Ngày mai không hẹn trước
Chương 19

     aryellen cảm nhận được sự phát triển của cái thai ngày một rõ rệt. Khó mà tin được chỉ còn sáu tuần nữa là đến ngày cô sinh con. Từ giữa tháng sáu đến giờ cô không có tin tức gì của Jon, kể từ sau buổi chiều diễn ra lễ chôn cất bố cô. Cô đủ khôn ngoan để hiểu rằng anh đã dịu lại và sẽ không đưa việc này ra tòa nữa. Ba tuần trôi qua, lúc nào cô cũng cảnh giác, hồi hộp chờ đợi xem anh có thực hiện điều anh dọa không.
Mùa hè thật sự đã về. Maryellen lại bận rộn với những đoàn khách du lịch. Phòng tranh mùa này làm ăn rất tốt. Nhưng nhiều khách du lịch quen vẫn ghé phòng tranh hàng năm thì lại tỏ ra thất vọng khi không còn được thấy những tác phẩm của Jon bày ở đây nữa. Qua một hệ thống thông tin bí mật, cô biết ảnh của anh đang được bán rất chạy ở phòng tranh Bernard bên Seattle. Người ta kháo nhau tác phẩm của anh cứ giao đến bao nhiêu là bán hết luôn bấy nhiêu. Chuyện này thì không có gì là lạ cả, nó giống như hồi anh vẫn gửi những bức ảnh của mình ở phòng tranh này thôi. Việc giao hàng của anh không đều đặn và nhu cầu bao giờ cũng vượt xa mức cung. Cô thấy tự hào vì trước đây cô đã được anh giao ảnh thường xuyên. Trước đây anh đứng bếp ở nhà hàng Andre, nhưng bây giờ một tuần năm ngày anh làm tại nhà hàng Hải Đăng, nhà hàng đang nhanh chóng dành được uy tín và trở thành một trong những nhà hàng có các món ăn ngon nhất. Công việc kinh doanh của Seth và Justine bước đầu đã trở nên thuận lợi nhờ có Jon đứng mũi chịu sào.
Maryellen rất mừng vì sự thành công của vợ chồng Justine. Điều làm cô thấy phiền toái, cái thật sự làm cô thấy khó chịu là tài năng đặc biệt của Jon. Anh ấy quá hoàn hảo, quá xuất sắc. Anh là người đầy tài năng. Anh biết thiết kế và tự xây nhà cho mình, anh chụp được những bức ảnh xuất chúng và lại còn là một đầu bếp tài ba nữa. Nhưng có điều, anh lại thiếu những kỹ năng giao tiếp xã hội tối thiểu - mà điều này thì có thể được coi là sự chân thành và thẳng thắn - và lại phải cộng thêm một ưu điểm nữa: anh không có thói hư tật xấu nào.
Nếu anh đưa cô ra tòa để đòi quyền nuôi chung đứa con này thì thế nào anh cũng thắng kiện. Nếu cô không tìm được những tì vết trong quá khứ của anh thì... có lẽ cô sẽ phải chia sẻ đứa con với anh. Cô linh cảm thấy có những bí mật về anh, đúng như anh đã từng thú nhận, quá khứ của anh có một số điều có thể chống lại anh.
Ý nghĩ đó làm cô thấy không yên tâm. Phải chiến đấu để giành quyền nuôi con tại phòng xử án là điều cô không hề mong muốn. Kế hoạch là chỉ có mình cô nuôi nó thôi. Cô đã tưởng rằng Jon sẽ thở phào nhẹ nhõm khi cô không buộc anh phải có trách nhiệm gì. Nhưng - cũng như nhiều lần trong cuộc đời mình cô lại một lần nữa sai lầm.
Đến giờ đóng cửa phòng tranh, Maryellen đã mệt mỏi rã rời. Bàn chân cô tê nhức, cô thấy mình béo lên và trở nên lóng ngóng vụng về. Bây giờ điều làm cô hào hứng là ăn tối. Cá và khoai tây chiên làm cho cô thấy hấp dẫn. Cô rẽ vào một quán cà-phê nhỏ gần công viên Colchester, quán này bán rất nhiều đồ ăn ngon.
Cô ngồi vào một bàn bên ngoài, trông ra con phố dài, thấy chân trời Seattle ở phía xa xa. Gác chân lên một chiếc ghế băng đối diện, cô đặt hộp đồ ăn bằng bìa các-tông lên bàn và mút các ngón tay, nhấm nháp vị mặn của những lát khoai tây chiên còn nóng. Có một người bước vào, ngay lập tức cô nhận ra là ai và thấy mình lạnh toát cả người. Không, không thể nào. Giờ này lẽ ra Jon đang ở nhà hàng Hải Đăng đi chụp ảnh hoặc làm gì đó ở nhà chứ. Anh ấy có thể ở bất cứ nơi đâu đó trừ chốn này ra.
