Chương 7

Dịch giả: Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh
Chương 37

     gày 25 tháng 6, một ngày nắng chói chang, nóng như thiêu như đốt, chúng tôi rời Trường Sa. Chúng tôi đi bằng ô tô trên những con đường làng gồ ghề, bụi bặm, không lát gạch. Xe của chúng tôi không có điều hoà nhiệt độ, nên bụi luồn qua các cửa kính xe đang mở. Đã thế, mồ hôi chúng tôi tuôn ra như tắm, hai tiếng sau, chúng tôi tới trụ sở huyện Tương Đàm, nhìn chúng tôi tới, người ta cứ tưởng chúng tôi vừa ở đầm lầy chui lên. Bí thư huyện uỷ Tương Đàm, Hoa Quốc Phong đã nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi. Đó là lần đầu tiên Mao cũng như tôi gặp người đàn ông mà 15 năm sau trở thành người kế nhiệm ông. Chúng tôi nghỉ ngơi một lúc ở Tương Đàm, trò chuyện với Hoa. Hoa Quốc Phong không đi tháp tùng, vì Mao sợ rằng dân làng Thiếu Sơn sẽ không dám nói hết sự thật khi có người lãnh đạo huyện đi cùng.
Làng Thiếu Sơn cách huyện lỵ Tương Đàm chừng 40 phút ô tô. Mao nghỉ lại ở một nhà trọ cũ nằm trên một quả đồi, trước đây của những người truyền giáo Tin Lành (mỗi một làng vùng sâu vùng xa như Thiếu Sơn đều có nhà thờ dòng Tin Lành). Tôi ngủ trong một ngôi trường nằm dưới chân quả đồi. Đêm đến không khí thật ngột ngạt. Nằm trong màn, tôi cảm thấy chiếc giường tôi đang nằm chật chội đến nỗi tôi không tài nào chợp mắt nổi.
Khoảng 5 giờ sang, Lý Ẩm Kiều gọi tôi dậy. Cả Mao cũng không ngủ được, muốn tôi đi dạo với ông. Chúng tôi gặp nhau trước cửa nhà khách của ông, đi xuống đồi với La Thuỵ Khanh, Vương Nhiệm Trọng, Chu Tiểu Châu và một đám vệ sĩ. Mao đứng lại trước một nấm mộ nằm giữa rừng thông. Đến khi ông cúi xuống có vẻ kính cẩn, tôi mới biết rằng chúng tôi đang đứng trước ngôi mộ của cha mẹ ông. Thẩm Đông, một người trong đám vệ sĩ nhanh nhẹn hái một bó hoa rừng và Mao đặt bó hoa lên trên mộ, rồi vái ba vái. Mọi người vái theo ông. Mao nói: “Ở đây có một tấm bia đá, sau bao nhiêu năm nó đã biến mất rồi”. La Thuỵ Khanh đề nghị nên cho sửa sang lại ngôi mộ nhưng Mao không đồng ý.
- Tôi đến tìm thấy chỗ này là đủ rồi. (Trong cuốn phim về Mao khi Mao thăm Thiếu Sơn lần thứ hai. Mao thấy một tấm bia đá đã được dựng lên).
Chúng tôi liếp tục đi xuống đồi, đến ngôi nhà của gia đình Mao. Mao lại dừng lại ngạc nhiên nhìn quanh và hình như ông muốn tìm kiếm một cái gì đó. Chỗ này trước kia có bệ thờ Phật mà Mao vẫn thường kể. Trước bệ thờ này, thân mẫu ông thường ra đó đốt hương rồi lấy tro để cho Mao ăn mỗi khi đau ốm vì bà tin rằng con trai bà sẽ khỏi bệnh. Cũng như tấm bia đá, chiếc bệ thờ nhỏ đó đã không còn nữa. Mấy tháng trước đây, khi các công xã được thành lập, người ta đã dỡ bệ thờ, bởi vì người ta cần gạch để xây lò luyện kim gia đình và ván gỗ để đốt lò.
Mao lặng đi. Ông rất buồn vì chiếc bệ thờ đã bị phá. Ông nói:
- Tiếc thật, đáng lẽ người ta đừng nên động đến bệ thờ. Những người nông dân đáng thương không có điều kiện đi khám bệnh sẽ có thể đến đây cầu trời và ăn tàn hương. Bệ thờ sẽ mang lại cho họ niềm hy vọng. Con người cần được giúp đỡ và an ủi.
