Chương 7

Dịch giả: Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh
Chương 23
1957-1965

     ao muốn tôi là người đầu tiên chứng kiến chiến dịch chống những người hữu khuynh. Ông nói với tôi ngay sau khi trở về Bắc Kinh:
- Đồng chí cứ như vị đạo sĩ, ẩn dật nơi rừng sâu núi thẳm. chẳng biết gì sự đời.
Vì vậy, ông đề nghị tôi ghé thăm Bệnh viện Hiệp hội Đa khoa Bắc Kinh và báo cáo tình hình ở đó cho ông hay.
Trước đây, Hiệp hội y khoa Bắc Kinh do quỹ Rockefeller tài trợ, một bệnh viện có nhiều khoa nhất ở Trung Quốc, có đội ngũ bác sĩ giỏi nhất và được trang bị hiện đại nhất. Tuy nhiên, từ năm 1949, bệnh viện này được tái tổ chức hoàn toàn đổi mới theo kiểu Liên Xô. Người ta đã thay thế một số bác sĩ nổi tiếng và sự điều hành được đặt dưới sự kiểm soát của đảng. Bí thư thứ nhất Trương Trí Thường nắm toàn quyền lãnh đạo bệnh viện. Đảng coi ông như một bác sĩ, vì trong chiến tranh ông đã được những bác sĩ quân y cộng sản đào tạo. Nhưng những bác sĩ được đào tạo ở các nước phương Tây làm việc trong bệnh viện tất nhiên không công nhận ông. Trương, một người thô lỗ, vô học, một nhà cách mạng lão thành hồi đó được xem là có đủ trình độ.
Những bác sĩ thực sự, trong đó có cả những bạn bè và thầy dạy cũ của tôi, lo ngại trước những thay đổi về tổ chức. Họ phàn nàn, ông bộ trưởng Bộ y tế, cơ quan có trách nhiệm quản lý chung các bệnh viện, đã can thiệp vào công việc nội bộ của họ. Một số bác sĩ khi được khuyến khích phê bình trước công luận trong thời gian phong trào Trăm hoa đua nở đã bày tỏ suy nghĩ của họ.
Tôi đã viết báo cáo về những ưu tư của họ, Mao bác bỏ sự trình bày của tôi, khiển trách tôi đã nhận xét quá hấp tấp và lại cử tôi đi tìm hiểu tiếp.
Tôi đã tham dự một cuộc họp phê phán các “thành phần thân hữu” trong bệnh viện. Mục tiêu phê phán chủ yếu trước hết là hiệu trưởng trường Đại học y khoa Lý Tống Ân và giám đốc bệnh viện Lý Khắc Hồng.
Những người phê phán hầu hết là các kỹ thuật viên trẻ ở phòng xét nghiệm và y tá, những người không có khái niệm gì về việc điều hành một bệnh viện hiện đại. Vì tôn trọng những đồng nghiệp già, nên những bác sĩ trẻ không tham gia chiến dịch này. Cả hai bác sĩ họ Lý đều bị buộc tội đã âm mưu khước từ sự lãnh đạo của đảng, lạm dụng quyền hành can thiệp vào những công việc nhân sự, tài chính và hành chính. Ngay trong cuộc họp, mọi người sửng sốt và tức giận.
Tuy tôi có cảm tình với hai vị bác sĩ này, nhưng tôi cho việc phê bình đảng một cách công khai của họ là sự xuẩn ngốc. Không một ai dám phê bình chỉ trích đảng. Làm việc cho Mao đã ba năm nay, tôi phụ thuộc vào ông, không có quan điểm riêng, suy nghĩ độc lập. Tôi chẳng cần phải kiềm chế hoặc nuôi ý nghĩ chống lại ông, vì quan điểm của Mao cũng là của tôi. Tôi chưa bao giờ có quan điểm ngược lại Mao.