Jon hình như cũng không kém phần ngạc nhiên khi thấy Maryellen. Anh trèo ra khỏi chiếc xe tải và đứng chôn chân tại chỗ một lúc, trông anh nửa như muốn nhận ra cô, nửa lại không.
“Nếu em nghĩ là anh theo dõi em thì điều đó không đúng đâu”, anh nói với giọng lạnh lùng.
“Em biết”. Cô không cho phép anh làm hỏng bữa ăn của cô. Cô với lấy lọ muối nhỏ trên bàn.
“Chỉ vì muối mà Justine gặp phải tất cả những vấn đề rắc rối vì cơ thể bị giữ nước đấy”, anh nói và cau mày. “Em cũng định dùng muối đấy à?”.
“Em hoàn toàn khỏe mạnh”. Làm sao một người đàn ông lại có thể dạy cô phải làm gì nhỉ. Sự cáu kỉnh trỗi dậy trong cô và nhanh chóng tan biến ngay vì cô nhận ra anh đang quan tâm đến cô.
“Thế còn đứa bé thì sao?”. Anh nhìn xuống bụng cô.
“Con bé vẫn phát triển bình thường”.
“Con bé à?”.
Maryellen gật đầu. “Em vẫn siêu âm định kỳ để theo dõi vì tuổi em cũng không còn trẻ nữa”.
“Em biết từ lâu rồi phải không?”.
“Không... mãi vừa rồi họ mới nói cho em biết”.
“Một đứa con gái ư?”. Anh nói với giọng lo sợ. “Em đã nghĩ tên cho con chưa?”.
“Em đang nghĩ đến cái tên Catherine Grace”.
Khuôn mặt anh đã dịu trở lại. “Mẹ anh tên là Katie. Bà sẽ rất vui nếu biết tin này”.
“Thì anh cứ kể với bác ấy”. Cô không nghĩ là anh sẽ giấu đứa trẻ trong bí mật. Có lẽ sự nhượng bộ nhỏ này từ phía cô có thể làm cho anh tin vào sự trung thực của cô.
“Mẹ anh đã mất từ mười lăm năm nay rồi”.
“Em xin lỗi”. Maryellen cảm thấy ân hận vì điều mình vừa nói.
“Anh muốn con gái của mình”. Jon khẳng định.
“Có lẽ chúng ta có thể tiến tới một thỏa hiệp”. Chuyện này không nằm trong kế hoạch của cô, nhưng cô không muốn lôi chuyện này ra tòa chút nào.
“Như thế nào?”.
“Vào những ngày cuối tuần con có thể ở với anh, như vậy được không?”, cô đề nghị.
Khuôn mặt anh trở nên vô cảm khi nghe đề xuất của cô.
“Em không muốn thay đổi chỗ ở của con, theo kiểu - ngày thì anh trông, đêm thì em trông”. Cô ngập ngừng lý giải. “Em muốn cuộc sống của con được ổn định và tràn ngập tình yêu thương. Xin anh hãy hiểu cho em”.
Anh gật đầu miễn cưỡng. “Thôi được rồi. Nhưng những ngày cuối tuần của anh đôi khi không giống ngày cuối tuần của em, không phải cuối tuần nào anh cũng được nghỉ ở nhà”.
“Chúng ta sẽ tính sau”.
“Vậy thì chúng ta thỏa thuận thế này nhé?”, anh hỏi vì muốn chắc chắn không có hiểu nhầm nào có thể xảy ra. “Con bé sẽ ở với anh hai đêm một tuần”.
“Vâng”.
“Cảm ơn em”... Anh có vẻ nhẹ nhõm và có lẽ xúc động vì sự thỏa hiệp của cô. “Anh muốn làm một người cha tốt”. Anh quay ra xe, lý do vào quán cà-phê này rõ ràng đã bị anh lãng quên mất. “Em thích ăn muối thì cứ ăn đi, nghe không?”.
“Vâng thưa ngài”. Maryellen bắt chước một kiểu chào và mỉm cười. Cô thật ngạc nhiên khi thấy Jon cũng cười lại với cô. Anh nhảy lên xe tải và lái đi. Nhưng ngay khi Jon đi khuất tầm nhìn, Maryellen chợt nhận ra rằng mình đã hiểu nhầm Jon Bowman. Anh đã chân thành muốn chăm sóc quan tâm đến đứa con chưa chào đời của hai người - và cả cô nữa. Qua chuyện này cô chợt nhận ra anh thật tốt bụng và đáng mến. Cô mới là người đối xử tồi tệ với anh. Maryellen thấy mất ngon và đẩy đĩa thức ăn ra xa. Đứa bé đang cựa mình trong bụng cô, có đạp liên hồi như thể nhắc cô nhớ rằng đứa trẻ nào cũng có quyền được có cả bố và mẹ.
“Này con gái Catherine Grace, tất cả rồi sẽ ổn khi con ra đời”, cô lẩm bẩm và xoa tay lên cái bụng bầu, “rồi đâu sẽ vào đấy thôi mà”.
