Chương 7

Dịch giả: Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh
Chương 43

     ông Đông Hưng quay về Trung Nam Hải tháng 10-1960. Uông đã tĩnh tâm suy xét sau những năm bị đầy ải khốn khổ và hoàn thiện thêm năng khiếu chính trị sắc bén vốn có, giờ đây ông nắm chặt nguyên tắc mới, sống còn về chính trị, “tuyệt đối phục tùng Mao bằng mọi giá”. Không bao giờ nói “không” đã trở thành quy tắc ứng xử của Uông. “Nếu Mao bảo một, nghĩa là một. Nếu Mao bảo hai, nghĩa là hai”. Từ nay trở đi, Uông tin Chủ tịch luôn luôn tuyệt đối đúng. Uông không muốn bị đi đầy lần nữa và cũng không muốn phạm phải thêm sai lầm một lần nữa.
Sự phục tùng Giang Thanh là sai lầm đầu tiên của Uông, lẽ ra ông có thể tránh được. Trước khi bị đầy đi Giang Tây, Uông thi hành mệnh lệnh của Giang Thanh như mệnh lệnh của Mao. Nhưng đòi hỏi Giang Thanh không có giới hạn, dù Uông thực hiện mọi ý muốn của bà. Giang Thanh vẫn phát biểu chống ông. Mao phê bình, bảo: “Nếu anh theo yêu cầu của Giang Thanh, hãy sang làm với bà ấy chứ đừng làm với tôi nữa”. Thế là Uông giờ đây chỉ nghe Mao. Giang Thanh không thể doạ nạt ông thêm được. “Tôi đã bị hạ cấp xuống 4 năm – ông nói – đã không chết. Giờ đây nếu tệ nhất cũng chỉ đến đi đầy như xưa là cùng. Như thế nếu nghĩ rằng có thể thúc ép tôi như cũ, bà ta sẽ nhầm, chỉ có trong giấc mơ thôi”.
Nhiệm vụ đầu tiên của Uông củng cố quyền lực trong Nhóm Một bằng cách thanh lọc kẻ thù, lựa chọn những người trung thành tuyệt đối. Chuyện tham nhũng trong Nhóm Một lùm xùm từ lâu, gia tăng đến mức Mao cũng không thể làm ngơ, nên ông đành tạo điều kiện cho Uông chỉnh đốn sai lầm trong chiến dịch thanh lọc nội bộ.
Trước đây, Uông Đông Hưng từng bị dính đến tham nhũng với Nhóm Một. Đầu những năm 50, khi đảng tuyên truyền cán bộ đảng viên trong sạch, Uông bị buộc tội tham nhũng, bê tha. Uông đã nhận phê bình thành khẩn và được biểu dương cán bộ gương mẫu.
Tuy nhiên năm 1952, khi bộ trưởng Bộ công an La Thuỵ Khanh bắt đầu chiến dịch “ba chống”, chống tham nhũng trong nội bộ, Uông lại dính. Một lần, La Thuỵ Khanh triệu tập thành phần lãnh đạo chủ chốt bộ công an, yêu cầu ai có lỗi đứng lên tự phê bình. Tất cả im lặng. Thời gian trôi qua, chẳng ai phát biểu.
- Uông! – cuối cùng La lên tiếng – Vì sao anh không nói? Chẳng lẽ anh không có vấn đề gì để nói cho chúng tôi hay sao?
Uông, một dòng họ khá phổ biến ở Trung Quốc. Đông Hưng cũng không phải là tên duy nhât của Uông trên hội nghị. Cả hai Uông liếc nhìn nhau, không nói gì.
- Uông Đông Hưng, Vì sao anh liếc nhìn người khác thế? – La rời ghế chủ tịch đoàn, đi xuống – Tốt nhất, anh nên tự phê bình, nếu không sẽ rất nguy hiểm về sinh mạng chính trị đấy!
Uông Đông Hưng sau này kể tôi nghe vụ việc.
