổi tối lãng mạn, và vì cả phản ứng đầy nữ tính của mẹ cô nữa.
“Nụ hôn thật tuyệt con ạ. Rất tuyệt là đằng khác”.
“Mẹ sẽ gặp lại chú ấy chứ?”. Maryellen hỏi tiếp.
“Con cũng tồi như cô Olivia vậy”.
“Ồ, mẹ sẽ gặp lại chú ấy chứ?”, cô nhấn mạnh.
“Có lẽ vậy' mặc dù chú ấy chưa đề nghị”.
Cô hầu bàn đã mang ra món sa-lát Cobb. Cô hỏi “Quý khách có dùng thêm gì không ạ?”, và để tờ hóa đơn của họ lên bàn trước khi họ kịp trả lời.
Maryellen nhìn cô gái đi ra. “Con đoán là mình sẽ không dùng thêm gì nữa đâu”.
“Mẹ e là con và cô Olivia nói về Cliff nhiều hơn bình thường đấy”. Grace rũ chiếc khăn ăn ra.
“Nhưng mẹ sẽ đi nếu chú ấy mời mẹ lần nữa chứ?”.
“Đó mới chỉ là một bữa tối và bọn mẹ vẫn chưa hẹn lại với nhau”.
“Vâng, con hiểu. Hẹn hò yêu đương làm con sợ. Ai cũng nghĩ rằng đó là quyền của mỗi người, nhưng nếu đúng như vậy, thì tại sao con lại luôn cảm thấy tội lỗi một cách khủng khiếp”.
“Con đừng nên như vậy. Con đã ly dị rồi mà”. Grace thở dài. “Cả con và cô Olivia đều động viên mẹ gặp gỡ chú Cliff, nhưng mẹ không chắc chắn được là mình có nên làm thế hay không...”.
“Tại sao lại không ạ?”.
“Ồ, con yêu, con không biết thật à?”. Khuôn mặt mẹ cô đầy lo lắng. “Mẹ muốn biết chuyện gì đã xảy ra với bố con. Trong lòng mẹ thấy một mối ràng buộc, một nút thắt không thể gỡ bỏ kể từ lúc bố con mất tích”. Chị bắt đầu lấy giấy ăn. “Sau khi mẹ đi ăn tối với chú Cliff về, mẹ thấy đỡ hơn. Kiểu như được giải phóng ấy. Tự do. Nhưng cũng không được lâu. Tối đó mẹ đã rất khó ngủ”.
“Mẹ đã ly dị rồi. Mẹ là người tự do mà”
“Có lẽ về mặt pháp lý là như vậy, nhưng mẹ vẫn cảm thấy như mình đang có chồng. Mặc dù đã ly dị, mẹ vẫn thấy mẹ thuộc về bố con. Mẹ không biết điều đó có thay đổi hay không nếu mẹ tìm được bố con ở đâu và biết được điều gì đã khiến bố con phải ra đi như vậy”.
“Mẹ”. Maryellen nắm chặt tay Grace. “Có lẽ chúng ta chẳng bao giờ biết được”.
“Mẹ hiểu, nhưng cũng chẳng thế thay đổi được cảm xúc của mình”.
Bà Charlotte ngồi trong phòng đợi của bác sĩ Fred Steven, tay vẫn đan len một cách cáu kỉnh khi thấy từng phút trôi qua chậm chạp. Bà đã khám ở đây từ hai mươi năm nay và bà đặt niềm tin tuyệt đối vào bác sĩ Fred. Ông là bác sĩ của Clyde và chồng bà cũng rất tin tưởng vào ông bác sĩ này.
“Bác sĩ có thể khám cho bà được rồi đấy, bà Charlotte”. Pamela Johnson ra thông báo ở bậc cửa dẫn vào phòng khám.
Bà Charlotte thu kim đan và nhét vào túi rồi đi theo cô y tá. Khi dừng lại ở cái cân, bà bỏ giầy ra và đứng lên, mắt nhắm lại và nín thở. Có một số thông tin mà tốt hơn là không nên biết.
“Bà sút mất hơn hai cân rồi đấy”. Pamela tuyên bố.