Năm tháng nay, Roy McAfee đã tìm kiếm thông tin về John Doe, người đã chết trong quán trọ của nhà Beldons. Đến nay anh mới biết được rằng chiếc vé máy bay được bán ra từ một thành phố nhỏ thuộc bang Florida. Đây cũng là thành phố nơi “James Whitcomb” sống, theo như số chứng minh giả mạo. Roy đã phải đến đó, chìa ảnh của anh ta cho các nhà chức trách, nhưng rồi anh cũng phải tay trắng trở về.
Đầu mối tiếp theo của anh là các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ ở bang Florida, nhưng chẳng ai nhận diện được hoặc biết gì về người đàn ông này. Một bác sĩ cho rằng có lẽ việc thẩm mỹ đó đã được làm từ hai đến ba mươi năm nay rồi cũng nên, vì kỹ thuật ngày một tiến bộ hơn nên thật khó để xác minh xem việc phẫu thuật đã diễn ra vào thời gian nào. Điều đó nghe cũng có vẻ thú vị đấy, nhưng nó không giúp gì được cho Roy cả.
John Doe đã chết được sáu tháng mà đến giờ vẫn chưa được nhận diện. Đã bao ngày kể từ khi Roy nhận vụ này mà mọi việc vẫn giậm chân tại chỗ, chẳng thể tìm thêm được chi tiết nào. Việc khám nghiệm chất độc không mang lại kết quả gì khiến cho việc vén tấm màn bí mật càng trở nên bế tắc. Do ngân sách hạn hẹp, Troy Davis không dám yêu cầu thêm một xét nghiệm mở rộng nào nữa.
Roy biết quận này không có nhiều tiền - và sự tò mò thì đương nhiên chẳng bao giờ là yếu tố được xem xét để sử dụng ngân sách cho việc khám nghiệm. Không có bằng chứng rõ ràng nên Roy cũng không có gì để mà điều tra. Corrie bước vào văn phòng, trên tay là một tách cà-phê còn nóng nguyên. “Anh đang nghĩ đến thằng chết toi đấy à?”. Bởi vì họ vẫn chưa tìm ra được tên thật của người khách đã chết nên vợ anh vẫn gọi hắn là “thằng chết toi”.
Roy càu nhàu. “Anh sẽ không bỏ qua vụ này đâu”.
“Troy không còn tiền để tiếp tục điều tra vụ này”. Vợ anh nói.
“Em không cần phải nhắc nhở anh điều đó”. Sau khi kết quả cuối chẳng đưa ra được thông tin nào, Davis đã định buông xuôi vụ này. Nhưng Roy vẫn quyết tâm theo đuổi, có biết bao nhiêu vụ khác cần anh dành công sức và tâm huyết, vậy mà vụ này vẫn ám ảnh anh mãi, giống hệt như vụ Dan Sherman mất tích vậy.
“Chúng ta đã tiêu tốn nhiều tiền hơn dự định rồi đấy”.
Roy biết điều đó. Lúc đầu, Corrie không thích anh nhận lời tham gia vụ điều tra. Anh nghĩ rằng cô không muốn anh làm vụ này vì nó đã khiến họ tốn khá nhiều tiền của và công sức.
“Anh cứ nghĩ rằng hắn đến vịnh Cedar vì một lý do đặc biệt”. Roy lẩm nhẩm, trong đầu xoay quanh ý nghĩ đó. Anh không tin rằng đây là chuyến viếng thăm tình cờ. Có một điều nữa làm anh băn khoăn là tại sao hắn ta lại biết quán
Thyme và Tide. Quán trọ ấy không nằm trên trục đường chính. Hắn ta phải đi ra khỏi đường quốc lộ, đi tiếp thêm vài đoạn đường nhánh nữa mới tìm được nó.
John Doe đã hoàn toàn lạc hướng trong cơn bão hay là anh ta đã chủ định chọn nhà của Beldon? Vậy thì tại sao nhỉ?
“Có thể hắn là kẻ đâm thuê chém mướn”. Corrie gợi ý nhưng lại lắc đầu ngay. “Em đã đọc quá nhiều chuyện trinh thám mất rồi”.
Bản thân Roy cũng đã nghĩ đến khả năng đó. “Nếu vậy thì lẽ ra anh ta phải mang theo vũ khí chứ. Đằng này lại chẳng có súng ống gì cả”.
Corrie nhún vai. “Trừ phi nó tự mọc ra cho hắn, mà chuyện đó vẫn xảy ra trên phim đấy”.
“Bọn đâm thuê chém mướn luôn có súng riêng cơ mà”.
Corrie dựa vào cạnh bàn của chồng. “Lần cuối cùng anh nói chuyện với Bob Beldon là khi nào thế?”.
Roy nghĩ một lúc. “Anh nghĩ là cách đây khoảng hai tháng gì đó”. Corrie đúng là đã tặng anh một món quà khi đưa ra gợi ý đó. “Bob thề là anh ta chưa bao giờ gặp người đàn ông này trước đây”. Anh chậm rãi nói.
