Bản dịch của Phan Kế Bính
Hiệu đính: Bùi Kỷ
casau đánh máy bổ sung phần chú thích
Hồi 25
Đóng Thổ Sơn, Quan Công giao ước ba việc
Cứu Bạch Mã, Tào Tháo thoát khỏi vòng vây

     rình Dục dâng kế rằng:
- Vân Trường sức địch muôn người, phi dùng mưu trí không sao đánh nổi. Nay nên sai một số quân của Lưu Bị mới hàng vào Hạ Phì ra mắt Quan Vũ, nói dối là trốn về được, cho phục ở trong thành làm nội ứng; rồi dử Quan Vũ ra đánh nhau, ta giả cách thua chạy, dử hắn ra nơi khác, đem tinh binh chẹn hẳn đường về, bấy giờ mới có thể dụ hắn quy hàng.
Tháo theo kế ấy, cho ngay vài chục hàng binh đến Hạ Phì vào hàng Quan Công. Quan Công cho là quân cũ, không hồ nghi gì cả.
Hôm sau Hạ Hầu Đôn lĩnh năm nghìn quân đến thách đánh. Quan Công không ra. Đôn sai quân ở dưới thành sỉ nhục mắng nhiếc. Quan Công mới nổi giận dẫn ba nghìn quân ra ngoài thành giao chiến. Đánh được hơn mười hiệp, Hạ Hầu Đôn quay ngựa chạy. Quan Công đuổi miết, Đôn vừa đánh vừa chạy.
Quan Công đuổi được độ hai mươi dặm, sợ Hạ Phì không có ai giữ nổi, kéo quân trở về. Bỗng nghe một tiếng pháo nổ, bên tả có Từ Hoảng, bên hữu có Hứa Chử, hai đạo quân chẹn ngang đường đi. Quan Công cứ cắm đầu chạy về, quân phục hai bên lại đổ ra, nỏ cứng trăm chiếc bắn tên như châu chấu. Quan Công không thể nào đi được, phải quay ngựa lại. Từ Hoảng, Hứa Chử lại đón đánh. Quan Công cố hết sức đánh lui hai người, đang định dẫn quân về Hạ Phì, Hạ Hầu Đôn lại đánh chặn lại. Quan Công đánh mãi đến chiều, không có đường về, phải lên quả núi đất đóng quân tạm nghỉ. Quân Tào kéo đến, lần lượt vây vòng quanh quả núi đất.
Quan Công đứng trên ngọn núi, trông xa về Hạ Phì, thấy trong cửa thành lửa cháy ngùn ngụt. Đó là những quân trá hàng mở trộm cửa thành, Tào Tháo dẫn quân vào, rồi lại đốt lửa lên để làm cho Quan Công trông thấy rối ruột.
Quan Công thấy thành Hạ Phì lửa cháy, trong lòng lo sợ, đang đêm mấy lần xông xuống núi đều bị tên bắn phải quay lại.
Đến sáng, đang sắp sửa xông xuống chân núi, chợt có một tướng tế ngựa trèo lên, nhìn ra là Trương Liêu.
Quan Công đón hỏi:
- Văn Viễn đến đây định đánh nhau với ta chăng?
Liêu đáp:
- Đâu phải thế! Liêu này nghĩ tình cố nhân ngày xưa, lên đây gặp nhau đó thôi.
Nói rồi bỏ đao xuống ngựa, thi lễ xong, ngồi trên đỉnh núi nói chuyện.
Quan Công nói:
- Văn Viễn đến dụ mỗ chăng?
Liêu đáp:
- Không phải thế! Ngày trước nhờ anh cứu em, ngày nay sao em lại không cứu anh?
Quan Công nói:
- Thế Văn Viễn đến đây định giúp ta chăng?
Liêu nói:
- Cũng không phải.
Quan Công nói:
- Nếu không giúp ta, thì đến làm gì?
