- 2 -


- 5 -
Chiếc Máy Đánh Nhịp

     à nằm trên giường, chung quanh là bóng tối thú vị và che dấu, môi bà hé một nụ cười tỏ lộ sự khoan khoái là đám tang đã hoàn tất. Chẳng có ai nghi ngờ bà và thằng bé đã không phải vô tình té xuống sông. Không ai nghi ngờ rằng bà đã có thể cứu được thằng con chồng nếu bà muốn.  “Ồ, tội nghiệp bà Farwell quá, chắc bà ấy khổ tâm lắm!” Bà còn như nghe thấy tiếng họ xì xào xa xa trong bóng tối bao trùm của đêm đen. Một chút hối hận bà cảm thấy thoáng qua khi thằng bé chìm xuống, khi nó biến mất dưới làn nước lần cuối cùng và khi bà nằm mệt ngất trên bờ đã tiêu mất từ lâu rồi. Bà đã thôi không nghĩ đến việc bằng cách nào bà đã làm được chuyện đó, bà còn thuyết phục được chính mình rằng bờ sông đã bổng dưng  sụp xuống, rằng bà đã quên đất ở chổ đó rất yếu, rằng nước ở đó rất sâu và dòng nước chảy thật xiết.
Có tiếng cử động của chồng bà ở phòng bên. Ông ấy đã không nghi ngờ gì cả.  –Bây giờ tôi chỉ còn có bà. Ông đã nói với bà như thế, nổi đau khổ đè nặng trên gương mặt đầy nếp nhăn của ông. Những ngày đầu đã gây cho bà ít nhiều khó khăn nhưng việc chôn cất Jimmy đã giảm thiểu được điều đó và cuối cùng đã làm tiêu tan những mối ngờ vực đã ám ảnh bà.
Chào ông, chào ông, chào ông…
Ông M-e-l-z-o thân mê-ến của tôi…
Hay những lời tương tự như thế, bà không nhớ rõ lắm. Chúng reo vang trong trí bà kéo dài đến đoạn thứ nhì của bản hòa tấu, tiếng đánh nhịp giống như cái máy của Jimmy, tick-tick, tick-tick, kéo dài vô tận. Chính cái máy đánh nhịp và bài hát đó đã soi rõ cái ác cảm của bà đối với đứa con trai người vợ lớn của ông Farwell.
Bà đẩy bài hát ra khỏi đầu mình và bổng dưng bà tự hỏi không biết mình giấu cái máy ấy ở đâu?! Nó cũng khá đẹp, khá kiểu cọ và có một cái đế nặng bằng bạc, một cái búa nhỏ nằm trên một cần bằng thép có khe rãnh giương thẳng lên đối lại với một khối hình tam giác uốn cong bằng bạc. Bà đã không phá hủy nó đi như ý định lúc đầu vì bà nghĩ rằng sau khi thằng bé chết nó sẽ là một món đồ trang trí nhỏ ngộ nghĩnh mặc dầu trước kia nó là vật sở hữu của mẹ Jimmy. Trong một giây bà nghĩ đến Margot là kẻ chắc phải vui lắm vì bà đã gửi Jimmy đến với mẹ nó – nếu quả thật có một thế giới bên kia. Bà nhớ ra rằng Margot rất tin điều đó.
Hay bà đã để cái máy trên kệ trong tủ của bà? Có lẻ. Thật lạ là bà không nhớ được một chuyện đã là một trong những hành động quan trọng nhất của bà vài ngày  trước khi Jimmy chết chìm. Bà nằm nghĩ đến cái máy. Bà nghĩ, trông nó chắc đẹp lắm nếu đặt trên chiếc đàn piano, chỉ cần một thứ trang trí đó thôi, màu bạc đối lại với màu nâu den của chiếc đàn piano.
Bổng dưng tiếng máy đánh nhịp vang lên cắt đứt dòng tư tưởng của bà. Bà nghĩ, lạ nhỉ, sao nó lại gỏ vào đúng lúc bà đang suy nghĩ đến nó. Âm thanh vang lại nghe rỏ mồn một, tick-tick, tick-tick, tick-tick, nhưng khi bà cố định hướng xem nó xuất phát từ đâu thì bà lại không định được. Dường như nó vang lên càng lúc càng lớn rồi nhỏ dần nghe xa xa, thật khác thường! Bà nhớ là trước kia bà chưa từng nghe nó kêu như  thế trong suốt thời gian Jimmy làm bà điên đầu với tiếng đánh nhịp của nó. Bà bắt đầu tỉnh táo, chăm chú lắng nghe.