Tôi cười, nhưng ông coi đó là việc nghiêm túc.
- Đồng chí đừng coi thường tác dụng của tàn hương.
Ông nhắc lại, theo ông thuốc chỉ dùng cho những căn bệnh có thể điều trị được.
- Ngược lại, tàn hương mang đến cho người ta sức mạnh để cưỡng lại bệnh. Đồng chí là bác sĩ, đồng chí phải hiểu tâm lý đóng một vai trò quan trọng như thế nào chứ?
Chúng tôi vào thăm ngôi nhà của gia đình Mao. Bấy giờ ngôi nhà đã trống rỗng. Sự sùng bái Mao mới chỉ manh nha, nên ngôi nhà vẫn không có gì thay đổi. Những dụng cụ làm ruộng cũ kỹ vẫn sạch sẽ, xếp thành hàng dưới hiên nhà. Người ta chỉ có thể đọc được những dòng chữ cho biết đây là ngôi nhà mà Mao đã sống thời thơ ấu trên một thanh gỗ bắc ngang ở cửa ra vào. Ngôi nhà được xây theo kiểu đặc trưng của vùng này, nhà tranh vách đất đơn sơ. Với tám căn phòng quanh một chiếc sân. Chắc hẳn ngôi nhà là của một phú nông.
Thửa ruộng đã từng thuộc của thân phụ Mao được một người làm công cày cấy trước kia, bây giờ thuộc về công xã nhân dân. Ngay sau nhà, một cái ao có cây cối bao quanh. Mao nói:
- Tôi thường bơi ở đây và cũng là nơi để cho những con bò uống nước – Mao kể về thời thơ ấu – Cha tôi rất nghiêm khắc. Ông thường nện chúng tôi. Một lần ông định vụt cho tôi mấy roi, nhưng tôi trốn được. Ông đuổi tôi quanh ao và chửi rủa tôi là thằng con bất hiếu. Tôi cũng cãi lại, cha tàn nhẫn thì con mới bất hiếu.
Mao kể thân mẫu của ông, một phụ nữ xởi lởi, tốt bụng, sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Bà cùng với Mao và người em trai của Mao hợp thành một “mặt trận thống nhất” chống lại thân phụ của Mao.
- Cha tôi mất đã lâu. Nếu ông còn sống đến ngày nay hẳn người ta đã quy ông là phú nông và đấu tố ông rồi.
Ông đi thăm họ hàng để tận mắt thấy được kế hoạch Đại nhảy vọt tác động đến họ như thế nào. Chỉ có phụ nữ và trẻ em ở nhà. Còn đàn ông đi làm ở những lò luyện kim xa nhà hoặc ở những đập nước. Thoại nhìn, Mao đã có thể cảm nhận được cuộc sống của các gia đình ở Thiếu Sơn khó khăn như thế nào. Tất cả nồi, chảo đều bị ném vào lò luyện kim, trong làng người ta chẳng giữ lại được cái nào. Mọi người phải đến ăn ở nhà ăn công cộng, bởi vì họ lấy đâu ra nồi để nấu. Nhưng giá mà có nồi niêu, họ cũng không thể nấu ăn được, bởi vì những cái bếp bằng đất của họ cũng đã bị phá đi để làm phân bón cho đồng ruộng. Buổi chiều, Mao cùng đi tắm với mọi người tại hồ chứa nước mới xây ở Thiếu Sơn, chuyện trò với nhân dân địa phương về công trình thuỷ lợi này. Mọi người đều phê phán công trình trên. Bí thư đảng uỷ công xã đã ép mọi người phải hoàn thành hồ chứa nước này quá gấp nên trong hồ đã xuất hiện một chỗ rò rỉ nước. Ngoài ra sức chứa của hồ quá ít ỏi đến nỗi mỗi khi mưa xuống. người ta phải xả bớt để nước khỏi tràn ra ngoài.
Những người lãnh đạo công xã gọi người của họ từ nơi làm việc về, Mao đã mời họ khoảng 50 người đi ăn tối trong một quán trọ. Họ đều phàn nàn về những nhà ăn công cộng. Các cụ già không thích vào đó vì họ thường bị thanh niên chen lấn. Còn những người trẻ tuổi không thích đến đó vì họ không bao giờ được ăn uống no nê. Những trận đấm đá tranh nhau miếng ăn xảy ra liên miên và trong những cuộc ẩu đả đồ ăn thức uống vung vãi tứ tung.
