Có anh trong đời
Chương 14

     hững đám mây u ám nặng nề bao phủ bầu trời buổi sáng tháng mười hai ở vịnh Cedar. Peggy Beldon đi xuống gác. Nhìn qua cửa số chị thấy nước vịnh sẫm lại một màu u tối. Những con sóng bạc đầu không ngừng dồn lên, rồi lặng lẽ liếm vào bãi cát buồn thảm chạy dọc theo bờ vịnh.
Chị không ngạc nhiên khi thấy Bob đã thức giấc. Có lẽ anh đã thức dậy trước cả tiếng đồng hồ rồi. Kể từ hôm nói chuyện với cha xứ Flemming ở sân gôn, anh đã hầu như không thể ngủ ngon giấc. Khi chị hỏi anh về câu chuyện hôm đó, Bob luôn gạt đi. Chị ép anh cho đến khi có được câu trả lời, nhưng nó cũng không khiến chị thỏa mãn.
Cuộc hôn nhân của họ không còn hạnh phúc như trước kể từ khi Bob từ Việt Nam trở về. Họ cưới nhau một thời gian ngắn ngay sau khi anh ra khỏi quân đội, nhưng cũng thời gian đó anh bắt đầu uống rượu. Ban đầu chỉ là vài vại bia với bạn sau khi hết giờ làm. Peggy cũng không bực bội về chuyện đó. Sao đó Hollie ra đời, hai năm sau lại đến Marc, Peggy quá bận rộn với thiên chức của người mẹ, chị đã xao lãng, không có thời gian để ý đến chồng mình. Chẳng bao lâu sau, anh say sưa tối ngày với bạn bè ngoài quán, thậm chí anh còn đưa những người bạn nhậu về nhà. Chị và Bob đã cãi vã nhau liên miên và chị gần như rơi vào tuyệt vọng.
Vào một buổi chiều mùa hè, khi Bob nhận được giấy phạt vì lái xe trong tình trạng say xỉn, chị mới nhận ra rằng vấn đề không chỉ dừng lại ở vài vại bia với bạn bè mà đã trở nên rất nghiêm trọng. Nó đã có ảnh hưởng xấu tới cuộc hôn nhân, cuộc sống của họ. Mặc cho chị khóc hết nước mắt và van xin, Bob vẫn không chịu nhận ra sai lầm của mình.
Peggy phải biết ơn một người bạn đã khuyên chị nên tham gia buổi gặp mặt của Hội Những người cai rượu. Nếu không có sự động viên khuyến khích của những người có vợ hoặc chồng nghiện rượu của Hội thì chị không biết bây giờ mình sẽ như thế nào. Và cuộc đời chị đã hoàn toàn thay đổi. Chị đã biết dừng lại, không còn bảo vệ Bob khỏi những hậu quả do việc nghiện ngập đem lại.
Nếu anh lái xe trong lúc say rượu, chị gọi cho cảnh sát; nếu anh lái say xỉn ngã dưới sàn nhà không đúng lên nổi, chị cũng để mặc anh. Việc say xỉn là do Bob tự gây ra, anh phải hứng chịu nó, chị không biến nó thành việc của mình nữa; chị đã không quan tâm đến anh, vì chính anh đã chọn rượu để che giấu đi nỗi phiền muộn của mình.
Thật may mắn, sau ba lần liên tiếp bị mất hợp đồng đấu thầu hàn chì, rồi bảo hiểm xe không được chi trả do nguyên nhân hư hại là từ những cơn say của Bob... Những điều này không những khiến Bob phải ra hầu Tòa vì những va chạm gây ra do hậu quả của việc say xỉn, mà còn đe dọa nghiêm trọng nghiêm trọng đến nguồn thu nhập trong gia đình. Họ gần như khánh kiệt. Lúc đó, Bob mới tỉnh ngộ. Anh bắt đầu tham dự buổi gặp mặt của Hội Những người cai rượu, và ơn Chúa kể từ đó anh không động đến một giọt rượu nào nữa.
Ba tuần sau khi cai dược rượu, Bob đã kể cho chị nghe tất cả những việc xả ra khi anh còn ở Việt Nam. Anh đã khóc. Đó là những giọt nước mắt của sự ân hận, tội lỗi và tự thú. Peggy đã ôm anh và khóc cùng anh. Peggy không bao giờ quên được ngày hôm ấy - cái ngày Bob đã tâm sự với chị những day dứt, ám ảnh, dằn vặt của quá khứ mà anh phải chịu đựng bấy lâu nay. Đó là ngày đánh dấu bước ngoặt mới đầy triển vọng cho cuộc hôn nhân và cuộc sống của họ. Đó là ngày đánh dấu bước ngoặt mới đầy triển vọng cho cuộc hôn nhân và cả cuộc sống của họ. Đó là ngày đánh dấu bước ngoặt mới đầy triển vọng cho cuộc hôn nhân và cả cuộc sống của họ. Đó là ngày mà chị biết Bob chắc chắn có đủ nghị lực để cai rượu. Và ngày đó đã xảy ra cách đây hai mươi năm, vào tháng giêng năm 1983. Kể từ đó, anh đã giúp đỡ rất nhiều những người nghiện rượu khác thông qua các chương trình của Hội và cho đến nay Peggy vẫn tiếp tục tham gia Hội Những người cai rượu.
Khi Peggy vào bếp, Bob mỉm cười với chị. Trên tay anh là cuốn sách của Hội Những người cai rượu, trên tay kia là một tách cà- phê.
“Anh dậy lâu chưa?”, chị hỏi. Khi nhận thấy anh đã thay quần áo và cạo râu, Peggy biết rằng anh đã dậy được một lúc khá lâu.