Sau cuộc họp, tôi tới thăm bác sĩ Trương Tiểu Kiều, một trong nhưng bác sĩ giàu kinh nghiệm mà đáng lẽ đã khám bệnh cho Mao ở Bắc Đới Hà. Ông cũng là người tỉnh Hồ Nam đồng hương với Mao. Trước giải phóng, ông là hiệu trưởng trường Đại học y khoa Yale-Trung Hoa ở Hồ Nam, được coi là một trong những bác sĩ giỏi nhất Trung Quốc. Hồi đầu năm, bác sĩ Trương cũng đã lên tiếng công khai công kích và phê bình bí thư đảng uỷ nhà trường vì đã tự tiện điều động các bác sĩ trong khoa của ông sang bệnh viện khác. Vì vậy chiến dịch chống những người hữu khuynh đã làm cho bác sĩ Trương vô cùng lo lắng. Ông nói: “Tôi đã nói quá nhiều, một sai lầm nghiêm trọng. Lẽ ra, tôi nên im lặng. Tôi không hề có ý tranh chức tranh quyền. Ý của tôi chỉ muốn, trưởng bộ môn khi nhân viên dưới quyền bị điều động, ban lãnh đạo nhà trường nên tham khảo và hỏi ý kiến trước khi điều động”. Ông khẩn khoản xin tôi “phản ảnh ý kiến của ông đến nơi có thẩm quyền”, ý ông muốn ám chỉ Mao.
Mao cười khi tôi báo cáo với ông về chuyến viếng thăm bệnh viện lần thứ hai, vì ông nghĩ rốt cuộc tôi đã hiểu được tình hình. Quyền lực của đảng đều được thể hiện trong những vấn đề nhân sự, tài chính và hành chính. “Sau hàng năm ròng nội chiến với vô số người hy sinh, chúng ta mới giành được chính quyền. Vậy mà giờ đây bọn cánh hữu lại muốn đoạt lấy chính quyền của chúng ta”. Nhưng ông đã tha thứ cho Trương Tiểu Kiều: “Bác sĩ Trương không phải là người hữu khuynh. Đồng chí ấy chỉ dại dột và để cho người khác lợi dụng”. Trương Tiểu Kiều không bị truy bức vì hành động của ông.
Các bác sĩ Lý Tống Ân và Lý Khắc Hồng ít gặp may hơn. Vài tuần sau chuyến viếng thăm của tôi, họ đã bị quy kết hữu khuynh, bị đày đi cải tạo ở nông thôn. Lý Khắc Hồng, một trong những bác sĩ giỏi nhất Trung Quốc, phải làm người thủ thư trong một Trường Trung cấp y tế nhỏ ở Vân Nam, nơi tận cùng miền Tây Nam Trung Quốc. Bác sĩ Lý Tống Ân, một bác sĩ chuyên môn nổi tiếng, bị đày đi Quí Châu xa xôi, chẳng bao giờ được trở lại Bắc Kinh. Cả hai đã chết yểu sau khi bị đi đày một thời gian ngắn.
Ngay cả khi chiến dịch chống phái hữu khuynh mỗi ngày một lan rộng, tôi vẫn chưa lường được mức độ của sự kiện này rõ ràng. Tôi không biết bao nhiêu người đã bị kết án đi cải tạo lao động, hoặc phải chịu đựng cực hình như thế nào trong cuộc cải tạo. Theo Mao nói, thậm chí tôi có cảm tưởng rằng Chủ tịch rất độ lượng đối với kẻ thù của ông và muốn dành cho họ một cơ hội để cải huấn. Khi Mao cho tôi biết, không nghĩ đến việc hành quyết những đối thủ, tôi tin ông ngay. Tôi đã ủng hộ Mao và chiến dịch chống những người thiên hữu. Mao tốt, đảng Cộng sản tốt và cả hai đã cứu Trung Quốc.
Mãi tới năm 1960, nghĩa là ba năm sau, bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Trần Nghị kể cho tôi, người ta đã quy kết hơn nửa triệu người là hữu khuynh, tôi mới vỡ ra rằng con số quá lớn, trong số đó có đã biến bao người vô tội trở thành nạn nhân. Tôi ái ngại nhất là ở các cơ sở sản xuất người ta phải hoàn thành một chỉ tiêu nhất định. Mỗi đơn vị phải quy kết được 5% thành viên của mình thuộc thành phần cánh hữu, bất kể đúng hay sai.
Đến bây giờ tôi mới rõ, biết bao nhiêu người đã bị chụp mũ, bị mất việc, bị tống vào những trại cải tạo lao động và chết một cách đau khổ, tức tưởi. Thực tế, Mao không ra lệnh tử hình những đối thủ, nhưng sự hành hạ về thể xác lẫn tinh thần của những biện pháp cải tạo thường dẫn đến chết dần, chết mòn và đầy đau đớn.