“Thật sao?”. Điều đó rất đúng bởi nhiều tuần nay bà ăn uống mà không có cảm giác ngon miệng. Lúc đầu bà nghĩ rằng nguyên nhân có thể do bà căng thẳng quá bởi những sự kiện quanh ngày nghỉ lễ. Sau đó bà nhận ra rằng cứ cuối ngày bà lại cảm thấy cạn kiệt sức lực. Cuối cùng là cảm giác tim như bị bóp lại lúc leo lên gác, tất cả những vấn đề đó đều cần phải giải quyết bằng cách nhanh chóng tìm phòng để nằm nghỉ.
Pamela dẫn đường cho bà vào phòng khám đầu tiên. Cô ta đưa ra vài câu hỏi cơ bản và đo huyết áp cho bà. Sau khi viết gì đó lên một tờ giấy, cô để nó vào một cái khe bên ngoài cửa.
Bà hãy thay quần áo và mặc áo choàng vào”. Cô y tá ra lệnh cho bà rồi bỏ đi.
Bà Charlotte kiểm tra tờ giấy xanh mềm trên cùng. Thật là nực cười và ngớ ngẩn khi nghĩ rằng một thứ như thế có thể cứu được bà. Hiếm khi bà phải đi khám bác sĩ hàng năm cho nên bà chẳng nhớ được phải mặc chiếc áo choàng bệnh nhân với đường mở khuy ở đằng trước hay sau lưng nữa. “Chào bà Lottie”, bác sĩ Fred bước vào phòng chỉ sau năm phút. Chẳng mấy ai gọi bà Charlotte bằng cái tên đó, nên bà cũng ngớ ra một lúc. Tự nhiên bác sĩ Fred lại gọi như thế là. Giống như cách gọi của Clyde khi còn sống.
“Chào bác sĩ Fred”.
Bác sĩ ngồi trên ghế và xem biểu đồ của bà, trong lúc đó bà ngồi thẳng lưng trên bàn khám và hai chân trần đu đưa. Nhìn xuống móng chân, bà thấy ngượng vì lẽ ra phải đi sơn móng và đánh bóng lại. Ôi Chúa ơi, thật đáng xấu hổ. Bà cố gắng lấy chân nọ đè lên chân kia.
“Dạo này bà có cảm thấy điều gì bất thường không?”, bác sĩ Fred hỏi. Rõ ràng là ông chẳng để ý đến những ngón chân của bà.
Bà Charlotte bắt đầu tả lại những triệu chứng của mình cho bác sĩ nghe. Bà giải thích sự mệt mỏi, cảm giác ăn không ngon miệng và kiệt sức là do vấn đề rắc rối với đường rưột. Càng nói, bà càng cảm thấy vấn đề của mình là nghiêm trọng. “Theo ý bác sĩ thì có vẻ như tôi phải đến đây từ mấy tuần trước”.
“Tôi đồng ý với điều đó”. Bác sĩ Fred gật đầu tán thành.
“Tôi đã rất bận rộn với các buổi lễ, sau đó lại còn Giáng sinh...”, giọng bà kéo dài đầy tư lự. Những lý do bà đưa ra chỉ là sự biện minh, ngay cả bà cũng không chấp nhận nổi.
Sau khi khám cho bà, bác sĩ Fred và Pamela lấy ra mấy lọ máu nhỏ. Xong xuôi, ông bác sĩ quay trở lại phòng khám. May là bà Charlotte đã thay xong quần áo và chuẩn bị nghe kết luận.
“Không có vấn đề gì, phải không bác sĩ?”, bà hỏi nhỏ và tin chắc vào điều ấy. Có lẽ bác sĩ sẽ kê những viên thuốc sắt và bà có thể quay trở lại cuộc sống bình thường.
“Bây giờ tôi chưa thể kết luận được. Phải chờ kết quả xét nghiệm máu đã”.
“Ông có nghi ngờ gì không ạ?”, bà hỏi và muốn ông trả lời.
“Tôi có một vài nghi ngờ, nhưng tôi phải đợi mới dám khẳng định”.
“Ông cũng làm như thế với Clyde”. Bà nói một cách nóng nảy.