Liêu nói:
- Huyền Đức không biết còn hay mất; Dực Đức không biết sống hay chết. Đêm qua Tào công đã phá được Hạ Phì, quân dân đều an toàn. Tào công lại sai người giữ gìn gia quyến Huyền Đức, cấm không cho ai vào quấy nhiễu, đối đãi thực tử tế, em đến để báo tin cho anh biết.
Quan Công giận nói:
- Thế là đến dụ ta, nay tuy hết đường đất, ta vẫn coi cái chết như không. Ngươi đi ngay, ta sẽ xuống chân núi đánh nhau bây giờ.
Trương Liêu cười nói:
- Anh nói thế, không sợ thiên hạ người ta cười cho à?
Quan Công nói:
- Ta vì trung nghĩa mà chết, thiên hạ sao lại cười ta?
Liêu nói:
- Anh chết bây giờ thì mắc ba tội Quan Công hỏi:
- Ba tội là những tội gì?
Liêu nói:
- Khi trước Lưu sứ quân cùng anh kết nghĩa, có thể với nhau cùng sống thác. Nay sứ quân vừa mới thua, mà anh đi đánh liều cố lấy cái chết, nếu sứ quân hãy còn, muốn tìm anh mà không tìm thấy, chẳng hóa ra phụ lời thề năm trước ru? Thế là một tội. Lưu sứ quân đem vợ con phó thác cho anh, anh nay liều mình chịu chết, hai phu nhân nương tựa vào đâu, há chẳng phụ lời phó thác của Lưu sứ quân ru? Thế là hai tội. Đại huynh võ nghệ siêu quần, tinh thông kinh sử, không nghĩ cùng sứ quân giúp nhà Hán, lại tự nhảy vào nước sôi lửa cháy, mua lấy cái tiếng mạnh bạo của một kẻ vũ phu, sao gọi là nghĩa? Thế là ba tội. Anh mắc ba tội ấy nên em phải bảo.
Quan Công ngồi nghĩ một lúc, rồi nói:
- Ngươi nói ta ba tội ấy, thế ngươi muốn bảo ta phải làm thế nào?
Liêu nói:
- Nay bốn mặt đều là quân Tào công vây kín cả. Nếu anh không hàng thì phải chết. Chết mà vô ích thì hãy hàng đi, rồi sẽ nghe ngóng tin tức Lưu Huyền Đức. Khi biết được sứ quân ở đâu, bấy giờ lại đi theo, một là bảo toàn được hai phu nhân, hai là không trái ước vườn đào, ba là lưu lại được cái thân hữu dụng. Có ba điều tiện như thế, xin anh nghĩ lại cho kỹ.
Quan Công nói:
- Anh nói ba điều tiện, tôi cũng có ba điều giao ước. Nếu Thừa tướng nghe cho, tôi xin lập tức cởi giáp lại hàng; nhược bằng không nghe, tôi đành chịu ba tội mà chết.
Liêu nói:
- Thừa tướng đại lượng khoan hồng, thế nào chắc ngài cũng nghe, xin cho biết ba điều ước.
Quan Công nói:
- Một là: Ta đã cùng Hoàng thúc xin thề cùng nhau giúp nhà Hán, nay ta chỉ hàng vua nhà Hán, không hàng Tào Tháo.
- Hai là: Hai chị dâu ta phải được cấp dưỡng theo bổng lộc của hoàng thúc, nhất thiết người ngoài không ai được đến cửa.
- Ba là: Hễ ta nghe thấy hoàng thúc ở đâu, không quản trăm dặm nghìn dặm, lập tức ta cáo từ, rồi đi theo. Ba điều ấy nếu thiếu một điều ta nhất định không hàng, xin Văn Viễn mau mau về trình với Thừa tướng.
Trương Liêu thưa vâng, lên ngay ngựa về gặp Tào Tháo, trước hết nói việc hàng Hán không hàng Tháo. Tháo nói:
- Ta là tướng nhà Hán, Hán tức là ta. Việc ấy theo được.