“Vâng, nhưng em nhớ anh kể cho em nghe, là phản ứng của anh ta hơi khác lạ mà”.
Một điều gì đó gợn lên trong lòng Roy. Anh không nghi ngờ Bob gian dối, anh cũng tin là Bob không định che giấu bất cứ thông tin nào, nhưng thường thì có nhiều người không nhận thức được tầm quan trọng của những gì họ suy nghĩ và chứng kiến. Có lẽ Bob đã cảm nhận được điều gì đó mơ hồ về người khách kia - mơ hồ đên nỗi anh ta không coi là đáng phải kể ra. Có lẽ anh ta đã từng gặp người khách kia trong công việc trước đây mà bây giờ anh ta không thể nhớ ra?
“Anh nghĩ anh phải đến nhà Beldon”. Roy bảo vợ.
Corrie mỉm cười thấu hiểu. “Nếu anh nghĩ đó là một ý kiến hay thì anh cứ đi xem sao”.
Lúc Roy lái xe vào ngõ, Peggy đang làm trong vườn rau thơm. Anh thấy chị đội mũ rơm và đeo một cái giỏ to, vừa cắt tỉa vừa thu hoạch. Anh bước ra khỏi xe và vẫy chào; Peggy cũng vẫy lại anh một cách vui vẻ. Mặc dù đôi vợ chồng này sàn sàn tuổi nhau giống như anh và Corrie nhưng họ có vẻ không thực sự hòa hợp lắm. Anh không biết lý do tại sao nữa.
Roy thấy một chiếc xe khác đỗ trên lối vào nhà nhưng anh không nhận ra. Có lẽ đó là xe của một người khách. Cửa bật mở trước khi Roy kịp bấm chuông. Roy thấy viên mục sư Dave Flemming bước ra sảnh. Dave là mục sư thuộc nhà thờ Hội giáo lý và là một người đáng mến; Roy đã gặp ông ta vài lần. Anh nhớ rằng chính mục sư Dave đã làm lễ ở đám tang nhỏ và riêng tư rủa Dan Sherman. Ông cũng đã gặp Grace đôi lần từ hôm ấy để an ủi chị.
“Chào Ron, anh khỏe không?”, mục sư Dave hỏi, đưa tay ra bắt. “Rất vui được gặp anh”.
“Tôi cũng vậy”.
“Bob này, con được mọi người quý mến lắm đấy”. Dave nói trên đường ra cửa.
Bob mỉm cười. “Vâng, cảm ơn Cha. Chúa phù hộ cho Cha”.
“Anh đến để gặp tôi à?”. Bob quay sang hỏi Roy.
“Nếu anh có vài phút”.
“Được thôi”.
Anh mở rộng cửa và mời Roy vào nhà. “Mục sư Dave định nhờ tôi huấn luyện cho đội bóng rổ của nhà thờ ấy mà”.
“Tôi không biết là anh cũng ham mê thể thao đấy”.
“Nhiều năm rồi tôi có chơi đâu”. Bob nói và dẫn Roy vào bếp. Anh pha cho Roy một cốc trà lạnh có đá nhưng Roy lắc đầu từ chối.
Họ ngồi đối diện với nhau qua bàn. “Rõ ràng Grace đã nói với ông ấy rằng Dan và tôi là những anh hùng thể thao từ kiếp trước”. Bob than phiền.
“Anh và Dan học cùng trường với nhau à?”
Bob gật đầu. “Có thời chúng tôi là bạn thân của nhau. Thực tế là chúng tôi cùng ghi tên vào quân đội trong một chương trình huấn luyện cặp đôi và cùng trải qua khóa đào tạo đó”.
Từ hồi Roy chuyển đến sống ở vịnh Cedar, anh không hề biết rằng hai người đàn ông đó lại thân thiết với nhau như vậy.
“Tôi không nghĩ anh đến đây để hỏi tôi về Dan đúng không?”. Bob nói.
“Đúng. Tôi vẫn đang cố gắng tìm hiểu xem người khách dạo nọ của anh là ai”.
“Anh biết được điều gì à?”. Bob hơi lao người về phía trước.
Roy lắc đầu. “Tôi hiểu anh đã phải kể lại rất nhiều lần từng chi tiết của sự việc xảy ra tối hôm đó”.
“Đúng thế, cả anh và ông Troy đã cùng nghe”. Giọng Bob chán nản.
“Tôi đánh giá cao sự hợp tác của anh”.
Bob gật đầu. “Có gì đâu”.
“Hãy kể lại cho tôi nghe về những cảm nhận của anh với người đàn ông đó”.
“Để tôi nghĩ xem nào”. Bob dựa lưng vào ghế và nhắm mắt lại. “Lúc ấy muộn lắm rồi. Bản tin thời sự đã hết và chương trình Leno được chiếu tiếp. Tôi nhìn thấy ánh đèn pha từ ngoài cửa sổ và hỏi Peggy rằng liệu nhà tôi có thể có khách trọ đã đặt trước rồi không. Cô ấy nói là không, không còn ai đặt nữa”.