- Anh ăn cắp một cái gì đó của Chủ tịch và bán nó, đúng thế không? – La hỏi.
Uông Đông Hưng không thể hiểu La định nói gì.
- Anh lại còn im lặng, thậm chí sau gợi ý của tôi? – La dồn – Hãy nhìn xem, cái gì đây? – La giữ trong tay tập giấy.
Đó là bức thư của cửa hàng xác nhận, Uông Đông Hưng lấy máy ảnh của Mao bán cho cô. Hoá đơn kèm theo có chữ ký của Uông Đông Hưng.
Nhưng Uông không lấy máy ảnh của Mao, cũng không biết gì về việc này. Tên trên hoá đơn là tên ông, nhưng chữ ký không phải. Cuối cùng Uông đã chứng minh rằng chữ ký là giả.
Thông thường Mao nhìn nhận sự tham nhũng bình tĩnh hơn Uông. Sự thật thà không làm Mao quá quan tâm. Nếu người có lỗi, nhưng thực sự làm được việc, hữu ích cho ông, chẳng may phạm tội dù lớn hay nhỏ, Mao sẽ bảo vệ. Nhưng khi người đó trở nên vô dụng, Mao trừng phạt không thương tiếc. Dù người đó là trợ lý hay đồng minh chính trị thân cận cũng có thể trở thành kẻ thù của lãnh tụ chỉ sau một đêm.
Mao cũng không còn hài lòng Diệp và Lý, nhưng hai người lại biết qua nhiều đời tư, nếu bị dồn tới chân tường, họ cũng thể liều lĩnh bung hết bí mật. Tuy nhiên, Mao tìm cách đáp trả họ một cách bí mật, khôn khéo.
Mục đích chính của Uông quay về Nhóm Một là thâu tóm quyền lực, tống khứ hai kẻ thù Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều ngay lập tức. Nhưng cả hai người tìm cách thông qua Mao để trừng phạt ông. Uông buộc tội họ làm ông bị đày ải 4 năm. Bây giờ trờ về Trung Nam Hải, đến lượt Uông trả đũa hai người.
Tuy nhiên tôi tin Uông không chỉ khát mộng trả thù, còn vì những cảnh đời thực tế ông đã trải qua. Tại vùng nông thôn Giang Tây, Uông thấy tận mắt sự khổ cực, sự vất vả của nhân dân và bản thân đã nếm mùi cay đắng như thế nào, trong khi đặc quyền, đặc lợi được dành cho Nhóm Một như đã xát muối vào vết thương cũ. Điều quan trọng hơn, nạn đói cuối cùng đã tràn vào Trung Nam Hải. Bên trong những bức tường màu châu sa, ngăn cách bao bọc nhóm người được hưởng đặc quyền đặc lợi cũng không tránh khỏi tình trạng đói kém trong cả nước.
Khẩu phần của chúng tôi giảm xuống còn 16 cân (một cân = 0,454 gram) ngũ cốc trong một tháng. Thịt, trứng, dầu rán nói chung không có. Nhà bếp được phép mua rau quả ở chợ, nhưng ở đó cũng thật hiếm hoi, không nhiều. Một số người tổ chức đi săn dê rừng, nhưng rồi chẳng bao lâu dê rừng cũng trở nên hiếm.
Nạn đói tấn công Trung Nam Hải, bệnh phù thiếu dinh dưỡng và viêm gan bùng phát. Gia đình tôi chịu nhiều tổn thất. Lý Liên có dấu hiệu suy dinh dưỡng, bắt đầu phù thũng nhưng lo cho các con hơn lo cho bản thân. Thỉnh thoảng tôi mang v5
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 34
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 46
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • nhà một ít hạt đậu tương, vợ tôi dành tất cho tụi trẻ. Những chuyến đi cùng với Mao tới các tỉnh thành, tuy làm nhà tôi buồn, nhưng bù lại, trở thành ngày vui của gia đình. Mỗi khi tôi vắng mặt, khẩu phần ăn gia đình khá hơn, vì vẫn được nhận 16 cân gạo tiêu chuẩn của tôi.