“Cũng được vài giờ rồi. Sáng nay anh có hẹn với Roy. Em có muốn đi cùng anh không?”.
Mặc dù anh nói với một vẻ hết sức tình cờ, nhưng Peggy hiểu rõ rằng Bob muốn mình đi cùng. Suốt mấy ngày nay anh đã rất hồi hộp, nhất là kể từ khi Troy Davis ghé qua nhà.
Cảnh sát trưởng đã hỏi Bob một vài câu hỏi liên quan đến John Doe, người đã chết trong phòng nghỉ của họ. Theo như Peggy biết, đó vẫn là những câu Troy đã hỏi khi thi thể John mới được phát hiện. Troy không ở lại lâu, nhưng sau đó Bob cứ đi đi lại trong nhà hàng giờ đồng hồ. Nếu anh không ngồi xuống, chắc Peggy sẽ phát điên mất.
“Chắc chắn em sẽ đi cùng anh rồi”, chị nói với và rót cho mình một ly cà phê.
Bình cà-phê đã gần cạn và chị pha một bình mới. Lúc này họ không có khách, nhưng cà- phê với họ thì không bao giờ thừa.
“Có vẻ như trời sẽ có tuyết”, chồng chị nói và nhìn ra ngoài cửa sổ.
Peggy ngồi đối diện với Bob, chị với lấy chiếc điều khiển tivi. Họ để một chiếc tivi nhỏ trong bếp, chị thường xem bản tin buổi sáng của đài địa phương Seattle tại đó. Cả tuần nay người ta đã dự báo là sẽ có tuyết. Nhưng cho đến thời điểm này thì trời mới bắt đầu có dấu hiệu là tuyết sẽ rơi.
Tuyết ở vùng Puget Sound không phải hiện tượng phổ biến. Không như mọi người vẫn nghĩ, Seattle và những khu vực xa trung tâm có khí hậu khá ôn hòa.
Theo như những ghi chép còn lưu giữ thì nhiệt độ ở đây chưa bao giờ lên quá độ vào mùa hè và xuống dưới âm 17 độ vào mùa đông.
“Em hy vọng là sẽ có tuyết”, Peggy nói và nghĩ đến việc bọn trẻ sẽ thích thú đến mức nào. Bản thân chị cũng rất thích tuyết. Những ngọn đèn Giáng sinh đã được treo lên ngoài hiên, vòng hoa trên cửa, và gia đình nhà hươu bừng sáng bởi muôn vàn ánh đèn nhấp nháy, chúng đứng ngay giữa sân trước nhà. Chỉ thiếu tuyết nữa thôi thì sẽ tạo thành một bức tranh Giáng sinh hoàn hảo.
Bob gấp cuốn sách lại và ngáp lớn.
“Anh dậy lúc mấy giờ?”, chị hỏi lại.
Anh nhún vai. “Sớm đấy”.
“Hai giờ hay ba giờ?”.
“Khoảng ba giờ”, anh đáp lại, không nhìn vào vợ mà giả bộ chăm chú vào màn hình tivi.
Peggy nghĩ rằng chồng mình còn dậy sớm hơn thế. Bob không thể gạt ra khỏi đầu suy nghĩ rằng anh có quen biết người đàn ông đã chết đó. Anh chàng Joh Doe ấy mới trải qua khá nhiều cuộc phẫu thuật thẩm mỹ, điều này khiến cho quá trình nhận dạng càng thêm phức tạp. Có lúc, người ta đã đưa ra giả thuyết rằng đó có thể là Dan Sherman, nhưng rồi giả thuyết đó lập tức bị gạt bỏ, vì thi thể Đan đã được tìm thấy sau đó vài tuần. Thật khó có thể tưởng tượng được là lại có một vụ chết chóc bí hiểm đến thế xảy ra ở một thị trấn thân thiện, và vắng vẻ như thế này.
“Anh hẹn Roy lúc mấy giờ?”. Peggy hỏi.
“Mười giờ”.
“Em sẽ xong ngay đây”, chị nói với anh.
Vài giờ sau, Bob và Peggy đã có mặt tại văn phòng của Roy McAfee. Nó ở rất gần với phòng tranh trên phố Habour. Corrie, vợ Roy, đồng thời cũng là thư ký cho anh. Roy là một người thẳng thắn, và nghiêm túc trong công việc, anh giống thám tủ Friday - người luôn đi tìm kiếm sự thật. Điểm tương đồng giữa Roy và Joe Friday của chương trình Truy tìm tội phạm trên tivi khiến Peggy yên tâm. Anh rất biết giữ khoảng cách. Anh luôn thực hiện vai trò là một người quan sát, và không cho phép tình cảm xen vào công việc. Corrie thì ngược lại, chị rất thân mật và nồng hậu. Mặc dù làm việc cho chồng, nhưng chị vẫn có vẻ là tuýp người phụ nữ thích nội trợ và chăm lo các công việc gia đình. Peggy cho rằng đó chính là lý do khiến chị có cảm tình với Corrie. Họ rất giống nhau ở điểm này.
Khi họ ngồi đợi ở phòng lễ tân, Peggy lại nhắc đến một chủ đề đã cũ trong cuốn Hạt giống tâm hồn, Bob thì cứ liên hồi di chân xuống đất. Chị đã làm tất cả những gì có thể, nhưng vẫn không thể nào khiến Bob ngừng hành động đó lại.
“Anh Roy mời anh vào”. Corrie thông báo và cửa mở cho Bob vào.