Cho đến khi có lần bản thân tôi phải lao động cật lực suốt hai tuần liền, tôi mới hiểu được cuộc sống trong trại cải tạo. Chẳng hạn, đàn ông chỉ vác được tối đa là 20 Jin (đơn vị đo trọng lượng của Trung Quốc) đá đã buộc phải khuân tới 40 Jin. Nếu họ gục xuống không thể bước nổi vì kiệt sức thì người ta bảo, nó là người phái hữu. Khi anh ta năm lăn quay, vô vọng họ ép phải nhận tội và khai ra những người khác. Số người chết trong các trại cải tạo nhiều hơn cả thời kỳ cải cách ruộng đất.
Đáng lẽ tôi phải biết điều đó rõ hơn mới đúng. Chính Mao đã nhiều lần tiết lộ với tôi. Một lần ông nói:
- Nếu chúng ta tính gộp tất cả những tên địa chủ, phú nông, những tên phần cách mạng, những thành phần không trong sạch và thành phần cánh hữu, ít nhất là 30 triệu người. Nếu chúng ta gom tất cả bọn chúng vào một chỗ duy nhất, chúng sẽ lập ra được cà một quốc gia mà mọi vấn đè rắc rối đều có thể từ đó mà ra. Ở các cấp uỷ đảng và các cơ quan chính quyền riêng lẻ, chúng sẽ chỉ là một thiểu số ít ỏi. Với dân tộc 600 triệu dân, chúng chỉ là một phần hai mươi. Vậy chúng ta chẳng cần phải sợ. Tuy nhiên, một số cán bộ đảng không nhận ra điều này. Tôi đã khuyên họ, trong trường hợp họ bị tấn công, hãy đứng vững, để cho vấn đề tự nó được giải quyết. Một số người hầu như không chịu được khi bị tấn công và thậm chí một số còn muốn bỏ đảng và chạy sang hàng ngũ bọn cánh hữu. Bây giờ chúng ta đã lột mặt nạ của tất cả bọn chúng và chính chúng ta lại tấn công chúng.
Khi đó, lần đầu tiên tôi được nghe con số 30 triệu kẻ thù nhân dân, một con số lớn không thể tưởng tượng được. Nhưng đồng thời, tôi cũng biết rằng Mao ít khi nói bừa. Con số của ông hẳn là từ các nguồn tin đáng tin cậy. Sau này tôi phòng đoán sự thật con số đó còn nhiều hơn thế.
Có cả bằng chứng về việc Mao coi sinh mạng của đồng bào chẳng có nghĩa lý gì ông thường nói: “Chúng ta đã quá đông dân. Chúng ta có thể loại bớt một số. Điều đó có sao đâu?”
Tôi vui mừng vì hồi đó tôi chẳng hiểu Mao. Mừng vì tôi chẳng thấy hết được những gì chất chứa trong chiến dịch thanh trừng, mừng vì tôi chẳng biết gì về sự khủng khiếp mà những người trí thức khác phải chịu đựng và biết bao người đã phải bỏ mạng. Tôi đã bao lần tìm cách thoát khỏi Mao, còn ông lại muốn kéo tôi trở lại. Bây giờ tôi tuyệt vọng ngồi trong cái bẫy. Tôi có thể làm gì được, nếu tôi biết những gì đang xảy ra bên ngoài cái kén bảo vệ của tôi? Tôi có thể làm gì được nếu tôi biết sâu sắc và cặn kẽ chuyện thanh trừng? Tôi không bao giờ chấp nhận nhưng cũng chẳng giúp gì được vì không quyền lực. Tôi cũng không thể thoát ra ngoài và cũng khó sống sót.
Theo lối nói của người Trung Quốc là nande hum, có nghĩa là muốn ra vẻ ngớ ngẩn cũng không hề đơn giản chút nào, bởi vì ngu si có khi lại hưởng thái bình. Ngày nay xem xét lại chuyện cũ, hồi đó tôi đúng là đầu đất và cần phải đầu đất. Đó là cơ hội để sống còn duy nhất của tôi.