    Mao, tất nhiên, không phải đương đầu với nạn đói, mọi người cố tình dấu nhẹm, nhưng rồi ông cũng đã biết sự nghiêm trọng của khủng hoảng lương thực. Các tài liệu ông nhận được hàng ngày giờ đây không cho phép ông tránh né sự thật. Khắp mọi miền đất nước tin tức đưa về, từ mùa hè năm 1960, tin xấu đã đè nặng Mao đến nỗi ông nằm bẹp dí gần như không ra khỏi giường. Ông cảm thấy không còn đủ minh mẫn để hiểu được làm thế nào chấm dứt nạn đói. Khi tôi báo cáo cho ông về bệnh phù thũng do thiếu dinh dưỡng và viêm gan lan rộng, Chủ tịch buộc tội tôi quấy rối, gây khó khăn cho người khác.
    - Đồng chí là bác sĩ chẳng có việc gì hơn là doạ mọi người – Mao nói đốp vào mặt tôi – Đồng chí chỉ có mỗi việc là đi bới bệnh. Nếu người ta không đau ốm, chắc hẳn đồng chí sẽ thất nghiệp?
    Tôi trả lời, bới bệnh không phải công việc của bác sĩ, nhưng chúng tôi đã phải đối mặt với những bệnh nhân do thiếu ăn đến khám bệnh hàng ngày. Mao bảo:
    - Khác cái gì nảo? Chúng ta đang ở trong nạn đói. Còn các bác sĩ, chỉ làm người ta rối lên, toàn nói đến bệnh tật. Đồng chí tạo ra những khó khăn cho mọi người. Tôi không tin đồng chí.
    Mao đưa tôi tập Bản tin Nội bộ, trong đó có những bài nhận định, đời sống nhân dân đã được cải thiện, lượng đạm và các thành phần chất bổ đang tăng lên chống nạn đói. Dương Thượng Côn bắt đầu đưa ra khẩu hiệu, “phát huy tinh thần Vạn Lý Trường Chinh”. Ông ta khuyên chúng tôi bình tĩnh chấp nhận khó khăn, phải biết tự tin, nên tham gia trồng rau và dưa hấu tự cải thiện đời sống gia đình.
    Chẳng mấy chốc tất cả chúng tôi trồng những luống rau, nhiều người xin nghỉ phép chăm sóc vườn rau nho nhỏ quý giá. Dù vậy dạ dày của chúng tôi vẫn luôn luôn không đầy. Các vườn rau không làm giảm bệnh phù thũng do đói ăn và bệnh tật đang hoành hành.
    Tôi nghĩ Mao thật vô lý, nhắm mắt không nhận ra bệnh tật đang lan truyền quanh ông. Nhưng tôi chấp nhận ảo tưởng của ông, không bao giờ đả động đến đề tài này và cũng không nói khi Chủ tịch có mặt, làm như nạn đói và bệnh tật đột nhiên đã biến mất một cách siêu thần. Mao vẫn tức một số cán bộ cao cấp của đảng, người mà ông gọi là “phía tiêu cực” của mọi vấn đề. Mao thường nhắc lại:
    - Họ càng nói nhiều về phía đen tối của vấn đề, họ càng đến gần chỗ tối tăm.
    Mao coi những người lãnh đạo hay nói về khó khăn để làm áp lực đè nặng lên vai ông.
    Mao chỉ làm một sự nhượng bộ duy nhất đối với nạn đói, ông ngừng ăn thịt. Ông nói:
    - Mọi người bị đói. Trong hoàn cảnh này tôi không thể ăn thịt được.
    Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai sợ rằng việc này làm hại sức khoẻ Mao, khuyên tôi tác động đến lãnh tụ.
    Khi một số tỉnh đông bắc gửi biếu các nhà lãnh đạo cao cấp đất nước thịt hổ và thịt nai, tôi khuyên Mao nên ăn. Ông từ chối.