“Ngay lúc đầu nhìn thấy anh ta anh đã có suy nghĩ gì?”. Roy hỏi.
Đôi mắt Bob vẫn nhắm nghiền. “Này, anh biết điều gì không? Tôi nghĩ là hình như anh ta quen quen, nhưng thật ngớ ngẩn là tôi hoàn toàn không được nhìn rõ mặt anh ta. Tôi đã quên mất chi tiết đó và sáng hôm sau, khi mọi chuyện xảy ra thì tôi bị choáng luôn”.
“Anh thấy anh ta quen quen à?”. Roy nhấn mạnh. “Theo kiểu gì?”.
Bob nhíu mày. “Tôi không biết nữa. Chẳng có gì rõ ràng cả”.
“Điệu đi của anh ta à? Hay là cách anh ta mang vác đồ?”.
“Có thể thế”.
“Còn gì nữa không?”.
Bob mở bừng mắt và lắc đầu. “Tôi có một cảm giác... rất khó chịu”.
“Khó chịu thế nào?”. Roy tra vấn.
Bob nghĩ một lúc rồi nhún vai. “Đó là một phản ứng bất ổn - rằng gã đàn ông đó có thể mang lại phiền toái cho chúng tôi”.
“Phiền toái à”. Roy nhắc lại.
“Tôi biết là tôi đã đúng khi nhìn thấy anh ta chết vào sáng hôm sau”. Bob thở dài đánh sượt và lắc đầu. “Xin lỗi tôi không giúp gì thêm cho anh được nữa”.
“Có đấy”. Roy nói làm Bob kinh ngạc
“Bằng cách nào?”.
“Tôi bắt đầu nghĩ là anh biết gã đàn ông đó. Tôi muốn anh suy nghĩ thêm về việc đó. Anh cứ suy nghĩ thật kỹ và liên lạc lại với tôi nếu anh nhớ ra điều gì nhé”.
“Anh nghĩ hắn ta đến đây là vì tôi à?”. Giọng Bob nghe như bị sốc.
“Phải, anh Bob, tôi nghĩ như vậy đấy”.
Cuối cùng thì cũng đến ngày Rosie phải ra tòa. Cô đợi ngày này cả sáu tháng nay rồi. Luật sư của cô Sharon Castor đi cùng với cô lên đầu phòng xử án và ngồi xuống.
“Hôm nay thẩm phán sẽ lại là bà Lockhart”. Sharon nói thầm. Có một thẩm phán là nữ làm cho Rosie thấy yên tâm hơn, bởi một người phụ nữ sẽ hiểu tâm trạng của cô hơn là một người đàn ông. Mặc dù Zach luôn phủ nhận nhưng sự thật là anh ta vẫn dan díu với Janice Lamond. Nếu như anh ta trung thực khai ra việc ngoại tình này thì vụ ly dị này có phải là đã chấm dứt từ hàng tháng trước đây không. Cô trách anh ta không chỉ vì sự dối trá này, cô trách anh vì đủ mọi thứ. Tất nhiên anh cũng trách cô. Anh buộc tội cô bới móc linh tinh và ghen tuông vô lý. Cô lại buộc tội anh dối trá. Cứ thế chẳng ai chịu ai cả.
“Thế thì tốt rồi”. Rose thì thầm, ghé đầu vào gần Sharon hơn. “Bà Lockhart này khá công minh đấy, thậm chí là hơi khác thường”. Rosie không muốn nghe điều này. Cô muốn mọi thủ tục phải được giải quyết nhanh chóng và dễ dàng. Sau sáu tháng ròng phải tranh cãi đến từng chi tiết nhỏ, cô đã sẵn sàng để hoàn tất vụ ly dị này. Cô đã sẵn sàng cho một cuộc sống mới và quẳng lại đằng sau tất cả những đắng cay đau khổ.
Zach ngồi vào bàn, bên cạnh anh là luật sư riêng.
Rosie không thèm nhìn mặt Zach nhưng cô cảm thấy ánh mắt anh như đang muốn thiêu cháy cô. Cô ngồi thẳng người lên và không nhìn lại anh. Đôi mắt cô cay xè vì thiếu ngủ. Đầu cô ong lên vì cơn đau đầu tồi tệ nhất trong mười năm qua. Cô thấy mình như đang bị ốm nặng. Tuy nhiên Zach chẳng biết những chuyện này. Cô phải đau đớn đến chết ngất trước khi cho anh ta hiểu rằng chuyện ngoại tình của anh ta đã tác động xấu như thế nào đối với lòng chung thủy và tình yêu của cô. Chuyện ly dị này đã hoàn toàn làm cô bị tổn thương và hủy hoại tình cảm của cô.