Peggy nhìn chồng tự hỏi không biết anh ấy có muốn mình cùng vào hay không.
“Không phải lúc này”. Bob lắc đầu. “Anh nghĩ nếu em không phiền anh sẽ nói chuyện riêng với Roy”.
Chị để ý sắc mặt anh không được tốt lắm. “Tất nhiên rồi. Em sẽ làm theo ý của anh”.
Bob đi vào phòng và đóng cửa. Peggy nhìn theo anh lo lắng. Chị không biết anh sẽ hỏi Roy điều gì, hay liệu anh có đủ can đảm kể hết những suy nghĩ của mình với Roy không?
Bây giờ đến lượt Peggy đi đi lại lại.
“Tôi luôn quan tâm đến vườn rau thơm nhà chị”, Corrie ngồi bàn sau nói vọng ra. “Chị đã bắt đầu trồng rau như thế nào?”.
Peggy khoanh tay và nhìn ra ngoài cửa sổ văn phòng. Từ đây chị có thể nhìn thấy phố Habour. “Thực ra là hoàn toàn tình cờ. Cách đây nhiều năm chúng tôi đã mua một căn nhà có rất nhiều bụi cây hương thảo. Đây lại là loại cây có mùi mà tôi rất thích. Tôi cắt tỉa thường xuyên tới nỗi chẳng mấy chốc tôi lại mua thêm cây thứ hai, rồi cây thứ ba. Trước đó, tôi đã mua cây nguyệt quế, cây xô thơm, và cây húng quế. Tôi nhận thấy rằng mình có sở thích trồng rau thơm. Khi chúng tôi quyết định quay về vịnh Cedar...”.
“Ồ, vậy là trước đây vợ chồng chị đã sống ở đây?”.
Peggy gật đầu. “Cả tôi và Bob đều tốt nghiệp trường trung học vịnh Cedar. Bob tốt nghiệp khóa năm l966 còn tôi thì tốt nghiệp sau đó hai năm”.
“Hai vợ chồng chị cũng gần bằng tuổi nhau giống vợ chồng tôi”, Corrie nói. “Tôi bốn mươi bảy tuổi còn Roy là năm mươi mốt”.
“Chị có trồng rau thơm không?”.
Corrie lắc đầu. “Không, nhưng tôi rất muốn. Chị có lời khuyên nào dành cho tôi về việc trồng rau thơm không?”.
Peggy nhận ra rằng Corrie đang cố gắng khiến chị xao nhãng việc Roy và Bob đang nói chuyện với nhau ở trong phòng, nhưng điều này không làm chị thấy phiền lòng. Người phụ nữ này dường như thực sự quan tâm đến việc trồng rau thơm. “Lúc nào có thời gian rảnh chị cứ ghé qua”, Peggy mời. “Tôi sẽ tặng chị vài cây để trồng thử vào mùa xuân này”.
“Vậy thì còn gì bằng nữa”, Corrie nói với chị.
“Bob đã trồng cây nam việt quất”. Nói về chuyện trồng cây, Peggy không thể dừng lại được. “Chúng tôi có một mảnh vườn nhỏ ở phía bên hông nhà trồng nam việt quất. Nó tốn rất nhiều nước và phải khó khăn lắm chúng tôi mới giữ chúng khỏi sự phá hoại của bọn hươu nai thích ăn lá”.
Họ đã nói chuyện như vậy ít nhất phải hai mươi phút về các công thức nấu ăn, đặc biệt những món từ quả việt quất Peggy đột ngột dừng lại khi cửa được mở và Roy thò đầu ra.
“Peggy, cô vào đây với chúng tôi một chút nhé?”.
Peggy gật đầu, hai chân chị run run khi bước vào phòng. Ngồi xuống chiếc ghế còn trống bên cạnh chồng, chị nắm lấy tay Bob. Những ngón tay anh đan chặt vào tay chị.
“Anh đã nói với Roy những gì xảy ra ở Việt Nam”. Giọng Bob trầm lại, đầy cảm xúc. “Anh đã kể rằng nhóm anh có bốn người, tất cả đều chưa đầy hai lăm tuổi. Bọn anh đã thỏa thuận không bao giờ nói về chuyện đã xảy ra trong chiến tranh. Anh không biết liệu John Doe có liên quan gì đến việc này không, nên anh muốn nhờ Roy tìm hiểu”.
Vào một đêm cách đây hai mươi năm, khi Bob kể lại cho Peggy cái ngày khủng khiếp trong một khu rừng ở Việt Nam, anh đã thề không bao giờ nhắc lại. Anh cũng chỉ kể cho chị nghe có một lần. Gánh nặng phải giữ bí mật đã gần như tàn phá anh và cuộc hôn nhân của anh.
“Dan Sherman khi đó cũng ở cùng nhớm với bọn anh”.
“Dan à?”. Peggy há hốc miệng vì kinh ngạc. Anh chưa bao giờ kể với chị rằng anh bạn thời phổ thông cũng có mặt cùng anh trong trận chiến kinh khủng đó.
Peggy chuyển sự chú ý sang Roy. “Ông có nghĩ những gì xảy ra ở Việt Nam có liên quan đến người đàn ông chết tại nhà chúng tôi không?”.
Roy vươn người ra phía trước và nói rất nghiêm túc. “Tôi chưa thể nói gì được, nhưng chắc chắn tôi sẽ tìm ra câu trả lời”.