Liêu lại xin cho hai phu nhân được hưởng lộc của hoàng thúc và không ai được vào đến cửa.
Tháo nói:
- Ta sẽ cấp cho gấp hai lương bổng của hoàng thúc. Còn như việc nghiêm cấm trong ngoài, vốn là gia pháp phải thế, việc gì phải nói nữa.
Liêu mới nói đến khoản thứ ba: Hễ khi nào biết tin Huyền Đức ở đâu, dù xa thế nào cũng đi theo ngay.
Tháo lắc đầu nói:
- Thế thì ta nuôi Vân Trường để làm gì? Việc này khó theo đấy.
Liêu nói:
- Thừa tướng không nhớ lời bàn chúng nhân và quốc sĩ của Dự Nhượng [1] ngày xưa hay sao? Như Huyền Đức đãi Quan Vũ chẳng qua chỉ lấy hậu ân mà thôi. Nay Thừa tướng đối đãi thật hậu hơn, lo gì Quan Vũ chẳng phục?
Tháo nói:
- Văn Viễn nói chí phải. Ta ưng cả ba điều.
Liêu vội lên núi bảo cho Quan Công biết, Quan Công nói:
- Đã đành như thế rồi, xin Thừa tướng hãy tạm lui binh, để tôi vào thành bẩm với hai chị, rồi sau mới xin hàng.
Liêu về bẩm lại, Tháo liền truyền lệnh lui quân ba mươn dặm. Tuân Úc nói:
- Không nên, e nó nói dối?
Tháo nói:
- Vân Trường là người nghĩa sĩ, chắc không thất tín.
Rồi cứ truyền lệnh rút quân.
Quan Công dẫn binh vào thành, thấy nhân dân yên ổn cả, đến ngay vào phủ, vào yết kiến hai chị. Cam, My, hai phu nhân nghe Quan Công đã về, vội ra đón vào. Quan Công lạy ở dưới thềm, nói:
- Để cho hai chị sợ hãi ấy là tội em.
Hai phu nhân hỏi:
- Hoàng thúc bây giờ ở đâu?
Quan Công nói:
- Không biết ở đâu.
Hai phu nhân lại hỏi:
- Bây giờ chú định thế nào.
Quan Công nói:
- Em ra thành đánh nhau, bị vây ở trên núi, Trương Liêu khuyên em ra hàng, em có ước ba điều, Tào Tháo nghe cả ba, nên mới rút quân, để em vào thành. Em chưa được biết ý định của hai chị, chưa dám tự tiện.
Hai phu nhân hỏi:
- Ba điều ước là những điều gì?
Quan Công thuật rõ lại ba điều ước. Cam phu nhân nói:
- Hôm trước quân Tào vào thành, chúng tôi tưởng là chết cả, ai ngờ cái tơ cái tóc không động đến; một đứa quân cũng không dám vào cửa. Nay chú đã hứa với người, không cần phải hỏi lại chúng tôi. Chỉ sợ Tào Tháo về sau không để cho chú đi tìm hoàng thúc thôi.
Quan Công nói:
- Xin hai chị yên tâm, em đã có chủ ý.
Hai phu nhân nói:
- Chú cố lo liệu, bất tất phải hỏi bọn đàn bà chúng tôi.
Quan Công từ tạ trở ra, dẫn vài mươi tên kỵ mã đến ra mắt Tào Tháo; Tháo ra ngoài nha môn tiếp vào. Quan Công xuống ngựa vào lạy, Tháo vội vàng đáp lễ, Quan Công nói:
- Tôi là bại tướng, không bị giết, đội ơn ngài nhiều lắm.
Tháo nói:
- Tôi vốn mến Vân Trường là người trung nghĩa, nay được trông thấy, thực là hả lòng mong mỏi bấy nay.
Quan Công nói:
- Văn Viễn bẩm cho ba việc, đã được Thừa tướng ưng thuận, chắc là Thừa tướng không sai lời.
Tháo đáp:
- Ta đã nói quyết không thất tín.