Thẩm phán bước vào phòng xử án. Tất cả mọi người trong phòng đều đứng lên và sau đó lại ngồi xuống.
“Kính chào bà Thẩm phán”. Luật sư Sharon Castor nói và đứng dậy. “Chào bà”, thẩm phán Lockhart giở lướt qua những trang tóm tắt và xem xét chi tiết hồ sơ. “Tôi thấy bà đã đạt được thỏa thuận về quyền cấp dưỡng cho người vợ”.
“Vâng đúng vậy thưa Thẩm phán”.
“Tôi vừa đọc qua bản kế hoạch nuôi con”.
Rosie thấy nghẹt thở. Cô đã kiên trì chịu đựng ở mức tối đa về vấn đề cùng nuôi con này. Cô thật sự không đồng tình với cách giải quyết đó. Trong thời gian Janice và Chris ở với Zach, cô cho rằng anh đang biến mẹ con họ thành một phần cuộc đời anh và đồng thời biến họ thành một phần đời của các con cô. Vì thế nên cô phải chiến đấu với anh đến cùng. Cuộc tranh đấu của họ thật sự ngày càng xấu đi và đầy thù hằn hơn. Rosie lấy làm tiếc vì những lời họ đã nói và những việc họ đã làm, nhưng trong cơn giận sôi người, những lời ác ý vẫn tuôn ra khỏi miệng cô. Chính cô cũng không ngờ rằng mình lại có thể xử sự như thế cũng như không ngờ Zach có thể đối xử với cô một cách khinh bỉ đến vậy. “Có vẻ như là bản thỏa thuận cùng nuôi con đã được đồng ý”.
“Vâng thưa Thẩm phán”.
Thẩm phán Lockhart nhìn vào tài liệu. “Trong này có nói là hai đứa trẻ, một chín tuổi và một mười lăm tuổi, sẽ sống với bố của chúng vào ba ngày trong tuần đầu tiên và tuần thứ ba và bốn ngày trong tuần thứ hai và tuần thứ tư mỗi tháng. Có đúng vậy không?”.
“Vâng, thưa Thẩm phán”.
“Thế nghĩa là cứ ba hay bốn ngày thì chúng lại phải gói ghém đồ đạc và chuyển từ nhà chúng sang căn hộ của bố chúng và ngược lại. Việc di chuyển như thế liệu có là quá nhiều đối với những đứa trẻ này không?”. Thẩm phán Lockhart nhíu mày hỏi.
“Thưa Thẩm phán”, luật sư của Zach đứng dậy. “Việc chia sẻ quyền nuôi con rất quan trọng đối với thân chủ của tôi”.
“Tôi không bàn gì đến động cơ cũng như khái niệm cùng nuôi con họ”. Thẩm phán Lockhart nói, “nhưng theo lôgic tư duy của tôi, thì người cần ổn định không phải là bố mẹ bọn trẻ, mà chính chúng mới cần điều đó”.
“Thân chủ của tôi rất tán thành ý kiến của bà”. Otto Benson nói, và Zach gật đầu.
“Luật sư Castor, thân chủ của bà có đồng ý với ý kiến đó không?”.
Sharon nhìn sang Rosie lúc này đã đứng lên. Cô nói trực tiếp luôn với Thẩm phán. “Tôi muốn điều tốt nhất cho các con tôi”.
Thẩm phán Lockhart nhìn cả Zach và Rosie. “Địa chỉ gia đình là ở số 311 đường Pelican phải không? Ông bà ở đây được bao lâu rồi?”.
“Ba năm thưa Thẩm phán”.
“Ông bà có định giữ lại căn nhà không?”.
“Có, thưa Thẩm phán”. Sharon chen ngang vào trả lời thay cho Rosie.
Thẩm phán đặt giấy tờ sang bên và thở dài nặng nề. “Chuyện là thế đấy. Tôi sẽ phân tích như thế này. Ông bà đều nói rằng mối quan tâm chính của mình là hai đứa con. Đó là điều tôi nhận thấy và cũng rất mong muốn. Ông bà đều kiên quyết muốn gắn bó với chúng và tôi thấy điều đó rất đáng khen ngợi. Tôi đồng ý chấp nhận tất cả các điều kiện và điều khoản được đệ trình lên tòa án trừ một điều: cùng nuôi con”.
“Thưa Thẩm phán!”. Zach bật đứng dậy.
“Hãy nghe tôi nói hết đã, ông Cox”. Thẩm phán ra lệnh cho Zach ngồi xuống.
Rosie khoanh tay vẻ hài lòng, thầm mong người Thẩm phán sáng suốt có thể nhìn thấu tâm can chồng cô.
“Như tôi đã nói lúc trước, quan trọng là bọn trẻ phải có một căn nhà ổn định. Hai ông bà - chứ không phải là bọn trẻ - là người quyết định chấm dứt cuộc hôn nhân này. Chính vì vậy, bọn trẻ mới là những người được ở lại ngôi nhà ấy, và hai ông bà sẽ phải vài ngày một lần chuyển đi chuyển lại”.