Không khí lễ Giáng sinh ở đại sảnh tại trụ sở tòa án hạt Kitsap như đang lan tỏa trên từng gương mặt của từng người. Olivia nhìn ra ngoài cửa sổ văn phòng xử án của mình cảm thấy hân hoan khi thấy tuyết rơi. Tuyết vào tháng mười hai luôn khiến Olivia có những cảm xúc thật khó tả. Nó khiến chị muốn chạy ngay về nhà để nướng món gừng và nố bỏng ngô. Thế mà chị vân phải ngồi đây để nghe luật sư trình bày và chờ đợi phán quyết của mình.
Sau khi uống trà, chị miễn cưỡng quay lại phòng xử án. Chấp hành viên tòa án thông báo thẩm phán đã quay lại. Đám đông miễn cưỡng đứng lên khi chị ngồi vào chỗ của mình sau hàng ghế.
Luật sư bào chữa bước lên phía trước. Olivia ngẩng lên và chị ngạc nhiên khi nhìn thấy Jack Griffin ngồi phía xa, giấy bút sẵn trong tay. Anh chuẩn bị ghi chép và chị thì chưa nghe được vụ nào. Hoặc anh đến tòa án vì có việc gì liên quan đến pháp luật, hoặc anh cố ý đến để chọc tức chị. Chị thấy tim mình đập thình thịch trong lồng ngực.
Olivia không biết lý do gì đã đưa anh đến đây. Tuy nhiên chỉ một vài phút sau khi vụ án bắt đầu thì anh đi ra khỏi phòng xử. Olivia rất thất vọng, mấy tuần gần đây họ hầu nhu không gặp nhau. Anh quá bận công việc và chị cũng vậy.
Sau những gì đã xảy ra, cho dù cả hai có cố gắng đến đâu mối quan hệ của họ cũng không được như thời gian đây nữa. Quái quỷ thật, chị nhớ Jack, nhớ đến khắc khoải. Chị nhớ những lúc hai người vui vẻ bên nhau, nhớ những câu trêu chọc hóm hỉnh, nhớ những nụ hôn mê hoặc của anh. Một phụ nữ ở độ tuổi như chị lẽ ra không nên nghĩ đến những điều đó, nhất là trong khi đang ngồi xử án, nhưng chị không kìm nén được những cảm xúc của mình.
Chị muốn lại có anh trong cuộc đời, chị mong mối quan hệ của họ tốt đẹp như thời gian trước. Chị không biết ai là người có lỗi, chị hay Jack. Một năm trước tuần nào họ cũng ăn tối với nhau ít nhất hai lần, và Jack đều đặn đến nhà chị vào mỗi tối thứ ba, họ cùng xem chương trình tội phạm trên kênh Disney.
Đã hàng tháng nay chị chưa gặp anh vào tối thứ ba nào cả.
Tất cả quãng thời gian tươi đẹp đó, như Olivia nhớ, là từ trước khi con trai anh dọn đến ở cùng. Sự có mặt của Eric đã khiến thế giới của Jack đảo lộn, nhưng vì thấy Jack cần dành nhiều thời gian cho con nên Olivia đã lùi lại. Chị không thích điều này, nhưng chị không còn sự lựa chọn nào khác.
Bây giờ Eric đã lập gia đình và đã là cha của hai đứa trẻ sinh đôi. Chính chị đã trở thành chủ hôn cho lễ cưới của Eric. Mùa hè năm ngoái, Eric, Shelly và bọn trẻ đã chuyển đến Reno, Nevada.
Tưởng như mọi việc đã trở lại đúng guồng quay thì Stan xuất hiện. Olivia phải công nhận rằng chồng cũ của mình rất kiên trì. Anh ta gọi điện cho chị nhiều hơn Jack đến mười lần. Olivia có thể hẹn hò với Stan, nhưng chị đã không làm vậy.
Thật ra, lúc đầu Olivia cũng có ý định đó. Chị thấy dễ chịu và thỏa mãn khi người chồng cũ thú nhận rằng chia tay với chị là một sai lầm lớn. Có một giai đoạn ngắn cái tôi trong chị được vỗ về và để tình cảm của mình bị lung lay.
Thật may là lại quay về được với thực tại bằng chính những nhận do trái tim mách bảo.
Olivia hiểu chồng cũ của mình. Stan cần một đàn bà và anh ta không ngại khó khăn để đạt được những gì mình muốn. Nhưng vấn đề ở chỗ, anh ta coi chị là một thử thách để chinh phục. Từ trước đến nay, bất cứ người phụ nữ nào Stan muốn là gục ngã trước anh. Stan Lockhart không phải là một người thật sự xuất sắc và có sức quyến rũ lớn đối với phụ nhưng nhưng anh ta rất hài hước và có chỉ số IQ cao. Thật đáng tiếc là chỉ số IQ trong tình cảm của anh ta lại hơi thấp.
Thời gian cuối chiều trôi qua thật nhanh. Hôm nay, Olivia toàn phải giải quyết những vụ có quan đến việc ly hôn. Những vụ ly hôn nối tiếp nhau khiến đầu óc chị trở nên mụ mị. Cho tới khi đến giờ nghỉ, Olivia cảm thấy mình đã rất sẵn sàng về nhà và nghiên cứu công thức cho món bánh gừng Olivia kiểm tra tin nhắn trong điện thoại trong khi cởi bỏ chiếc áo thẩm phán. Có một tin nhắn của Stan - không có gì đáng ngạc nhiên - và một tin nhắn từ con gái chị. Justine bây giờ đã ở nhà chăm sóc con nhưng cô vẫn điều hành công việc tài chính ở nhà hàng. Cô phụ trách việc chi trả các hóa đơn và phát lương cho nhân viên. Nhưng với những vấn đề phức tạp liên quan đến thuế thì Justine đã rất thông minh nhờ một nhân viên kế toán rất có năng lực có tên là Zachary Cox đảm nhiệm.