    - Đem cho bếp ăn tập thể – ông ra lệnh.
    - Liệu chúng tôi để lại cho Chủ tịch một ít được không? – tôi hỏi.
    - Giờ đây tôi không ăn thịt – Mao đáp – Chờ một thời gian nữa.
    Việc từ chối không ăn thịt chẳng làm giảm sự đói kém. Chỉ có một số người trong Trung Nam Hải được ăn khá hơn, vì Mao chia xẻ phần thịt hổ, thịt nai còn người dân vẫn thế. Chủ tịch hy vọng mọi người trong giới lãnh đạo đánh giá cao cử chỉ và hành động này của ông.
    Lợi dụng cảnh đói kém, Uông Đông Hưng ra tay phát động chiến dịch sắp xếp, cải tổ nội bộ Nhóm Một. Sự đặc quyền đặc lợi của Nhóm Một chưa bao giờ bị cắt giảm ưu đãi cho những đồng chí làm việc trong Trung Nam Hải. Ai cũng biết chúng tôi thường xuyên hưởng ưu tiên đặc biệt, được ăn uống miễn phí. Họ có thể nhìn thấy đồng hồ Rolex, máy ảnh Leica, tịch thu từ bọn gián điệp Đài Loan xâm phạm đất liền, của lực lượng an ninh bán cho chúng tôi. Họ cũng biết chúng tôi được quyền dùng đồ sa sỉ, sang trọng như com-lê dạ, áo lụa, giầy da những thứ người dân thường không thể mua được. Cuộc sống chúng tôi vẫn đầy đủ, rực rỡ đầy sang trọng ngay trong thời kỳ đói kém, chỉ gây lên sự tương phản trái chiều, xa cách giữa chúng tôi với các đồng chí khác.
    Để tăng quyền lực Nhóm Một, Uông Đông Hưng tấn công vào đặc quyền đặc lợi này. Uông chĩa mũi dùi vào Lý Ẩm Kiều.
    - Diệp Tử Long và tôi chức vụ ngang hàng nhau, nhưng Diệp làm việc cho Chủ tịch lâu hơn tôi – Uông giải thích – Nếu tôi phát biểu chống ông ta, tôi sẽ bị ông ta gây khó dễ.
    Nếu Uông tấn công đồng thời cả hai, họ có thể liên kết với nhau. Chiến thuật của Uông cô lập Diệp, tập trung chĩa mũi dùi vào Lý Ẩm Kiều.
    Mao đồng ý, Diệp Tử Long chưa cần phải đánh công khai. Tất cả lời buộc tội được xem xét kín đáo dưới dạng văn bản.
    Khi Uông Đông Hưng chưa cần nhắc đến chuyện nhân tình Lý Ẩm Kiều cũng đã quá sợ hãi. Tình hình trở lên rất tế nhị. Hậu quả của việc đưa ra công khai chuyện phá thai ở Quảng Châu không thể nói trước được. Nếu lộ ra, Uông cũng sợ Lý do quá xấu hổ có thể tự sát.
    Cuộc phê bình Lý Ẩm Kiều bắt đầu cuối tháng 10-1960, kéo dài hai tháng. Họp hành liên tục 2-3 giờ một ngày. Người ta tiến hành họp lúc Mao ngủ, khi các nhân viên rảnh rỗi không phải làm việc. Ít người biết về vai trò của Chủ tịch trong chiến dịch thanh trừng nội bộ, bởi vì những cuộc kiểm điểm chỉ xảy ra khi ông ngủ. Ông sử dụng các vệ sĩ của mình để điều khiển tất cả màn kịch bằng cách nhận tin tức hàng ngày và xúi ai nói và nói cái gì. Vệ sĩ Tiểu Chương kể về việc Lý Ẩm Kiều vào cửa hàng ở Thượng Hải và ngạc nhiên thấy Lý móc tiền ra mua hàng.