“Nhưng thưa Thẩm phán...”.
“Đây là phán quyết của tôi. Hoặc là chấp nhận hoặc là hoãn vụ ly hôn này”. Rosie lo sợ nhìn Zach. Họ đã tranh luận với nhau đến từng chi tiết nhỏ vậy mà bây giờ phải tuân theo cái phán quyết quái gở này ư?
“Ông bà đã quyết định được chưa?”. Thẩm phán hỏi.
Zach và luật sư thầm thì với nhau. Rất nhanh sau đó Otto đứng dậy. “Thưa Thẩm phán, thân chủ của tôi đồng ý”.
Sharon liếc nhìn Rosie và cô cũng gật đầu. “Thân chủ của tôi cũng đồng ý”.
“Rất tốt”. Thẩm phán Lockhart nói. “Cuộc hôn nhân của ông bà đã được hủy bỏ. Tôi hy vọng ông bà sẽ thực hiện đúng những gì đã được phán quyết, vì lợi ích của các con”.
Rosie cũng hy vọng như vậy.
“Con hãy gọi cho nó đi”, bà Charlotte giục Olivia. “Nó đang rất đau khổ và mẹ thấy con cũng vậy đấy”.
“Không mẹ ạ”. Olivia bỏ tách trà xuống. “Lần này thì không”. Chị vẫn rất giận Jack nên sẽ không bao giờ gọi lại cho anh. Nếu như anh dễ dàng bỏ chị như thế, thì thà chị xa anh còn tốt hơn. Nhưng chị vẫn hỏi mẹ. “Làm sao mẹ biết anh ấy đau khổ?”.
Charlotte bỏ chiếc áo đan dở sang bên và với lấy ấm trà ở giữa bàn. Bà rót đầy tách của bà rồi chuyển sang rót cho Olivia. “Tuần nào mẹ rẽ qua tòa báo nó cũng đều hỏi thăm con”.
Nghe có vẻ cảm động đấy. Nhưng Olivia không nhìn thấy một hành động rõ rệt nào của sự quan tâm từ phía Jack. Nếu Jack thật sự quan tâm đến chị như anh vẫn nói thì lẽ ra anh đã phải chủ động gọi lại và đấu tranh để giành lại chị rồi.
Có tiếng chuông điện thoại, Olivia lơ đãng nhấc máy lên. “Alô”.
“Con là Seth đây ạ”. Con rể cô nói giọng hơi khác. “Justine bị vỡ ối rồi, cô ấy sắp vượt cạn mẹ ạ. Chúng con đang chuẩn bị đến bệnh viện”.
“Nhưng vẫn chưa đến ngày nó sinh cơ mà”. Olivia kêu lên. Sớm mất ba tuần rưỡi, mà như thế thì không tốt cho cả Justine và đứa bé.
“Có ai nói với đứa bé như thế đâu hả mẹ”.
Giọng Seth có vẻ hoang mang. “Mẹ đến ngay bây giờ đây”, Olivia quả quyết. “Mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi. Trẻ con sinh sớm cũng là chuyện bình thường ấy mà”.
“Vâng con biết rồi. Con chỉ thấy bất ngờ thôi. Mẹ gọi bố Stan cho con được không?”
“Tất nhiên rồi. Cứ thở sâu và mẹ sẽ gặp con ở bệnh viện nhé”. Sau khi Seth cúp máy, Olivia bấm số của Stan và được nối máy ngay. “Stan Lockhart nghe đây”.
“Xin chào ông ngoại”, Olivia mừng quýnh lên với niềm vui khôn xiết. “Justine đau đẻ rồi và đang trên đường đến bệnh viện. Anh có muốn đến đó cùng mọi người không?”.
Stan cười lớn, nghe giọng anh rất mừng và đầy xúc động. “Anh không bao giờ để lỡ cơ hội này. Bà ngoại này, nói với con là anh sẽ đến đó trong ít phút nữa”.
“Không cần vội đâu con ạ”, mẹ Olivia bảo khi thấy Olivia vội vã cắm sạc pin cho điện thoại di động. “Những chuyện như thế này cũng phải mất thời gian đấy”.
Ở tuổi này, Olivia cũng có thừa kinh nghiệm về chuyện sinh nở, nhưng chị vẫn lo lắng khi nghe tin con gái mình vượt cạn. Một đứa trẻ sắp được sinh ra trong gia đình chị, và chị cảm thấy vui mừng khôn xiết đến nỗi chị không thể ngồi một chỗ mà buộc phải đi đi lại lại khắp nhà.
“Thôi con đi đi”. Mấy phút sau bà Charlotte giục. “Mẹ ở nhà trông nom mọi thứ cho. Lát nữa nhớ gọi cho mẹ nhé”.
“Con cảm ơn mẹ”. Olivia hôn lên má mẹ, vớ lấy chiếc ví và chìa khóa xe ôtô rồi lao ra cửa.