Olivia gọi lại cho Stan và Justine. Chị từ chối lời mời ăn tối của Stan trong cuộc gọi đầu tiên. Trong cuộc gọi tiếp theo, Olivia đồng ý với con gái rằng tốt nhất là dùng rượu mạnh trong công thức làm bánh hoa quả của Julia Child. Nói chuyện xong, chị chuẩn bị rời tòa án.
Olivia khoác áo và đeo găng tay rồi bước ra khỏi văn phòng. Chợt chị nhìn thấy Jack đang đứng tựa lưng vào tường đợi mình. Anh cười ngượng ngùng khi Olivia xuất hiện.
“Chào em”, anh nói và đứng thẳng người lên.
“Chào anh”. Tim chị như ngừng đập khi nhìn thấy anh. Jack không phải là một người đàn ông điển trai đến mức khiến người đối diện choáng ngợp khi lần đầu tiếp xúc. Nhưng tính cách và sự hài hước nơi anh đã hớp hồn Olivia mất rồi.
“Em có thời gian để đi dạo dưới tuyết không?”.
“Em rất thích điều đó”. Chị đang rất muốn về nhà nhưng thời gian gần đây họ hiếm khi hẹn hò với nhau nên Olivia không muốn bỏ qua cơ hội này.
Khuôn mặt anh bừng sáng lên với một nụ cười ấm áp. “Anh biết em sẽ đồng ý mà”.
Khi bước ra ngoài chị, Olivia để ý rằng từng bông tuyết mềm mại đang nhẹ nhàng rơi xuống mặt đất.
“Chúng ta cùng đi bộ về phía bên cảng nhé”, anh gợi ý.
Ngọn đồi dốc thẳng, con đường đã bị chặn lại do điều kiện thời tiết khiến việc lái xe không an toàn. Các biển báo đã được dựng lên khắp nơi.
Jack nắm tay chị trong lòng bàn tay anh. Như một cô bé con nghịch ngợm, Olivia ngửa mặt lên trời và há miệng đón những bông tuyết rơi xuống lưỡi.
“Em rất thích tuyết”, chị nói với anh.
“Anh cũng vậy”, Jack nói.
“Anh có muốn nặn tuyết ở bãi cỏ của tòa án không?”.
“Anh muốn mình đi đâu đó uống cà- phê hơn”.
Olivia thấy lời đề nghị của anh cũng hấp dẫn không kém. Ánh đèn sáng rực từ phía biển hắt xuống mặt nước những đợt sóng vàng lấp lánh.
Bóng tối bắt đầu bao trùm xuống vịnh. Những con thuyền nhấp nhô trên mặt nước, và bây giờ khi có tuyết rơi thì khung cảnh giống như được vẽ trên chiếc thiệp Giáng sinh vậy. Nếu bây giờ xuất hiện một chiếc xe trượt tuyết hay những đứa trẻ đáng yêu trong trang phục ông già Nô- en nắm tay nhau hát vang trên đường thì đúng là một tấm thiệp Giáng sinh hoàn hảo.
Jack dẫn chị đến quán ăn Potbelly trên phố Habour. Đây là quán phục vụ ăn trưa, nhưng vì quá đông khách, nên nó mở cửa đến tận chiều muộn. Anh đi về phía quầy bar trong khi chị chọn một bàn gần cửa sổ. Chỉ một lát sau anh đã quay lại với hai cốc cà- phê đặc và một lát bánh quả hồ đào cùng hai chiếc dĩa.
“Jack”, chị phản đối. “Em đang phải giảm cân đấy”.
“Để lần khác em ạ”, anh nói và đưa dĩa cho Olivia.
Chị cầm dĩa và khẽ thở dài. “Anh biết là nếu cứ thế này thì chắc chắn em sẽ tăng cân mà”. Không để anh có cơ hội trả lời, Olivia tiếp. “Tối nay em phải...”.
“Anh tưởng em tập aerobic với Grace”.
“Có chỉ vào tối thứ tư hàng tuần thôi. Trong khi đó các tài liệu về luyện tập đều nói rằng phải tập bốn đến năm lần một tuần thì mới có hiệu quả”.
“Nhiều như vậy sao?”. Anh dùng dĩa xắn một miếng bánh.
“Anh có tập thể dục không Jack?”. Chị tự lấy cho mình một mẫu bánh bé xíu, không có kem.
“Anh hả?”. Anh ngẩng mặt lên và ánh mắt đầy vẻ tội lỗi của anh đã đủ nói lên tất cả.
“Nếu anh không tự biết chăm sóc cho bản thân mình, anh sẽ bị ngã quỵ bất cứ lúc nào vì đau tim đấy. Anh cần phải nghiêm túc hơn với chế độ ăn uống và tập luyện”.
“Vâng thưa mẹ”, anh nói và xắn thêm một miếng bánh nữa.
“Được rồi, em đã thuyết giảng xong rồi đấy”.
“Tốt”. Anh vừa cười vừa nói, giọng châm chọc. Anh cho tay vào túi áo khoác và lấy ra một chiếc phong bì. “Anh nghĩ em sẽ thích xem cái này”.
Olivia cầm chiếc phong bì và nhìn địa chỉ người gửi là từ Eric và Shelly. Bên trong là một bức thư và một tập ảnh. Olivia ngắm những bức ảnh của Tedd và Todd, hai đứa con sinh đôi của Eric.
“Ồ Jack, chúng đã lớn nhanh thế à?”.
“Shelly viết thư và nói rằng cả hai đứa đều biết đi rồi”.