Arnold
Arnold
Sau một lúc do dự, bà ngồi dậy mò tìm cây đèn pin trong bóng tối và bước đến bên chiếc tủ. Bà mở cửa tủ, đút tay và đèn vào trong bóng tối của tủ, tai lắng nghe. Không, cái máy không có ở đây. Tuy vậy bà vẫn đấy 1, 2 cái hộp đựng nón sang một bên để coi cho chắc. Hình như lúc nào bà cũng hay giấu đồ  ở đây.
Bà đóng cửa lại và đứng dựa lưng vào tủ, lông mày nhíu lại bực dọc. Trời đất! Chẳng lẻ bà cứ phải nghe mãi tiếng đánh nhịp quái ác kia ngay cả sau khi Jimmy chết à? Bà quyết tâm bước đến cửa phòng mình.
Bổng một tiếng động khác đập vào tai bà.
Có ai đó đang đi lại bên ngoài, tiếng bước chân lạch bạch nhẹ nhàng.
Arnold
Tay bà do dự trên nắm cửa, rồi bà mở cửa ra một cách giận dử và nhìn suốt hành lang, tay giơ cao cây đèn. Chẳng có ai cả. Bà nhận ra là mình muốn thấy có người  hiện diện hơn là trống trơn như thế này. Thật là phi lý! Bà thấy khó chịu.
Arnold
Và rồi một thứ âm thanh khiến bà lạnh cứng mình, tiếng một bé trai hát ở xa xa.
Chào ông, chào ông, chào ông…
Ông M-e-l-z-o thân mê-ến của tôi…
Bà ngã vào cửa, một tay nắm chặt lấy tay nắm cửa. Đầu óc bà hoang mang, nhưng chỉ 1 giây sau thì tiếng hát nhỏ dần và tắt ngấm. Tiếng máy đánh nhịp lại vang lên lớn hơn nhưng bà cảm thấy nhẹ nhõm nghe lại thứ âm thanh này hơn là tiếng hát kia.
Bà đứng im một lát lấy lại bình tỉnh rồi siết chặc cây đèn pin bà đi chầm chậm dọc hành lang, người ép sát vào tường. Khi đến đầu cầu thang bà dùng tay còn lại che bớt ánh sáng đèn để nếu có ai ở dưới thì không thể thấy được bà. Bà đi xuống cầu thang nhẹ nhàng, cẩn thận để không gây ra tiếng động sợ lộ sự hiện diện của mình.
Không có gì ở hành lang tầng dưới cả nhưng lại có tiếng động ở phòng đọc sách. Bà đẩy nhẹ cửa ra và tiếng đánh nhịp vang lớn ra úp chụp lấy bà. Thoạt đầu bà không thấy xa hơn được ngưởng cửa, chỉ sau khi đã bước vào trong phòng bà mới trông thấy một cái bóng nhỏ mờ ở phía vách tường đối diện. Một bóng nhỏ chập chờn đi dọc theo vách tường, tìm tòi trong các đồ đạc, ngước nhìn trên dãy kệ sách, lục lọi ở mọi xó xỉnh với 2 bàn tay ma quái – đó là Jimmy đang tìm cái máy đánh nhịp của nó.
Bà đứng bất động, nín thở trong một nổi sợ hãi khủng khiếp. Jimmy, thằng Jimmy mà bà đã trông thấy chôn xuống lòng đất sáng nay. Phải cố hết can đảm bà mới không ngã nhào xuống đất.
Thằng nhỏ ma quái cứ tiến tới phía bà rồi đi qua mặt bà, lục lọi, tìm tòi mọi xó, góc, nơi có thể dấu cái máy đánh nhịp của nó. Cứ thế nó đi vòng qua vòng lại.
Cố gắng hết sức bà mới thì thào được:  -Đi đi, ồ, đi đi.
Nhưng thằng bé không nghe. Nó cứ tiếp tục việc làm ma trơi của nó, tới lui, lục lọi, tìm tòi một cách vô ích và tiếng tick-tick, tick-tick dồn dập của chiếc máy nghe như tiếng búa đập trong căn phòng tối ma quái.
Khi thằng bé một lẩn nữa đi ngang qua mặt bà, bàn tay bà đang che bóng đèn buông thỏng xuống và bà trông thấy rõ mặt nó đang ngước lên nhìn bà, cặp mắt nó bình thường rất hiền lành bây giờ trông dữ tợn, miệng nó bậm lại giận dữ và hai bàn tay nhỏ nhắn nắm chặt lại. Hoảng hốt bà quay lại chạy trốn nhưng cánh cửa không chịu mở ra.