Mao hỏi dò mọi người về lò luyện kim gia đình. Ông chỉ nghe thấy những lời than phiền. Ở khu vực này chẳng có quặng, mỏ gì. Người ta phải khai thác những loại than kém phẩm chất tại chỗ để đốt lò. Đã vậy vì không có quặng sắt nên chỉ còn cách duy nhất để hoàn thành chỉ thị là sung công tài sản của nông dàn. Cho nên thành phẩm ra lò chỉ là những cục sắt vô dụng. Khi Mao ngừng hỏi, căn phòng chìm trong yên lặng. Một bầu không khí ảm đạm trùm lên tất cả chúng tôi. Kế hoạch Đại nhảy vọt Thiếu Sơn đã không thành công. Mao nói:
- Nếu ở nhà ăn tập thể các đồng chí không được ăn no, tốt hơn hãy đóng cửa. Nếu không chỉ lãng phí lương thực. Còn đập nước, theo tôi, mỗi làng cũng chẳng cần có hồ dự trữ nước riêng của mình làm gì. Nếu xây những hồ chứa nước không đúng quy cách có ngày gặp hoạ. Và nếu không luyện được thép có chất lượng cao, tốt hơn các đồng chí đừng nên làm nữa.
Những lời nói của Mao đã hợp pháp hoá việc Thiếu Sơn là làng đầu tiên ở Trung Quốc giải tán các nhà ăn công cộng, đình chỉ việc xây dựng các hồ chứa nước, dỡ bỏ dần những lò luyện kim. Những lời nói của Mao tuy chưa được công bố, nhưng được mau chóng truyền miệng lan đi khắp nơi. Chẳng bao lâu, nhiều nơi những công trình trên đã bị đình chỉ.
Chuyến viếng thăm làng Thiếu Sơn đã đưa Mao trở lại với thực tế. Đến khi chúng tôi trở lại Vũ Hán, niềm cao hứng của Mao đã tiêu tan. Nhưng ông luôn luôn khẳng định, những chương trình chính trị như trên về cơ bản vẫn đúng, có điều người ta phải thực hiện chúng một cách từ từ hơn. Ngay đến lúc này ông cũng không muốn làm nguội đi lòng nhiệt tình của quần chúng. Vấn đề là ở khâu cán bộ. Làm sao người ta có thể đưa những người cán bộ trở lại với thực tế mà không làm tổn hại đến tinh thần của họ, hoặc không tạo ra một bàu không khí nặng nề trong dân chúng? Đó là vấn đề tuyên truyền. Làm sao người ta có thể động viên được cả cán bộ cũng như nông dân mà vẫn làm cho họ đứng vững được. Mao quyết định triệu tập một cuộc họp để bàn về tuyên truyên. Cuộc họp diễn ra ở Vũ Hán.
Ngày 28-6-1959 chúng tôi gặp nhau ở Vũ Hán, nơi có tiết trời nóng như thiêu như đốt. Vương Nhiệm Trọng đề nghị nên họp ở nơi có khí hậu dễ chịu hơn. Ông đề nghị họp ở Thanh Đảo, địa điểm của cuộc họp hồi mùa hè năm 1957, nhưng Mao nhớ đến lần bị cảm nặng ở đó nên đã từ chối.
Kha Thanh Thế, thị trưởng thành phố Thượng Hải đề nghị địa điểm họp ở Lư Sơn, nơi nghỉ mát nổi tiếng ở vùng núi gần sông Dương Tử thuộc tỉnh Giang Tây và cũng là nơi Tưởng Giới Thạch thường triệu tập các cuộc họp của Quốc dân đảng, ở độ cao 1500 mét, tiết trời chắc sẽ mát mẻ, dễ chịu. Ngoài ra, từ Vũ Hán đến Lư Sơn cũng không xa lắm, chỉ cần đi tàu thuỷ dọc sông Dương Tử là tới. Quan trọng là nhiều cán bộ lãnh đạo đảng đã có mặt ở Vũ Hán, nên việc đưa họ đến Lư Sơn không thành vấn đề.
Mao đồng ý đề nghị này. Đảng sẽ họp ở Lư Sơn.