“Nếu tôi tự cho phép mình suy đoán thiếu căn cứ thì có phải tôi là người vô trách nhiệm không?”
“Ồ vâng. Ông nói đúng”. Bà nói lưỡng lự.
Bác sĩ Fred đùa. “Tôi đoán nhé, bà lại mang theo món thịt xay cà chua xanh cho tôi phải không?”.
“Ông thật vô duyên”.
“Vâng, tôi vô duyên”. Ông thò tay vào túi đan len của bà.
Bà Charlotte đập vào tay ông bác sĩ và lôi ra một bình Mason cao đổ đầy nước táo yêu thích của ông.
“Bà đúng là trái tim ngọt ngào của tôi”.
“Lúc nào được ăn ông cũng nịnh nọt thế à?”. Bà Charlotte nói và mỉm cười.
“Tôi sẽ gọi điện cho bà chừng nào có kết quả xét nghiệm máu”. Fred nói khi tiễn bà ra cửa.
Mặc dù chưa nhận được câu trả lời, nhưng bà sẽ cảm thấy dễ chịu hơn trong mấy ngày tới. Đã lâu rồi bà chẳng quan tâm gì đến sức khỏe của mình. Còn bây giờ chỉ cần tìm ra nguyên nhân sự mỏi mệt là ở đâu. Tinh thần bà dần trở nên vui vẻ.
Văn phòng của bác sĩ Fred sẽ gọi điện cho bà vào đầu tuần tới; ông đã đặt trước một loạt xét nghiệm. Một trong các xét nghiệm đó là nội soi ruột kết, bệnh nhân phải đi đến bệnh viện Harrison ở Bremerton mới làm được xét nghiệm. Không muốn cho Olivia biết nên bà đã bảo bạn bà là Laura đưa đi.
“Tôi đã từng làm cải thủ tục này rồi”. Bà Laura bảo khi đến đón Charlotte. Cả hai người bạn Bess và Evelyn cũng đi theo để động viên bà. “Chúng tôi sẽ hỗ trợ bà”. Bess nói từ ghế sau.
“Mọi người cứ làm như tôi đã già lắm rồi ấy”. Charlotte phản đối, nhưng không dám nói quá to. Thực ra thì bà thấy biết ơn những người bạn vì đã đi cùng mình đến đó.
Bà Evelyn cười khúc khích. “Này Charlotte, để tôi bảo cho bà biết, chúng ta là những ông già bà cả hết rồi. Bây giờ thì bà đừng nói gì và cũng đừng phàn nàn gì nữa”.
Mặc dù đã được gây tê nhưng bà Charlotte vẫn cảm nhận được phần nào quá trình xét nghiệm. Bà vẫn nghe tiếng những nhân viên y tế thì thầm với nhau, tiếng họ gọi bác sĩ í ới và chỉ ra vùng bệnh trên màn chiếu. Bà không biết chắc những điều đó có ý nghĩa thế nào và lo lắng chờ bác sĩ đến kết luận. Khi bác sĩ Fred cùng cộng sự đến, bà có thể thấy được trong ánh mắt ông một điều gì đó nghiêm trọng. Khi bác sĩ nói, bà chỉ nghe được đúng một từ, nhưng nó đủ để làm cho thế giới điên đảo trong mắt bà.
Các bà bạn của Charlotte tán gẫu với nhau trên đường về nhà, nhưng đầu bà vẫn quay cuồng bởi những gì đã nghe được. Bà thấy sợ vì điều đã nghe. Laura đưa bà vào trong nhà.
“Bà có muốn tôi gọi cho Olivia không?”, Laura hỏi.
Charlotte lắc đầu ra điều không cần. “Không... tôi không muốn làm phiền nó. Nó bận lắm”.
“Nhưng nó cần phải biết”.
“Để tôi nói cho nó biết sau cũng được”. Bà hứa.