“Biết đi lúc chín tháng ư?”. Olivia có thế tưởng tượng được hai cậu bé mới lẫm chẫm biết đi này sẽ bày ra những trò nghịch ngợm tinh quái gì. May mắn cho chị là trước đây Jordan và Justine mãi đến một tuổi mới biết đi. Một nỗi buồn, một sự day dứt nuối tiếc chợt thoáng qua khiến Olivia tự nhiên thấy rưng rưng. Tuy nhiên bây giờ chị không nghĩ đến Jordan nhiều như trước nữa. Đã có thời gian mỗi ngày trôi qua là một ngày chị bị ám ảnh về cái chết của đứa con trai mười ba tuổi, em trai sinh đôi với Justine. Nhiều năm rồi Olivia vẫn tự hỏi cuộc sống của chị giờ đây sẽ khác như thế nào nếu Jordan chọn đi chơi xe đạp vào buổi chiều tháng Tám định mệnh đó thay vì đi ra hồ bơi cùng các bạn.
Nhưng đó là một câu hỏi vô nghĩa. Vì Jordan đã chọn việc đi bơi và đã không bao giờ quay trở về.
“Em cũng có ảnh mới của Isabella”. Mỗi khi nói về bọn trẻ Olivia lại không thể dứt ra được. Chị lục túi và lấy ra một quyển album nhỏ mà Grace tặng. “Anh xem cả ảnh của Leif nữa này. Anh không tin được nó đã thay đổi thế nào đâu”.
Trong khi chị xem ảnh của Tedd và Todd thì Jack cũng lật từng bức ảnh hai đứa cháu của Olivia.
“Isabella và Leif rất dễ thương”, Jack nói, nhưng Tedd và Todd còn dễ thương hơn”.
Olivia hạ thấp những tấm ảnh đang xem dở xuống và nhìn vào mắt Jack.
“Anh có muốn đến nhìn tận mắt Isabella và Leif không, Jack Griffin? Các cháu của em là những đứa trẻ hoàn hảo, tuyệt vời nhất trên thế gian này. Em phải phạt vì anh đã không chịu thừa nhật sự thật này”.
Anh ngồi lui lại và nhướn lông mày. “Thật sao? Anh luôn có thể phạt em bằng cách viết một bài về em trên mục bản tin hàng ngày đấy”, anh phản công lại.
Olivia cười. “Được rồi. Được rồi. Chúng ta đều có những đứa cháu đáng yêu và thông minh nhất Trái đất. Được chưa?”.
Jack mỉm cười. Anh lấy cái dĩa xắn miếng bánh cuối cùng nhường cho Olivia.
Chị lắc đầu từ chối, nhưng Jack cũng không chịu ăn.
“Em thật sự không muốn ăn nữa. Lại mất công em phải tập luyện để giảm béo. Em ghét chạy trên máy lắm”.
“Em cứ ăn đi. Vì chúng ta có thể đi bộ cùng nhau mà”.
Lúc này tuyết đã ngừng rơi. Ngoài trời, mưa lất phất rơi. “Đi bộ trong mưa như thế này sao?”.
Jack cau mày. “Em giúp anh đi mùa quà Giáng sinh nhé. Anh muốn gửi quà cho Eric, Shally và hai đứa trẻ. Em giúp anh nhé”.
“Đồng ý”, chị gật đầu và cúi người ra phía trước để ăn miếng bánh trên tay anh. Miếng bánh thật tuyệt Olivia nhắm mắt để tận hưởng vị ngon do miếng bánh nhỏ này mang lại.
“Em xong chưa?”, anh nhấm nháp cà- phê và hỏi.
“Xong rồi. Ta đi thôi”. Chị đứng dậy, lấy chiếc áo khoác treo sau ghế.
Cho đến khi hai người bước ra cửa, Olivia mới nhận ra rằng đây là lần đầu tiên trong nhiều tháng nay, hình ảnh của Stan không xen vào cuộc nói chuyện của họ nữa.
Đây là một dấu hiệu tốt, thực sự rất tốt.
Zach quan sát người phụ nữ trẻ ngồi ở ghế đối diện với anh. Đây là phần công việc mà anh ghét nhất. Tuyển nhân viên mới. Cecilia Randall là ứng cử viên cuối cùng trong ngày. Anh đã phỏng vấn bốn người và chưa có ai khiến anh cảm thấy hài lòng.
Cecilia Randal trông rất hồi hộp, cô đang cố gắng đế gây ấn tượng tốt với Zach. Cô còn trẻ nhưng đã có kinh nghiệm đáng nể trong công việc cho dù nó không liên quan đến kế toán. Cô đã từng làm việc lâu năm trong một nhà hàng với vai trò là người phục vụ.
Có đến hàng tá câu hỏi trong đầu nhưng Zach không biết có nên đưa hết ra với Cecilia không? Anh đã có được bài học từ Janice Lamond.
“Cô có thích công việc kế toán không cô Randall?”, anh hắng giọng hỏi.
Cô gật đầu quả quyết. “Tôi rất thích. Tôi từng đạt điểm môn Đại số cao nhất lớp”. Cô vươn người ra trước và chỉ vào bản lý lịch. “Tôi mới lấy được bằng kế toán của trường Đại học Cộng đồng Olympic ở Bremerton”.
Zach nhìn theo ngón tay Cecilia. “Tôi thấy bản lý lịch có ghi là chồng cô ở trong hải quân phải không?”.