    Việc huy động tất cả nhân viên chống Lý Ẩm Kiều thật dễ. Vì Lý có đủ các kẻ thù, người đã từng sợ hãi tính cách kiêu căng, lỗ mãng của Lý. Nhưng những chuyện đình đám nhất vẫn chưa nổi lên trên mặt nước. Ai cũng ngại làm mất danh dự Lý quá nhiều. Tôi cũng hạn chế phê bình, chỉ đề cập đến sự lạm đụng đặc quyền một cách chung chung mà chúng tôi ít nhiều được hưởng như khách sạn thanh lịch trong chuyến đi, thức ăn ngon lành, phục vụ miễn phí, được mua đồ xa xỉ. Còn về vụ nạo thai ở Quảng Châu tôi lờ tịt.
    Nhưng cuộc thanh trừng nội bộ này có hậu quả không lường. Khi mà Diệp Tử Long tưởng rằng mình thoát khỏi phê bình, thì sự giàu có phi lý của ông đã lộ ra, trở thành yếu tố quan trọng chống lại ông. Ví dụ như ngôi nhà của Diệp ở Điền Trang, nơi thường được tổ chức ăn uống gặp mặt với các quan chức cao cấp, mà những người vạch tội, gọi “nhóm bạn nhậu”, dùng tiền công quỹ mở tiệc nhậu nhẹt. Diệp Tử Long lo ngay ngáy vì sợ chuyện này bị phanh phui.
    Sau một đêm, Uông Đông Hưng đã trở thành vị anh hùng của Trung Nam Hải, ông dám thách thức, cả gan đấu tranh với những người có quyền lực, tiếng tăm của Uông nổi như cồn. Chu Ân Lai và Lưu Thiều Kỳ rất hài lòng.
    Phán xét, kết luận thuộc thẩm quyền của Mao. Sắp sinh nhật 67 tuổi của ông, ngày 26-12-1960.
    Hai ngày trước sinh nhật, Uông Đông Hưng trình Mao kết quả điều tra. Uông báo cáo, một số nhân viên làm việc lâu năm quanh lãnh tụ đã phớt lờ nỗi thống khổ của nhân dân, trở thành những người hưởng đặc quyền, đặc lợi. Trong khi nhân dân cả nước chịu khổ cực, họ tổ chức tiệc tùng hoang phí, đi lại, ăn uống bằng tiền ngân khố nhà nước, sử dụng chức vụ của mình để mua những hàng hoá quý hiếm không bán trên thị trường. Họ đã gây tiếng xấu cho Nhóm Một.
    Ngày sinh nhật Mao, có mặt Diệp Tử Long, Lý Ẩm Kiều, Vương Kính Tiên, Lâm Khắc, thư ký riêng Quang Trị, y tá trưởng Ngô Tự Tuấn và Uông Đông Hưng. Lúc ấy, tôi ở Quảng Châu với Giang Thanh, nhưng Uông Đông Hưng sau này kể tôi nghe.
    Vì Chủ tịch không ăn thịt nên bữa cơm đạm bạc. Trong bữa ăn, Mao bắt đầu kể chuyện lịch sử thời kỳ Chiến Quốc (403-221 trước công nguyên), Từ Thanh đến thăm bạn cũ Thương Ưởng, tể tướng triều Tần. Từ Thanh đang rất túng quẫn, hy vọng Thương Ưởng giúp ông xếp cho việc làm. Thương Ưởng cho người tiếp bạn vào một nhà khách sang trọng, (giống như khách sạn hiện đại Bắc Kinh ngày nay – Mao giải thích), tiếp đón rất ân cần, nhưng Thương Ưởng không ra gặp ông. Sau hai tháng sống trong nhà khách sa hoa, Từ Thanh cũng chẳng thấy tể tướng đến. Ông đành trở về, hoàn toàn tin tình bạn quý báu, ưu ái của hai người đã hết.