Sau 3 lần cố gắng giật cho cửa mở không được, bà liền tìm coi có vật gì cản trở không thì thấy thằng bé đứng cạnh bà, một tay nó vịn nhẹ vào cánh cửa. Chỉ một cái chạm nhẹ của nó cũng đủ dán chặt cánh cửa lại. Bà lại cố mở nhưng cũng như khi nảy, tay nắm cửa quay nhưng cánh cửa vẩn không nhúc nhích. Gương mặt thằng bé trở nên thật độc ác khiến bà kinh hoảng đánh rơi cây đèn và bỏ chạy lại phía cửa sổ đối diện với cửa phòng. Nhưng thằng bé đã đến trước bà.
Bà cố gắng đẩy cửa lên, một tay kéo chốt cửa ra nhưng cánh cửa vẫn bất động. Ngay trước khi nhìn xuống bà đã cảm thấy bàn tay thằng bé đè cửa sổ xuống. Nó đứng đó, một bóng trắng trong mờ ảo dựa nhẹ vào kiếng cửa.
Tình trạng cũng y như vậy khi bà chạy đến cửa sổ còn lại trong phòng. Khi bà đưa tay lên định đập bể kiếng cửa thì bóng thằng bé đã đứng ngay trước cửa khiến tay bà không thể xuyên qua không khí để chạm vào kiếng được.
Bà quay lại chạy chui vào góc tối phía sau cây đàn dương cầm vừa khóc lóc sợ hãi. Phút chốc thằng bé đã đến bên bà. Bà cảm nghe hơi lạnh ma quái của nó toát ra xâm nhập vào lớp áo ngủ mỏng bà đang mặc. –Đi đi! Đi đi.  Bà nức nở.
Bà cảm thấy mặt của nó ép sát vào bà. Mắt nó tìm mắt bà, buộc tội bà, những ngón tay ma quái của nó đưa ra chạm người bà.
Bà hét lên một tiếng kinh khiếp rồi vụt chạy. Một lần nữa bà chạy lại cửa phòng nhưng thằng bé đã đến đó trước khi tay bà chạm được tay nắm cửa. Không cần vặn nắm cửa bà đã biết rằng có cố sức cũng vô ích. Bà cố đưa tay bật đèn lên nhưng cái sức mạnh đã ngăn không cho bà đập bể cửa kiếng lại một lần nữa xuât hiện.
Bà lại nhủi tìm một nơi an toàn là một góc tối, rồi thằng bé cũng tìm ra bà và nhủi sát người bà như một con vật đi tìm hơi ấm.
Bổng dưng bà mất hết lý trí mà chỉ cảm thấy một nổi sợ hãi điên loạn ngày càng gia tăng xâm nhập toàn thân bà. Hai tay bà nắm chặt lại và bắt đầu đập mạnh vào tường. Bà hét lên khủng khiếp để giải tỏa nổi sợ hãi đang bao phủ lấy người bà.
Điều cuối cùng bà biết được là đôi bàn tay ma quái của thằng bé đang nắm ngang eo bà kéo bà xuống và bà quỵ xuống một đống ở sát chân tường, một vật gì đó đập mạnh vào thái dương bà đồng thời cái thân hình ma quái cúng nhắc của thằng bé đè sát xuống mặt bà. Bóng tối đang chờ đợi liền tiến tới úp chụp lấy bà.
Arnold Farwell tìm thấy vợ nằm ở sát chân tường gần chiếc đàn dương cầm. Ông quỳ xuống bên cạnh bà. Ông đã được học qua một khóa y tế đủ để biết rằng vợ mình đã bị một vật gì ướt làm cho ngạt thở vì mặt bà vẩn còn ẩm ướt, nhưng ông không hiểu sao trong phòng lại có mùi nước sông. Từ xác bà nhìn lên tường ông thấy bức tranh to vẻ phong cảnh bị nghiêng lệch đi, nhưng chắc chắn bức tranh này không thể tạo ra vết thương ờ thái dương bà được.
Và rồi ông trông thấy cái vật đã đập trúng bà khi nó rơi xuống từ cái hốc nhỏ phía sau bức tranh nơi nó đã được dấu. Đó là cái máy đánh nhịp.
Xong ngày 28 tháng 3, 1982
Hoàng_Yến