“Đúng vậy. Hiện giờ anh ấy đang trên biển”. Cô bấu hai tay vào đùi và siết chặt các ngón tay với nhau. “Tôi rất nhớ anh ấy, nhưng những ngày công tác của anh ấy cũng sắp hết rồi”. Trong mắt cô ánh lên sự yêu thương và nỗi nhớ mong, hy vọng của một người phụ nữ tha thiết yêu chồng. Đây là một dấu hiệu tốt.
Zach liếc qua bản lý lịch của cô lần cuối và đưa ra sự băn khoăn của mình.
“Nhưng tôi không thấy cô có kinh nghiệm gì trong lĩnh vực kế toán”.
Cecilia ngồi thẳng lưng lại. “Vâng, tôi biết. Trước đây tôi làm nhân viên ở nhà hàng Bếp Thuyền Trưởng nó đã được bán cho người khác và đổi tên thành nhà hàng Hải Đăng”.
Zach gật đầu lơ đễnh, anh khá quen thuộc với nhà hàng này vì anh đang làm thuê cho họ.
Cecilia vươn người lại gần Zach hơn. “Những người quản lý của nhà hàng Hải Đăng có đề nghị giao cho tôi một công việc nhưng tôi đã từ chối. Tôi và Ian đều cảm thấy việc quan trọng nhất là phải hoàn thành cho xong tấm bằng kế toán và tìm một công việc trong lĩnh vực mà tôi đã được đào tạo trong suốt ba năm qua”.
Cô ta xứng đáng đạt điểm A vì những nỗ lực đó, Zach quyết định. Cô ta đã mất ba năm đi học và bây giờ đang ngồi đây để nắm bắt cơ hội của mình.
“Tôi sẵn sàng bắt đầu từ bất kỳ vị trí nào”, cô đề nghị. “Tôi sẽ rất biết ơn nếu có được cơ hội để chứng tỏ khả năng của mình”.
Zach bắt đầu thấy thích cô vợ hải quân này. Một điều quan trọng khác nữa là cô ấy đã kết hôn và nó có vẻ là một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Mặc dù không nói ra, nhưng Zach không muốn làm việc trong môi trường gần gũi với một phụ nữ độc thân nữa. Anh đã không nhận ra ý định của Janice cho đến khi mọi chuyện vỡ lở.
“Cô có thể bắt đầu làm từ sáng thứ hai tới được không?”, anh quyết định.
Anh đã chán việc phải phỏng vấn các ứng cử viên và Cecilia cũng đã chứng tỏ được mình là người rất yêu công việc.
Mắt Cecilia mở to. “Ý anh nói là tôi đã được nhận sao?”.
Zach mỉm cười. “Công việc này bây giờ đã là của cô”. Anh nói với cô về mức lương, điều này khiến mắt cô còn mở to hơn nữa. Khi cô thốt lên. “Bao nhiêu?”. Zach đã nghĩ rằng cô chế lương thấp. Nhưng rồi anh hiểu là mình đã nhầm. Tự thấy bối rối, Cecilia cười và lấy tay che miệng. “Thật là tuyệt. Ông sẽ không phải hối tiếc đâu ông Cox. Tôi sẽ làm hết khả năng của mình”.
“Tôi biết là cô sẽ làm được cô Randall ạ”.
Sau khi rời khỏi cơ quan ngày hôm đó, Zach dừng ở cửa hàng rau quả và chọn một hẳn con gà. Gà chưa bao giờ là món ưa thích của anh, nhưng nó có ưu điểm là nhanh và tiện, anh sẽ không phải mất nhiều thời gian để chuẩn bị cho bữa tối.
Mặt Eddie méo xệch đi khi nó nhìn thấy con gà. “Con muốn món mỳ ống”, nó phàn nàn.
“Lại gà sao?”. Allison hỏi. “Cách đây hai hôm mẹ đã mua một con gà rồi. Trong nhà này không ai biết nấu món gì khác à?”.
“Có đấy”, Zach gần như đã mất kiên nhẫn. “Người đó là con”.
“Con hả?”. Allison càu nhàu lại với anh. “Điều gì khiến bố nghĩ rằng con biết nấu ăn?”.
“Không phải con chọn học ở nhà môn kinh tế trong ba tháng kỳ này sao?”.
“Vâng, nhưng chúng con không...”.
“Buổi chiều con là người về nhà sớm nhất. Con có thể chuẩn bị bữa tối cho bố và Eddie”.
“Bố muốn con nấu nướng chỉ vì con là con gái phải không?”. Mắt con bé đầy vẻ phẫn nộ.
Zach sẽ không mắc phải cái bẫy “Bố tôi theo chủ nghĩa Sô- vanh” của Allison. Anh nói. “Nếu Eddie đi học về sớm hơn con thì bố sẽ để em nấu, nhưng thực tế con là người bước chân vào nhà sớm nhất. Chúc mừng con, con đã có đủ điều kiện để chuẩn bị bữa tối cho cả nhà rối đấy. Bố và em con sẽ rửa bát đĩa.
“Con thà nấu bữa tối còn hơn phải rửa bát”, Eddie nói to.
“Bố nghĩ lần này con không gặp may rồi Eddie ạ. Chị Allison sẽ vạch ra kế hoạch ăn tối cho chúng ta ăn tối”.
“Kế hoạch ăn tối?”. Allison có vẻ kinh hãi. “Đó là gì vậy?”.
Anh phân vân không biết trong lớp nó có ngủ gật không. “Liệt kê những gì chúng ta định ăn trong vòng bảy ngày tới và ra cửa hàng tìm mua những đồ ăn từ danh sách đó”.
“Ồ”.
“Chị có thế nấu mì ống mỗi tối nếu chị thích”, Eddie hào hứng nói.