    Sau khi về nhà, ông thấy nhà mình đã được sửa chữa lại, khang trang và đẹp hơn. Bếp đầy thức ăn. “Tể tướng Thương Ưởng chưa muốn tiếp ông, vì Tể tướng biết ông tài năng có thể thực hiện những kỳ công lớn” – Vị thượng thư giải thích – Tể tướng cử ông tham gia trong sứ bộ ngoại giao. Tể tướng muốn ông làm thuyết khách viếng sáu nước lân bang, khuyên họ đừng tấn công nhà Tần”. Từ Thanh sung sướng nhận nhiệm vụ thuyết khách, ông đã thành công cứu nhà Tần khỏi bị tấn công.
    Mao cũng gửi nhân viên của mình làm sứ mạng ngoại giao. “Thậm chí những người bạn tốt không cần sống gần nhau – ông nói – Mỗi người phụ thuộc vào bản thân mình, chúng ta cần phải làm việc thực hiện kỳ công lớn. Nước ta đang chịu đựng thử thách lớn. Thực tế đang lâm vào tình trạng khủng hoảng thiếu trầm trọng. Dân đang đói khổ”. Mao muốn, các bạn ông xuống làm việc chung với tầng lớp tận cùng xã hội, chia xẻ số phận với nhân dân, có thế họ mới thấu hiểu khó khăn của ông. Rồi sau đó họ sẽ báo cáo cho Chủ tịch tất cả cái gì họ biết.
    Không một ai trong số những người có mặt trong bữa ăn muốn ra đi. Uông Đông Hưng, tất nhiên, được ở lại. Nhưng Mao muốn Diệp Tử Long, Lý Ẩm Kiều, Vương Kính Tiên và Lâm Khắc ra đi, kể cả thư ký riêng Quang Trị, vệ sĩ Phong Dân Chung. Đây là cách giải quyết công bằng, hợp lý. Phái hữu khuynh gồm Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều, phái trung hữu Vương Kính Tiên và phái tả khuynh Lâm Khắc phải ra đi.
    Mao đề nghị có thể bổ nhiệm cho Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều về Sơn Đông và Hồ Nam. Đây là hai tỉnh năng động, đã tiến hành chính sách Đại nhảy vọt, nhưng giờ đây cả hai tỉnh trong tình trạng đói kém. Mao nghĩ, tình hình kinh tế Hồ Nam không xấu như Sơn Đông. Mao vừa nhận báo cáo từ vùng Thạch Ninh buộc tội bọn phản cách mạng và các phần tử phong kiến phá rối kinh tế. Tất cả vẫn chưa đủ năng lực tìm hiểu thực tế tình hình kinh tế xấu đến mứa độ nào và vì sao, Mao cho rằng chính bọn phản cách mạng gây suy yếu sản xuất. Ông tự coi mình như Thương Ưởng thời hiện đại, gửi những người bạn mình làm sứ giả quan hệ ngoại giao, để tránh cuộc tấn công của bọn phản cách mạng trong tương lai. Ông động viên Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều đi về Thạch Ninh:
    - Hãy đến đó – ông vạch đường cho họ – Nếu việc được giao quá khó với các đồng chí, hãy quay lại. Đừng lo. Không ai chết đâu.
    Mao quả là một nghệ sĩ tài ba. Ông tống khứ một số chủ chốt trong đám nhân viên bằng cách gửi họ xuống vùng khó khăn, vất vả, tuy ông ra tay thanh trừng nhưng vẫn muốn họ giữ lòng trung thành. Do đó, ông vờ vịt coi họ là những người bạn thân thiết, buộc phải cử họ đi là ngược lại sự mong muốn của ông, chỉ vì ông cần họ giúp đỡ mà bắt buộc phải làm như vậy.
    Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều tin Mao. Họ cảm ơn ông đã tạo điều kiện tốt, dù thực lòng không muốn. Cả hai lần chần, dây dưa muốn ăn tết ở Bắc Kinh. Nhưng Mao ra lệnh họ phải đi cuối tháng 12. Ông muốn thấy công việc được tiến hành sớm.