Laura hỏi thăm bà bạn già một lúc, vì đã thân thiết và quá hiểu tính cách của Charlotte, bà biết bạn muốn ở lại một mình. Bà ôm hôn bạn rồi ra về. Ngồi trên ghế và ôm con Harry vào lòng,Charlotte mông lung nghĩ về cuộc đời của mình. Bà không mong gì được sống mãi mãi, cuộc đời đã cho bà đủ mọi thứ rồi. Cuối cùng thì bà cảm thấy thoải mái hơn và đã sẵn sàng để nói chuyện với ai đó. Nhưng bà không gọi cho Olivia mà lại gọi cho thằng con trai, Will, đang sống ở Atlanta.
“Mẹ à”, Will rõ ràng rất ngạc nhiên khi thấy mẹ gọi. “Mẹ có khỏe không ạ?”
“Rất khỏe”, bà nói dối, “mẹ tưởng con đang băn khoăn xem tại sao mẹ gọi điện đến cơ quan của con vào giữa giờ trưa, trong khi cái gì lúc này cũng đắt đỏ chứ?
“Thực ra con cũng đang có ý nghĩ đó trong đầu”. Will nói. Giọng nói của anh, người kỹ sư hạt nhân, rất giống giọng của Clyde. Sao mà bà tự hào về anh và Olivia thế chứ. Đột nhiên, bà nhận ra mình đang run sợ.
“Mẹ à, có chuyện gì vậy?”.
Will luôn luôn đoán được có gì đó bất ổn với mẹ. “Mẹ đã đi khám ở chỗ bác sĩ Fred tuần trước”.
Một vài giây yên lặng. “Lúc con nói chuyện với Olivia, cô ấy có nói với con là dạo này mẹ mệt lắm”
“Đúng đấy. Mẹ khá mệt mỏi”.
“Chắc là mẹ mệt lắm nên mới quyết định đi khám, đúng không ạ?”.
“Đúng. Con cũng biết đấy, Fred rất khoái món thịt xay cà chua xanh của mẹ. Thường thì lẽ ra mẹ đã nướng cho ông ấy một cái bánh, nhưng lần này mẹ lại mang cho ông ấy hẳn một bình cà chua xay thịt. Năm nay cà chua xanh được mùa mà”.
“Mẹ à, mẹ không gọi điện cho con chỉ để nói về món bánh của mẹ đấy chứ ạ?”.
“Không...”.
“Bác sĩ Fred đã nói với mẹ thế nào ạ?”.
“Cũng chẳng nói gì nhiều lắm. Ông ấy muốn mẹ làm một vài xét nghiệm”. Bà áp điện thoại sát vào tai hơn.
“Mẹ làm những xét nghiệm gì vậy?”.
“À, ông ấy cứ khăng khăng bắt làm xét nghiệm. Cái xét nghiệm vô nghĩa nhất là vào sáng nay. Mẹ phải làm ở bệnh viện Harrison”.
“Thế Olivia có đưa mẹ đi không ạ?”.
“Ồ không, mẹ không thể làm phiền nó vào một ngày thứ Năm được, đặc biệt là cuối tháng như thế này. Con biết là tòa án của em con lúc nào cũng kín hết cả lịch làm việc còn gì”.
“Nói khác đi là Olivia vẫn chưa biết chuyện này hả mẹ?”.
“Chưa con ạ”.
“Mẹ có kết quả xét nghiệm chưa?”
Bà Charlotte thấy mắt mình ầng ậng nước. Bà thấy được an ủi vì con Harry vẫn nằm trong lòng bà. Con mèo này giúp cho bà đỡ cô đơn. Khi nỗi sợ hãi lấn chiếm tâm hồn, bà thấy cần nó biết bao.
“Mẹ ơi”. Will gọi to hơn, “mẹ vẫn đang nghe đấy chứ ạ?”.
“Ừ, mẹ vẫn ở đây”.
“Thế bác sĩ bảo sao hả mẹ?”.
Bà thấy do dự. “Will này, mẹ biết là sẽ cực kỳ bất tiện cho con và Georgia, nhưng mẹ đang nghĩ không biết con có ngại về vịnh Cedar một chuyến trong một ngày gần đây không?”.
“Mẹ, bác sĩ Fred nói thế nào với mẹ?”.
Bà Charlotte cắn môi dưới thật chặt và đáp. “Mẹ bị ung thư con ạ”.