“Con viết vào đây”. Zach để một quyển vở lên bàn trước mặt con gái.
“Chúng ta có thể ăn thịt chiên giòn vào một tối nào đó được không?”. Eddie năn nỉ. “Đi mà”.
“Thôi được”. Allison miễn cưỡng viết món thịt chiên giòn vào đầu danh sách.
“Con có biết chúng ta cần những gì cho món thịt chiên giòn không?”. Zach hỏi.
“Thịt lợn, pho mát, cà chua và rau diếp”, Allison nói.
“Tốt”, Zach nói và chỉ vào con bé. “Hãy viết những thứ chúng ta chưa có vào một danh sách riêng những đồ cần mua”.
“Chúng ta đã có pho mát”, Eddie nói với bố. “Mẹ đã mua sẵn cho món mì ống và món pho mát vào tối thứ hai”.
“Tốt. Vậy chúng ta cần mua thêm thịt, cà chua và rau diếp”.
Allison nghiêm túc ghi lại những thứ cần mua. Ba bố con trở nên hào hứng với công việc này. Eddie đưa ra những gợi ý cho các bữa tối và Allison sáng tạo thêm cho danh sách các món ăn. Công việc này khiến cả ba đều vui vẻ. Đến khi kế hoạch cho bữa tối được hoàn thành thì cũng là lúc đồ ăn đã chín, và cả ba bố con đã sẵn sàng dùng bữa.
Eddie hai tay cầm cái đùi gà. “Allison, có thực sự là chị sẽ nấu cho cả nhà không?”, nó hỏi chị.
Allison nhún vai. “Là do bố bắt chị thôi”.
Muốn hướng cuộc nói chuyện quay về chủ đề gia đình, Zach hỏi hai con về ngày hôm nay của chúng.
Và đã thành thói quen, Allison chớp mắt. “Con nghĩ là ổn”.
“Con có một ngày thật tuyệt”, Eddie nói và miêu tả chi tiết mọi việc xảy ra ở lớp năm của nó.
“Vậy còn bố?”. Allison hỏi sau khi Eddie nói xong.
“Bố à?”. Zach trả lời, anh nhận thấy rằng mình không có gì phải giấu hai con. “Chiều nay bố đã tuyển được một trợ lý mới”.
“Cô ấy có xinh không?”. Eddie hỏi.
Anh chưa kịp trả lời thì chuông điện thoại reo. Như nữ hiệp sỹ đeo mặt nạ đội mũ đen trong chuyện tranh, Allison lao đến chiếc điện thoại. Sự hăng hái của nó tắt ngấm khi nó nhận ra là mẹ gọi đến.
Mặc dù Zach chỉ nghe được câu trả lời của Allison nhưng từ đó anh cũng hiểu được là Rosie đang hỏi ba bố con đang làm gì.
Con gái anh thở dài. “Hai chị em con và bố đang ngồi quanh bàn ăn và bố kể với chúng con về việc tuyển được một trợ lý mới”.
Zach muốn nhảy dựng lên và hét thật to. Anh không muốn để Rosie biết Janice đã nghỉ làm. Việc cô nộp đơn xin thôi việc đã đủ khiến anh thấy xấu hổ rồi. Nhưng phải thú nhận với Rosie rằng mình đã sai khi tuyển Janice còn khiến anh mất thể diện hơn. Thậm chí Zach còn chẳng thể thú nhận với chính bản thân rằng mình đã sai lầm.
Zach không còn cảm thấy muốn ăn nữa, anh đứng lên và mang đĩa xuống bếp. Anh đổ thức ăn thừa đi và cho bát đĩa vào máy rửa bát.
Eddie cũng nói chuyện với mẹ. Một vài phút sau cậu bé gọi bố. “Mẹ muốn nói chuyện với bố này”.
“Bố tới ngay đây”. Anh biết vợ cũ của mình sẽ không bỏ qua thông tin này, và anh đã đoán đúng.
Vừa nghe thấy tiếng Zach, Rosie lập tức hỏi anh đúng câu mà anh đã dự đoán. “Anh tuyển trợ lý mới à?”.
“Allison nói với em phải không”, anh lẩm bẩm. “Anh đang cố gắng để bọn trẻ kể cho anh về mọi chuyện xảy ra ở trường và anh cũng muốn chia sẻ với chúng công việc của anh”.
“Có chuyện gì với Janice Lamond vậy?”. Hiển nhiên là Rosie rất kiên trì.
“Không có chuyện gì cả?”.
“Nếu vậy tại sao anh phải tuyển trợ lý mới?”.
“Tại sao à?” anh nhắc lại như thể câu trả lời là tất yếu. “Anh cần một trợ lý mới”.
“Janice được thăng chức sao?”.
“Ừ”. Jack nói rất thật lòng. Janice đã được thăng chức, nhưng có điều không phải ở công ty của anh. Cho đến giờ thì Zach phải thừa nhận rằng những gì Rosie nghĩ về Janice là đúng. Cô ta có tình ý với Zach. Và những gì Janice giúp đỡ anh không chỉ hoàn toàn xuất phát từ mối quan hệ đồng nghiệp.
“Vậy thì chúc mừng cho Janice”. Giọng Rosie nghe nhẹ nhõm hơn nhiều.
“Ừ... chắc là như vậy”, anh nói.
Một lát sau, Zach gác máy. Một cảm giác không mấy dễ chịu bao trùm lên anh. Anh có một ý niệm mơ hồ rằng anh sẽ phải trả giá cho việc nói dối này của mình - và sẽ phải trả giá vào một ngày rất gần.