    Trước khi họ đi, Uông Đông Hưng tìm cách bổ xung vào danh sách một kẻ thù của ông, Lương Đào Sơn, người hộ tống tôi vào “Đại học lao động” năm 1949. Trong thời gian Uông bị đuổi, Lương Đào Sơn tạm thời thay thế giữ chức giám đốc Văn phòng Bảo vệ trung ương và tìm mọi cách để ngăn cản Uông quay lại. Uông phục đúng lúc để trả thù. Lương Đào Sơn trở thành nạn nhân của trò đùa chính mình.
    - Nhiều người Nhóm Một được gửi xuống dưới để sửa khuyết điểm. Khi nào những người còn lại đợi cơ hội của chúng tôi?
    Lương châm chọc Uông Đông Hưng khi công bố danh sách. Lời châm chọc dí dỏm này quả là đắt giá.
    - Tôi sẽ nói chuyện với Chủ tịch xem liệu có thể để đồng chí đi bây giờ được không.
    Uông trả lời, giả bộ không hiểu ý Lương. Cả Mao cũng gửi Lương Đào Sơn xuống nông thôn.
    Bằng sự thuyên chuyển Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều, Uông kiểm soát hoàn toàn Nhóm Một. Một trong số phó của Lý Ẩm Kiều, Trương Tăng Bành được cử làm phó đội trưởng bảo vệ Mao. Mao Bắc Trung và Tiểu Chu làm phó giám đốc mới Văn phòng bảo vệ trung ương. Người tin cẩn của Uông, Ngô Giang Hoa, làm sếp văn phòng, Ngô Tự Tuấn làm y tá chính của Mao, hàng ngày cô thông báo Uông Đông Hưng về tất cả các hoạt động của Chủ tịch.
    Khi thâu tóm xong tất cả quyền lực ở Nhóm Một, Uông Đông Hưng tiến hành chiến dịch chống Bành Đức Hoài, để khôi phục quyền kiểm soát Văn phòng Bảo vệ trung ương và đội cận vệ. Gồm hơn hai nghìn người lính đặc nhiệm được đào tạo và trang bị tốt, đảm bảo an ninh bên ngoài cho Mao, cho lãnh đạo cao cấp khác và bảo vệ các cơ quan then chốt của đảng. Bởi vì đa số những người thuộc hai cơ quan này là thuộc hạ Bành Đức Hoài khi ông còn nắm quyền, Uông tin rằng họ có thiện cảm với Bành, phái hữu khuynh. Viện cớ, Mao cần được bảo vệ, phải được tin tưởng tuyệt đối, Uông Đông Hưng đặt người phục tùng mình vào các vị trí then chốt Văn phòng bảo vệ trung ương, bằng cách giữ đồng minh của mình Trương Ưu Dự và Giang Đăng Trung ở vị trí tư lệnh và chính uỷ đội bảo vệ trung ương.
    Dù quyền lực tăng lên, Uông không dẹp nổi sự tham nhũng. Đầu năm 1961, ngay sau cuộc thanh lọc, Mao dừng lại vài ngày ở Trường Sa gặp gỡ Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai trong đoàn tầu. Bí thư tỉnh uỷ mới của Hồ Nam, Trương Bình Hoa và trưởng ty công an tỉnh chịu trách nhiệm bảo vệ cuộc gặp của ba lãnh đạo. (Trương Bình Hoa được bổ nhiệm sau khi Mao cách chức Chu Tiểu Châu, người công khai đứng về phía Bành Đức Hoài ở hội nghị Lư Sơn). Mọi chi phí về phục vụ Mao và người tháp tùng đều do chính quyền trung ương trả. Uông Đông Hưng thường ký thanh toán.