Chị đã ngồi trong phòng chờ gần một tiếng đồng hồ. Thỉnh thoảng Seth lại đi ra đi vào để báo tin; cho đến lúc này thì mọi thứ vẫn đang theo chiều hướng tốt đẹp. Hai tiếng sau Stan cũng tới, sắc mặt anh có vẻ mệt mỏi. Họ ngồi uống càphê và tán gẫu với nhau.
“Em có nhớ cái đêm em sinh thằng James không?”.
“Em nghĩ em không bao giờ quên được đêm đó”. Chị thoáng rùng mình. “Chúng ta vừa kịp tới bệnh viện”.
Cả hai cười vang, mải theo đuổi những kỷ niệm của những năm đầu chung sống.
“Anh có nhớ đêm Nô-en anh lắp cho Jordan cái xe đạp không?”, chị hỏi.
“Đừng có nhắc anh”. Stan lầm bầm, “theo như anh nhớ thì những hướng dẫn đó là bằng tiếng Nhật. Và em còn nói là lắp một cái xe đạp thì không thể nào lại phức tạp và khó khăn đến thế được”.
“Lỗi của em mà”.
“Còn cái lúc mà em dạy cái Justine cách nướng bánh nữa chứ, em nhớ không?”.
Olivia rơm rớm nước mắt nhớ lại kỷ niệm ấy. Justine đã cố gắng tỏ ra nhiệt tình nên đã xách một túi bột mì nặng gần năm kilôgram. Rồi cô bé đánh rơi xuống sàn nhà làm tung tóe hết cả. Nhiều năm sau đó, Olivia vẫn còn thấy dấu tích của bột mi ở khắp nhà bếp - dưới bồn rửa, sau tủ lạnh và phía sau cả những cái ngăn kéo nữa.
Nhiều giờ sau đó họ cứ mải mê theo đuổi những kỷ niệm và cùng nhau cười vui vẻ.
Gần chín giờ, Seth xuất hiện với nụ cười tươi tắn nhất mà Olivia chưa thấy bao giờ. Chị sực nhớ ra lý do mình đến bệnh viện và nhảy phắt ra chỗ con rể, đợi chờ tin vui...
“Bọn con có một đứa con trai rồi”. Seth thông báo. “Leif Jordan Gunderson đã chào đời. Nó là một thằng bé to khỏe bất chấp sinh thiếu tháng. Nặng hai cân bảy. Bác sĩ nói nó bị đẻ non một chút nhưng phổi thì bình thường”.
Olivia bật khóc vì tin mừng.
Lúc về đến nhà, tuy rất vui nhưng Olivia thấy mệt lử. Charlotte đã để lại một tờ giấy nhắn trên bàn trong phòng bếp.
Con hãy nghĩ về những điều mẹ nói.
Jack rất nhớ con đấy.
Con gọi cho cậu ấy đi. Mẹ.
Jack ư? Từ lúc ra khỏi nhà để đến bệnh viện Olivia chẳng hề nghĩ đến anh nữa. Thực ra thì chị đã có một khoảng thời gian tuyệt vời khi sống lại những kỷ niệm cũ cùng với Stan. Bỗng nhiên chị không biết mình thật sự cần cái gì nữa. Chị lại thấy phải nghĩ thêm về mọi chuyện. Nếu chồng cũ muốn quay lại thì có lẽ chị cũng nên cho phép anh ấy làm như vậy. Chị sẽ cân nhắc tất cả những lựa chọn mà mình có thể có. Có lẽ chuyện của chị và Stan vẫn chưa phải là quá muộn...
Olivia chuẩn bị lên giường đi ngủ. Chị vẫn nghĩ về vụ ly dị của mình. Và về cả đôi vợ chồng chị gặp ở phòng xử án sáng nay. Quyết định của chị khi bắt họ phải ưu tiên con cái lên hàng đầu là một quyết định táo bạo. Các con họ sẽ ở tại nhà, và bố mẹ chúng sẽ chuyển đi chuyển về. Những người sống ở số nhà 311 phố Pelican Court sẽ phải điều chỉnh nhiều. Và vì lợi ích của bọn trẻ con họ, chị thật lòng hi vọng họ sẽ thực hiện đúng như nhũng gì chị đã phán quyết. Còn về bản thân chị thì... Olivia sẽ chờ xem sao. Chị sẽ xem mọi chuyện ở số nhà 311 phố Pelican Court diễn biến ra sao - và chị cũng sẽ theo sát cả những sự kiện diễn ra ở số nhà 204 ngõ Rosewood nữa. Chỉ sẽ xem Grace liệu có lấy lại được niềm tin và cân bằng về mặt tình cảm hay không.
Còn với hai người đàn ông trong cuộc đời chị, ai có thể nói trước được điều gì sẽ xảy ra với họ, với chị - và với mọi chuyện có thể sẽ xảy ra ở số nhà 16 đường Lighthouse?

Hết Tập 2


Xem Tiếp: ----