Truyện Chương 7 Lời nói đầu Sơ lược tiểu sử tác giả Chương 1 Chương 1 (tt) Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 sách Mao ưa thích. Hai người đã từng bị Mao phê bình, họ không dám chọc giận lần nữa ngoài việc ủng hộ Mao. Họ ủng hộ Mao không phải vì niềm tin mà vì quyền lợi lâu dài của bản thân, có thể họ đã tính toán kỹ lưỡng hoặc giả ngây thơ, hoặc ngu dốt không nhìn thấy thực trạng nền kinh tế suy thoái đang phát triển trên toàn quốc.
Những người chỉ trích Mao chủ yếu có hai thái độ. Một là, đại diện của những người lập kế hoạch như Bạc Nhất Ba, chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế nhà nước và Lý Phú Xuân, người được giao chức chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch nhà nước. Họ có nhiệm vụ phải thực hiện bằng được những chỉ tiêu về sản lượng và lập ra những kế hoạch phù hợp. Khi bắt đầu thực hiện kế hoạch Đại nhảy vọt, Bạc Nhất Ba đã khước từ việc quy định những chỉ tiêu không thực tế về sản lượng. Nhưng sau đó dưới áp lực của Mao ông đã phải nhượng bộ. Khi Bạc nhận ra được hết mức độ của cuộc khủng hoảng, đã ra lệnh cho ban tham mưu của ông chuẩn bị sẵn một bản tường trình tỉ mỉ và trung thực. Nhưng vì cảm thấy Mao rất khó chịu với những lời chỉ trích, nên ông không dám liều trình bày bản báo cáo với Mao. Trong một trao đổi qua điện thoại, ông đã uỷ nhiệm cho những người dưới quyền trong nước phải hoàn thành vượt mức sản lượng kế hoạch. Ông tin những kế hoạch kinh tế táo bạo của Mao sẽ thất bại, nhưng không dám cả gan thách thức Chủ tịch. Chẳng khác gì Lý Phú Xuân, Bạc Nhất Ba chưa bao giờ dám công khai chỉ trích kế hoạch Đại nhảy vọt.
Nhóm người chỉ trích thứ hai là những người phụ trách các cuộc thanh tra ở các tỉnh, họ biết được cuộc thảm hoạ từ những nguồn tin đáng tin cậy. Họ không những là các nhà kinh tế – kế hoạch, mà còn chịu trách nhiệm thi hành kế hoạch đồ sộ của Mao. Nhưng họ biết cuộc khủng khoảng sẽ trầm trọng ra sao. Những bí thư chính trị của Mao – Điền Gia Anh, Hồ Kiều Mục và Trần Bá Đạt – cũng thuộc nhóm này. Nhiệm vụ của họ, thuật lại trung thực những bản báo cáo.
Khi những người chỉ trích thảo luận, như chúng tôi đã làm trên chuyến du thuyền trên sông Dương Tử, đều nhất trí với nhau, những con số vượt chỉ tiêu sản lượng đã được báo cáo là vô lý và mâu thuẫn. Thực tế, những con số đó rất thấp, họ sẵn sàng báo cáo sự thật, nhưng lại không dám. Phần lớn họ là những kẻ xu thời, gió chiều nào theo chiều ấy. Ngay cả những người như Điền Gia Anh đã từng tham gia thanh tra biết rất rõ sự thật, hoặc người đứng đầu một tỉnh như Chu Tiểu Châu, không những thấy được mức độ của cuộc khủng hoảng ở địa phương của mình và đã chỉ trích cuộc Đại nhảy vọt mà còn chỉ trích cả Mao cũng một giuộc vậy. Trên tàu, Điền Gia Anh đã sẵn sàng tranh luận với Lâm Khắc về những vấn đề của đất nước, nhưng khi những người trung thành với Mao, như Kha Thanh Thế và Lý Tinh Toàn, nhập cuộc với chúng tôi bàn luận, ông ta lại lặng im.
Ngày 1-7-1959, chúng tôi ghé vào bến Cửu Giang thuộc tỉnh Giang Tây. Uông Đông Hưng, người đã ở lại Giang Tây để “cải tạo”, được đề bạt làm phó tỉnh trưởng, lên tầu chào chúng tôi. Ông phấn khởi báo cáo với Mao rằng, nhờ có mối quan hệ mật thiết với quần chúng và từ kinh nghiệm này ông đã học được nhiều điều quan trọng. Chủ tịch rất vui. Ông nói:
- Chỉ những cán bộ cao cấp thường không chịu liên hệ với quần chúng. Chúng ta phải sửa lại, mỗi người làm việc ở trung ương, thỉnh thoảng cần phải xuống làm việc ở các cơ quan của tỉnh.
Con đường cao tốc từ Cửu Giang đến Lư Sơn được rải nhựa rất tốt. Sau hơn một giờ đồng hồ chúng tôi đã đến vùng nghỉ mát mở rộng ở triền núi núi. Dương Thượng Côn, bí thư thứ nhất Trung ương đảng, Phương Chí Xuân, Chủ tịch Hội nghị đại biểu nhân dân tỉnh Giang Tây và phó tỉnh trưởng Uông Đông Hưng đã lo việc tiếp đón chăm sóc các vị lãnh đạo đảng. Trong khi Uông thi hành những biện pháp an ninh bảo vệ Mao, ông đã va chạm với Vương Kính Tiên. Vương vờ không tuân lệnh Uông, vì đã lâu Uông Đông Hưng không ở cùng Mao, do đó không hiểu Chủ tịch. Uông Đông Hưng không bao giờ tha thứ cho sự xúc phạm này. Sau này Vương Kính Tiên đã phải trả giá.
Mao sống trong một biệt thự hai tầng cũ của Tưởng Giới Thạch. Tôi được thu xếp ở trong một ngôi nhà gần đó. Ở đây lạnh và ẩm. Chúng tôi ở trên cao, nên những đám mây có thể ùa vào phòng nếu mở cửa sổ.
Hôm 2-7-1959, một ngày sau khi chúng tôi đến, Mao triệu tập Bộ chính trị họp mở rộng. Ông đặt tên cho cuộc họp là “Hội nghị Bàn Tiên”. Chúng tôi giống như những ông tiên sống giữa những đám mây, chẳng bận tâm lo lắng gì, muốn gì được nấy. Mao không muốn nội dung cuộc họp cứng nhắc. Những người lãnh đạo đảng có thể nói ra tất cả những gì còn chất chứa trong lòng. Ông đưa ra 19 điểm để tranh luận, khuyến khích những người tham dự được tự do phát biểu thẳng thắn.
Bắt đầu cuộc họp, Chủ tịch biết, sẽ có vấn đề chưa ổn đối với kế hoạch Đại nhảy vọt, nhưng cho rằng mọi người đã sẵn sàng đưa ra những biện pháp để điều chỉnh, giải quyết, không có lý do gì để lo ngại. Trong bài diễn văn ngắn chào mừng, ông đã ca ngợi thành quả của kế hoạch Đại nhảy vọt, ám chỉ đến những khó khăn, hy vọng những người tham dự cuộc họp biết đánh giá sức mạnh và tính sáng tạo của dân tộc Trung Hoa.
Mao tự tin kế hoạch Đại nhảy vọt sẽ không đổ vỡ. Tôi không rõ ông biết tình hình thực tế ra sao mà lại phát biểu như vậy. Chuyến về thăm quê rõ ràng đã làm cho ông hiểu vấn đề. Tất nhiên ông hiểu rõ sự thất bại, thiếu thốn lương thực thực phẩm một cách trầm trọng, biết rất nhiều nơi dân không còn thóc gạo, đã sẵn sàng thảo luận tìm ra biện pháp giải quyết. Nhưng tôi nghĩ trong lời phát biểu ngày 2-7-1959, ông vẫn còn chưa rõ tình hình khủng hoảng đã tới mức độ nào, vẫn nghĩ đảng đã làm tất cả để làm chủ tình thế.
Trong “Hội nghị Bàn Tiên”, một mặt, những đề nghị giải quyết vấn đề được tranh luận. Nhưng mặt khác cũng phải tìm ra cách giữ vững sự nhiệt tình của quần chúng. Để giải quyết khó khăn này, Mao kêu gọi quần chúng thắt lưng buộc bụng hơn nữa.
Những điều tôi ghi nhận được là ông đã từng nói:
Chương 31 Chương 32 Chương 34 Chương 36 Chương 37 Chương 38 Chương 39 Chương 40 Chương 41 Chương 42 Chương 43 Chương 44 Chương 46 Chương 45 Chương 46 Chương 47 Chương 48 Chương 50 Chương 51 Chương 52 Chương 53 Chương 54 Chương 55 Chương 56 Chương 57 Chương 58 Chương 59 ng.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn2n4nqn3n31n343tq83a3q3m3237nnnmn')" onMouseOut="#">Chương 39
--!!tach_noi_dung!!--