    Lần này khi nhận bản thanh toán, Uông ngạc nhiên thấy tính vào tài khoản Chủ tịch là hai nghìn con gà. Con số này gây nên nghi ngờ. Hồ Nam ở trong vị trí tốt nhất hơn nhiều tỉnh khác, nhưng nạn đói đang dữ dội, món thịt gà vẫn thuộc món ăn xa xỉ ở Trung Quốc, hầu như không thể mua nổi. Dù có thu mua được, những người tháp tùng không thể ăn hết lượng gà nhiều đến thế trong một số ngày ở đó. Ngoài ra, Mao và nhân viên của ông không ăn thịt. Trương Bình Hoa đồng ý hoá đơn sai. Có thể chỉ hai mươi con gà, chứ không phải hai nghìn con.
    Nhưng con số 2 ngàn hoàn toàn đúng sự thật, chẳng có gì sai cả. Đoàn tàu của Chủ tịch được 15 nghìn lính bảo vệ. Trời thì lạnh, lính đang chịu đói. Trưởng ty công an tỉnh đặt hai nghìn con gà để nuôi nhóm bảo vệ. Linh đặc nhiệm cũng chỉ là những người bình thường, không ai cho họ đặc quyền ăn gà, thậm chí Mao cũng phải từ chối ăn thịt.
    Chính quyền tỉnh không khi nào được phép chi tiêu tốn kém đến như thế, nếu như phải trả tiền. Nhưng sếp công an tin rằng đây là lộc của Chủ tịch dành cho sự phục vụ của họ. Tương tự như Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều thường làm, lần này lãnh đạo tỉnh Hồ Nam cũng cứ tiền trảm hậu tấu. Uông Đông Hưng đành chấp nhận thanh toán, nhưng bực lắm.

    *

    Sau khi kết thúc tái tổ chức, Uông Đông Hưng hoàn toàn điều khiển Nhóm Một, Văn phòng bảo vệ trung ương và đội bảo vệ trung ương – ba cơ quan quan trọng chính ở Trung Nam Hải. Quyền lực và địa vị Uông tăng lên, ông trở thành nhân quan trọng trong nội chiến cung đình Bắc Kinh. Gần sáu năm trôi qua, từ khi bắt đầu Cách mạng văn hoá, Mao yêu cầu được quân sự hoá một số đơn vị để chiếm các xí nghiệp quan trọng và các trường Đại học ở Bắc Kinh. Ông cho phép Uông Đông Hưng tăng thêm sức mạnh quyền lực.
    Trong thời gian đó, Uông chăm sóc Chủ tịch nhiều hơn. Khiêu vũ trước đây mỗi tuần một lần vào thứ bảy, giờ đây hai lần – thứ tư và thứ bảy. Uông tăng số ban nhạc và “đội văn công” để đảm bảo giải trí trong buổi dạ hội được vui vẻ, nhưng thực chất tăng số phụ nữ đến với Mao.
    Từ khi Uông trở lại, Lực lượng không quân, Quân khu Bắc Kinh, Tổng cục chính trị Giải phóng quân, Sư đoàn pháo binh II và Sư doàn công binh xây dựng đường sắt – tất cả phải đảm bảo có ban nhạc, dàn đồng ca, vũ nữ. Tại toà nhà Hội nghị Đại biểu toàn quốc mở cửa nhân ngày quốc khánh 1959, gian số 118 đẹp nhất, gian Bắc Kinh, được trang bị đặc biệt cho Mao và một số gái trẻ trong số nhân viên phục vụ thư giãn lãnh tụ. Mao không cần mối lái như xưa.
    Khó mà nghĩ, hàng ngày xài nhiều cung nữ như thế, Mao vẫn tự giải quyết hết công việc mình. Ông đã 67 tuổi. Tháng 9-1961, khi gặp nguyên soái Montgomery, Mao lần đầu tiên đưa khả năng lý thuyết cái chết của mình. Cho rằng ông có thể chết vì bị ám sát, chết trong tai nạn máy bay, đổ tàu, chết đuối, nhưng khả năng gặp nhiều hơn cả là do bệnh tật.
    Nhưng khả năng thèm muốn tình dục của Mao lại tăng theo độ tuổi. Đôi lúc ông cũng nghĩ đến Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều.