Chương 7

Dịch giả: Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh
Chương 26

     ầu năm 1958, lần đầu nên tôi thấy ở Mao có sự thay đổi. Tính đa nghi vô lý chưa hề thấy ở ông đã xuất hiện, càng ngày càng tăng trong những năm trước khi xảy ra cuộc Cách mạng văn hoá. Sau khi rời Nam Ninh, chúng tôi nghỉ lại ở Quảng Châu dăm tuần, rồi mới bay về Bắc Kinh. Mao tiếp tục gây sức ép với đảng. Sau khi ngừng chiến dịch chống hữu khuynh, để tránh thất bại, lần này những gì còn vướng mắc trong nội bộ đảng cần phải được giải quyết, các đảng viên lần lượt đấu tố lẫn nhau.
Đầu tháng ba, chúng tôi bay tới Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, được coi là vựa thóc của Trung Quốc. Tại đây, Mao đã triệu tập hội nghị đảng.
Chúng tôi nghỉ lại một khu có tên “Đập Bò Vàng” cách thành phố khoảng 7 dặm về phía tây. Cảnh vật ở đây làm người ta liên tưởng đến một vườn bách thảo với những đồng cỏ xanh mướt, những cánh rừng tre bương, những cây thông xanh ngát và những cây trắc bá. Ngoài những cây cọ, những bụi chuối và những cây bưởi mọc hai bên đường, còn có sơn trà và đỗ quyên đầy hoa đỏ rực. Trong thời gian chúng tôi ở đó, trời thường đổ mưa. Sau cơn mưa, những cánh rừng nhiệt đới được một lớp sương mù bao phủ, trông huyền bí giống như một bức trướng phong cảnh của Trung Quốc. Mao kể rằng, một số bài thơ và từ của ông về những khu vườn phủ sương và những triền núi xanh tươi đã được ngẫu hứng sáng tác từ những cảnh vật như thế này.
Tôi rất thích được trở lại Thành Đô. Kể từ kỳ thi tốt nghiệp y khoa cách đó mười bốn năm, tôi chưa bao giờ đặt chân tới thành phố này, quê hương thứ hai của tôi. Tôi mong ước sớm được đến thăm trường Đại học cũ.
Khu đất của trường Đại học Tổng hợp Y khoa Tây-Trung, hồi đó là một thảm thực vật xanh tốt, khi tôi còn là sinh viên. Khu vườn này được coi là lớn nhất, đẹp nhất Trung Quốc lúc bấy giờ. Còn đối với tôi, nó là thiên đường trên trái đất. Giờ đây tất cả đã đổi thay. Một phố lớn chạy qua khu đất trước đây. Nhiều toà nhà bị phá bỏ, những toà nhà còn lại đã đổ nát, các khu vườn không được chăm sóc.
Trường Đại học bây giờ mang tên trường Đại học Y khoa Tứ Xuyên. Khoa xã hội nhân văn chuyển sang trường Đại học tổng hợp Tứ xuyên. Chuyến viếng thăm các bạn học cũ và Tôn Ngọc Hoa, hiện làm hiệu trưởng trường Đại học, đã làm trỗi dậy trong tôi những kỷ niệm xa xưa. Nhưng sẽ rất nguy hiểm cho tôi, nếu tôi tiếp tục thăm viếng những người bạn khác, vì công việc của tôi làm cho Mao rất nhạy cảm, có thể sẽ ảnh hưởng đến việc giữ bí mật đối với hội nghị đảng sắp tới.
Mao tỏ ra thông cảm với sự đa cảm của tôi và ông ngâm một bài thơ nổi tiếng từ thời triều đại Đông Tấn (năm 317- 420 sau công nguyên):
Thắm thiết ôm sông rặng liễu già
Lượn lờ sông Hán vẫn xuôi xa
Liễu buồn rụng lá sông thêm tủi
Đất trời còn vậy huống chi ta.
Mao khuyên tôi nên đến thăm các bạn cũ. Nhưng tôi từ chối.
Sau khi chúng tôi tới chưa được bao lâu. Lý Tinh Toàn, bí thư thứ nhất tỉnh Tứ Xuyên mời Mao tới xem kinh kịch ở một nhà hát trong khu nhà khách. Lúc đầu, Mao còn ngờ vực, ông vốn chỉ thích kinh kịch Bắc Kinh – nhưng ông đã bị buổi biểu diễn thu hút, đến nỗi điếu thuốc trên miệng cháy hết từ lúc nào. Sau hôm đó, tối nào chúng tôi cũng đi xem kinh kịch Tứ Xuyên. Chỉ một thời gian ngắn, tin Mao thích kinh kịch đã đến tai các nhà lãnh đạo đảng ở các tỉnh – họ quan tâm đến thị hiếu của Mao, vì họ muốn được Mao đến thăm, chuẩn bị thật chu đáo cho cuộc viếng thăm của ông. Sau năm 1958, tại các nhà khách của tất cả các tỉnh đều có nhà hát kinh kịch.
Thái độ của Mao đối với bể bơi trong nhà ở Đập Bò Vàng, đã cho tôi thấy sự sợ hãi vô cớ lần đầu tiên của ông. Chiếc bể bơi đặc biệt dành riêng cho Mao được xây dưới sự chỉ đạo của Lý Tinh Toàn, phòng theo mẫu bể bơi có mái che ở Trung Nam Hải. Mao bảo tôi và đám vệ sĩ của ông xuống trước, nhưng chính ông lại cảm thấy không yên tâm. Nhiều lần ông hỏi tôi, liệu bể bơi này có thực sự giống bể bơi ở Bắc Kinh không và có vẻ lo ngại người ta pha thuốc độc vào trong nước. Vậy mà khi bơi chúng tôi chẳng ai bị làm sao. Thái độ của Mao làm tôi thấy tò mò hơn là lo ngại. Mãi đến khi tình trạng bệnh tật của ông xấu đi, hồi tưởng lại, tôi mới tìm ra sự đa nghi quá đáng của ông là nguyên nhân của chứng bệnh hoang tưởng.
Mao không an tâm, vẫn chưa hài lòng với các lãnh đạo đảng bộ địa phương. Ý định làm họ thức tỉnh khỏi trạng thái mê muội và đi theo đường lối của ông chỉ thu được kết quả giới hạn. Mao kêu gọi hội nghị có nhiệm vụ tiếp tục thuyết phục giới lãnh đạo đảng.
Trong phiên họp từ ngày 8 đến 26-3-1958, những cuộc tranh luận ở Hội nghị Nam Ninh lại tiếp tục diễn ra. Các cán bộ đảng phụ trách phát triển kinh tế bị Mao hối thúc. Ông muốn thuyết phục họ rằng, theo kế hoạch, trong vòng 15 năm nữa Trung Quốc phải đuổi kịp nước Anh về kinh tế. Ông cho những chỉ tiêu sản xuất vẫn còn quá thấp, những người lập kế hoạch kinh tế quá thận trọng. Việc quần chúng phê bình đảng đã bị chiến dịch chống hữu khuynh chấm dứt một cách đột ngột vào mùa hè năm 1957, trong khi lòng tin trong đảng đối với của Mao vẫn chưa hồi phục. Ông phàn nàn về sự lãnh đạo chưa toàn diện, đánh giá hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng như “một lũ tôi đòi đần độn”. Ông đòi hỏi mọi người phải có lòng dũng cảm và tính cương quyết.
Việc gần như cuồng tín rập khuôn theo Liên Xô, không cân nhắc khi trích dẫn những tác phẩm của Marx làm Mao vô cùng khó chịu. Ông nói: “Chủ nghĩa Marx đâu phải từ trên trời rơi xuống. Không phải lúc nào cũng phải học những lời răn dạy đó một cách giáo điều rồi nhai lại như những kẻ tôi đòi”. Mao liên hệ phong cách làm việc hiện nay của đảng với đạo Khổng trước đây ở Trung Quốc. Người dân Trung Quốc sùng kính Khổng Tử đến nỗi không ai dám gọi tên ông mà gọi “thánh nhân”. Đảng cũng coi Marx như vị thánh, không dám làm khác lời Marx, đảng đã biến lời của Marx thành thứ kinh thánh. Kết quả hiện nay cũng tương tự như Khổng Giáo trước đây. Chủ nghĩa Marx đã làm tê liệt tinh thần sáng tạo. Marx chính là một Khổng Tử hiện đại, làm cho Trung Quốc què quặt và kìm hãm sự phát triển của đất nước này. Mao rất ghét Stalin, nhưng việc Stalin chỉ trích Marx ông cho là đúng. Stalin biết không phải bất cứ điều gì Marx đưa ra cũng đúng, ông đã dũng cảm biết kết hợp giữa lý thuyết và thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mao cho rằng, đảng đã để cho giới trí thức hù doạ và đã bộc lộ cho chúng thấy sự yếu kém của đảng. Ông nghi ngờ, liệu đảng cộng sản Trung Quốc có thể đảm nhiệm được vai trò lãnh đạo trong công cuộc cải tổ xã hội hay không. Mao bảo:
- Các cán bộ đảng của chúng ta hiểu biết rất hạn chế. Họ hiện sống trong sung túc và chỉ biết ních cho đầy bụng. Năng lực của họ đã chuyển từ trí óc xuống dạ dày.
Tuy nhiên, ông vẫn hy vọng vào lớp trẻ:
- Thông thường lớp trẻ tuy không được học hành vẫn có thể nảy sinh ra những sáng kiến, đưa ra những thuyết mới và lập ra những tôn giáo mới. Khi Khổng Tử mở trường dạy học, thu nhận học trò lúc đó ông mới có 23 tuổi. Trình độ học vấn của Chúa Giê-Su (Jesus) đến đâu không ai rõ, nhưng tôn giáo do ông lập ra đến nay vẫn tồn tại. Shakyamuni đã phát triển những giáo lý của đạo phật khi ông ở tuổi 19. Ngay Tôn Trung Sơn đâu có phải sinh ra đã là nhà thông thái. Ông tham gia cách mạng khi mới chỉ là học sinh cấp 3. Chính Marx đã đề ra lý thuyết chủ nghĩa duy vật biện chứng khi ông còn rất trẻ. Mãi sau này ông mới trở thành học giả. Năm ông 29 tuổi, ông đã xuất bản những cuốn sách công khai tranh luận với những học thuyết nổi tiếng của các học giả lừng danh như Ricardo, Adam Smith và Hegel. Và khi mới 30 tuổi, ông đã viết bản Tuyên ngôn Cộng sản sáng lập ra một học thuyết mới.
Mao nói tiếp:
- Các học giả trẻ tuổi nổi tiếng, nhưng chưa qua trường lớp, thường bị ngờ vực. Tuổi tác cũng như sự non nớt của họ không quan trọng. Điều quan trọng là nhận biết được sự thật và can đảm tiến lên.
Những lời nói của Mao không hề có ẩn ý nào cả. Ông chẳng bao giờ nhận ra rằng, người ta không gọi ông bằng tên mà gọi “Chủ tịch” khác nào người ta gọi Khổng Tử là “Thánh nhân”. Chẳng bao lâu những lời nói của ông cũng sẽ được biến thành những tín điều. Mao thường bóp méo các sự kiện lịch sử nếu chúng có lợi cho mục đích của ông. Chẳng hạn, khi Tôn Trung Sơn bắt đầu hoạt động cách mạng vào năm 1911, ông đã là bác sĩ, một trong những nhà cách mạng cự phách chứ không phải là một học sinh.
Nhiều năm sau, năm 1966, khi Mao phát động cuộc Cách mạng văn hoá và kêu gọi thanh thiếu niên chống lại thày cô giáo của họ và phê bình đảng cộng sản, tôi lại nhớ đến buổi nói chuyện này và những buổi nói chuyện tương tự. Thì ra, Mao đã ấp ủ chiến lược này từ nhiều năm nay.
Ở Thành Đô, Mao vẫn phụ thuộc vào hoạt động của đảng đối với kế hoạch của ông. Ông lại dùng phương pháp đối chất và chỉ trích tất cả những ai phát biểu một cách dè đặt. Ông tìm cách thuyết phục để họ nhận thấy rằng, bác bỏ sáng kiến “tiến vọt” của ông là chống lại chủ nghĩa Marx, như vậy có nghĩa là “hữu khuynh”. Mao thúc đẩy kế hoạch phát triển kinh tế giống như quất roi, thúc đinh vào ngựa bắt nó phi nhanh hơn. Tôi nhớ, lần đầu tiên khi còn ở Thành Đô đã được nghe khẩu hiệu: “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc để xây dựng Chủ nghĩa xã hội với hiệu quả kinh tế cao”.
Những ngày ở Thành Đô, tôi cũng nhận thấy sự thay đổi trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội của Mao. Mặc dù áp dụng hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhưng các giai cấp vẫn tồn tại. Công nhân và nông dân là gia cấp lao động, vì vậy họ là những “người tốt”. Nhưng xã hội vẫn còn tồn tại những tàn dư của chủ nghĩa đế quốc, tàn dư của chủ nghĩa phong kiến và còn tồn tại ý thức tư bản quan liêu cũng như tầng lớp tư sản hữu khuynh. Ngay cả tầng lớp tư sản dân tộc đã từng ủng hộ những người cộng sản trong cuộc chiến đấu chống Quốc dân đảng trước đây vẫn còn và họ có thể chống lại những cải cách xã hội chủ nghĩa. Mao coi giới trí thức là giới tư sản. Mao nói với tôi:
- Người trí thức hay dao động, gió chiều nào theo chiều nấy. Họ đọc lắm sách nhưng chẳng biết gì về đời thực.
Rồi Mao chuyển sang nói về đấu tranh giai cấp.
Theo đánh giá của Mao, hội nghị ở Thành Đô đã thành công. Những chỉ tiêu kế hoạch đã được đặt ra cao hơn và 37 văn kiện mới được ban hành, với việc nâng cao những chỉ tiêu kinh tế thực dụng và bảo thủ trước đây.
Đảng đang đứng trước một cuộc đổi mới, có ảnh hưởng to lớn đến đất nước Trung Hoa. Lời của Mao quả có trọng lượng, ý kiến của ông đầy sức mạnh, đến nỗi ngay cả những người ôn hoà cũng không thể cưỡng lại được. Ai tỏ ra hoài nghi về những chỉ tiêu kế hoạch cao một cách không thực tế, sẽ có nguy cơ bị chụp mũ hữu khuynh. Tham vọng mạnh mẽ của Mao đã buộc những người có những ý kiến khác lần lượt phải câm nín. Những kẻ xu nịnh bắt đầu khoác lác, chấp nhận cả những chỉ tiêu kế hoạch cao hơn, mặc dù chính họ biết không thể nào đạt được. Sự dối trá tràn lan trong đảng và những kẻ nói dối trơ trẽn nhất đã chiếm được vị trí tốt nhất bên cạnh Mao. Nỗi sợ hãi bắt đầu lan rộng.