Quan Công lại thưa:
- Nếu tôi biết được Hoàng thúc ở đâu, dù lên thác xuống ghềnh, lăn sông, qua lửa cũng phải đi theo. Bấy giờ sợ không kịp bái từ, xin Thừa tướng lượng thứ cho.
Tháo đáp:
- Huyền Đức nếu còn sống, ông cứ đi theo. Nhưng chỉ sợ Huyền Đức mất trong loạn quân rồi. Ông cứ yên tâm, nghe ngóng xem đã.
Quan Công lạy tạ.
Tháo mở tiệc yến khoản đãi. Hôm sau rút quân về Hứa Xương. Quan Công thu xếp ra trượng, mời hai chị lên xe, tự mình đi hộ vệ. Khi đi đường, nghỉ ở xá, Tháo muốn làm rối loạn lễ vua tôi, để Quan Công và hai chị dâu cùng ở một nhà. Quan Công cầm đuốc đứng hầu ngoài cửa, tự tối đến sáng, sắc mặt không lúc nào có dáng mỏi mệt. Tào Tháo thấy thế lại càng kính phục. Về đến Hứa Xương, Tháo sai sửa sang ngay thừa phủ để Quan Công ở. Quan Công chia một nhà làm hai viện, viện trong sai mười người lính già canh cửa. Quan Công thì ở nhà ngoài. Tháo dẫn Quan Công vào chầu vua Hiến Đế. Vua cho làm Thiên tướng quân; Quan Công tạ ơn rồi về.
Hôm sau, Tháo mở tiệc lớn, hội cả mưu thần võ sĩ, lấy lễ khách đãi Quan Công, mời đến ngồi trên; lại tặng gấm vóc và những đồ vàng bạc, Quan Công đem về nhờ hai chị thu giữ.
Từ khi Quan Công đến Hứa Xương, Tháo đãi rất hậu. Ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn; lại đưa mười người con gái đẹp để hầu. Quan Công đều đưa vào nhà trong để hầu hai chị. Cứ ba ngày một lần đứng cửa ngoài chắp tay kính cẩn, hỏi thăm sức khỏe hai chị.
My phu nhân hỏi thăm về tin tức hoàng thúc, bao giờ hỏi xong cũng nói: “Chú cứ tùy tiện”. Bấy giờ Quan Công mới dám lui về.
Tháo nghe thấy thế càng kính phục lắm.
Một hôm thấy Quan Công mặc áo chiến bào bằng gấm xanh, đã cũ bạc, Tháo truyền ngay lệnh đo người Quan Công, may một chiếc khăn chiến bào bằng gấm thực quý để tặng.
Quan Công lĩnh lấy, mặc vào trong, rồi lại lấy áo cũ mặc phủ ra ngoài.
Tháo cười mà nói rằng:
- Vân Trường hà tiện quá!
- Bẩm không phải là hà tiện. Áo cũ của Lưu hoàng thúc cho, tôi mặc ở ngoài như nhìn thấy mặt anh, dám đâu vì cái mới của Thừa tướng vừa ban cho mà đã quên cái cũ của anh tôi đã cho từ trước, nên phải mặc áo cũ ra ngoài là thế.
Tháo khen:
- Thực là nghĩa sĩ!
Miệng tuy khen, nhưng Tháo không bằng lòng.
Một bữa Quan Công đang ở trướng phủ, chợt có người báo:
- Hai phu nhân ở nhà trong, tự dưng khóc lăn cả xuống đất, mời tướng quân vào ngay.
Quan Công mặc áo tử tế, vào quỳ ngoài cửa nhà trong, hỏi:
- Hai chị có việc chi mà than khóc?
Cam phu nhân nói:
- Đêm hôm qua tôi mơ thấy hoàng thúc bị hãm ở dưới hố đất, tỉnh dậy bàn với My phu nhân, e rằng hoàng thúc đã ở dưới chín suối, cho nên thương khóc.
Quan Công nói:
- Việc mộng mị không nên tin. Vì hai chị tưởng nhớ, nên mơ thấy thế, xin hai chị đừng lo nghĩ.
Đương chuyện trò, có sứ Tào Tháo đến mời Quan Công vào phủ ăn yến.
Quan Công cáo từ hai chị, đến gặp Tào Tháo. Tháo thấy Quan Công có ngấn nước mắt, hỏi cớ làm sao. Quan Công nói:
- Hai chị tôi nhớ anh tôi mà than khóc, cho nên tôi cũng động lòng.
Tháo cười, lấy lời khuyên giải, mời uống rượu luôn. Quan Công uống say, vuốt râu nói:
- Sống không báo được ân nhà nước, lại phụ cả anh, cũng là người bỏ đi.
Tháo hỏi:
- Râu Vân Trường ước được bao nhiêu sợi?
Quan Công thưa:
- Được độ vài trăm sợi, cứ mỗi năm đến mùa thu lại rụng mất dăm ba cái; đến mùa đông phải lấy cái túi the thâm bọc lấy, để cho nó đỡ rụng.
Tháo sai ngay lấy gấm may một cái túi, biếu Quan Công để bọc râu.
Sáng sớm hôm sau Quan Vũ vào chầu vua.
Vua thấy trước ngực đeo một cái túi gấm, phán hỏi. Quan Công tâu rằng:
- Râu tôi hơi dài, Thừa tướng cho túi để bọc lại. Vua sai đứng trước điện mở ra vuốt xem, thì thấy râu dài quá bụng. Vua phán rằng:
- Thực là ông tốt râu!
Từ đấy ai cũng gọi Quan Công là “Ông tốt râu”.
Một hôm Tháo mời Quan Công ăn yến. Lúc tiệc tan, tiễn Quan Công ra đến cửa tướng phủ, thấy ngựa Quan Công gầy quá, Tháo hỏi:
- Ngựa ông sao gầy thế?
Quan đáp:
- Người tôi hơi nặng, ngựa không mang nổi, bởi thế nên nó gầy.
Tháo sai tả hữu ra chọn một con ngựa. Một lát dắt đến. Con ngựa ấy sắc đỏ như lửa, trông dáng rất hùng dũng. Tháo trỏ ngựa hỏi:
- Ông biết con ngựa này không?
Quan Công nói:
- Bẩm có phải là ngựa Xích Thố của Lã Bố vẫn cưỡi khi xưa không?
Tháo nói:
- Chính phải!
Rồi truyền thắng đủ yên cương, đưa tặng Quan Công. Quan Công lạy hai lạy tạ ơn. Tháo không bằng lòng nói:
- Ta mấy lần đem con gái đẹp, vàng, bạc tặng ông, ông không lạy tạ bao giờ. Nay ta cho con ngựa lại tạ ta hai lạy. Sao lại khinh ngươi khinh của mà quý một con súc vật thế?
Quan Công đáp:
- Tôi biết ngựa này một ngày đi được nghìn dặm, nay Thừa tướng cho tôi, nếu biết được anh tôi ở đâu, có thế một ngày được thấy mặt nhau.
Tháo nghe nói, ngạc nhiên, nghĩ mà lại hối.
Quan Công cáo từ ra về.
Đời sau có thơ rằng:
Lẫy lừng ba nước tiếng anh hào,
Một viện chia đôi nghĩa khí cao.
Gian tướng uổng công chiều chuộng hão,
Biết đâu Quan Vũ chẳng hàng Tào?
Tháo hỏi Trương Liêu:
- Ta đãi Vân Trường rất hậu, sao hắn vẫn có bụng muốn đi?
Liêu xin đến dò xem tình ý ra sao. Hôm sau đến gặp Quan Công, Liêu hỏi:
- Từ khi tôi tiến cử anh lên Thừa tướng, không khi nào bị người bạc đãi...
Quan Công đáp:
- Tôi rất cảm ơn sâu của Thừa tướng, nhưng người ở đây mà bụng lúc nào cũng nhớ hoàng thúc, không bao giờ quên.
Liêu nói:
- Anh nói sai, ở đời không cân nhắc bên trọng bên khinh, không phải là trượng phu. Huyền Đức đãi đại huynh chưa chắc đã hậu hơn Thừa tướng, sao anh cứ muốn đi?
Quan Công đáp:
- Tôi vẫn biết Tào công đãi tôi hậu lắm, nhưng tôi đã chịu hậu ơn của hoàng thúc, thề cùng sống chết không thể nào phụ lời được. Tôi quyết không ở mãi đây. Nhưng trước hết phải lập công để báo ơn Thừa tướng, rồi sau mới đi.
Liêu lại hỏi:
- Phỏng như Huyền Đức chết mất rồi, thì đại huynh về với ai?
Quan Công đáp:
- Xin theo xuống dưới đất!
Liêu biết không thể nào giữ được Quan Công, bèn về bẩm lại với Tào Tháo.
Tháo than:
- Thờ chúa không quên gốc, thật là nghĩa sĩ trong thiên hạ!
Tuân Úc nói rằng:
- Hắn nói lập công rồi mới đi chi bằng ta không sai đi lập công, vị tất hắn đã đi được.
Tháo cho là phải.
Nay nói chuyện Huyền Đức ở chỗ Viên Thiệu, sớm tối buồn rầu. Viên Thiệu hỏi:
- Huyền Đức sao lo buồn thế?
Huyền Đức nói:
- Hai em không biết tin tức, vợ con lại bị hãm trong quân Tào, trên không báo được nước, dưới không giữ được nhà, làm thế nào không lo được?
Thiệu hỏi:
- Ta muốn tiến quân vào Hứa Đô đã lâu. Nay đương mùa xuân ấm áp, nên cất quân đi.
Liền họp bàn mưu kế đánh Tào Tháo. Điền Phong can rằng:
- Trước Tào Tháo đánh Từ Châu, Hứa Đô bỏ trống chẳng nhân lúc ấy tiến quân; nay Từ Châu bị phá, thế Tào đang mạnh, không nên khinh địch. Không bằng thong thả, đợi lúc nào có dịp tốt hãy hay.
Thiệu nói:
- Để ta nghĩ đã.
Nhân hỏi Huyền Đức:
- Điền Phong khuyên ta cố thủ, ông nghĩ thế nào?
Huyền Đức nói:
- Tào Tháo là giặc dối vua, nếu minh công không đánh, sợ mất nghĩa lớn với thiên hạ.
Thiệu nói:
- Huyền Đức nói phải lắm!
Rồi muốn khởi binh ngay, Điền Phong lại can.
Thiệu giận nói:
- Các ngươi hợm văn khinh võ, để làm tao mất nghĩa lớn hay sao?
Điền Phong dập đầu xuống đất nói:
- Nếu không nghe lời nói phải của tôi, phen này xuất quân tất bất lợi.
Thiệu nổi giận toan chém Điền Phong, Huyền Đức cố can mới thôi, nhưng bắt Điền Phong bỏ ngục.
Thư Thụ thấy Điền Phong phải giam vào ngục, bèn họp cả họ hàng phân tán hết gia tài và nói:
- Tôi chuyến nào theo đi đánh giặc, được thì oai danh lừng lẫy, thua thì một chân cũng khó giữ được vẹn toàn.
Họ hàng ai cũng rỏ nước mắt đi tiễn.
Thiệu sai đại tướng là Nhan Lương làm tiên phong, tiến quân lên đánh xứ Bạch Mã. Thư Thụ can rằng:
- Nhan Lương tuy là tướng khỏe, nhưng tính khí hẹp hòi, không nên cho đi một mình.
Thiệu nói:
- Thượng tướng của ta, các ngươi biết gì!
Khi đại quân tiến đến Lê Dương, Thái thú ở Đông Quận là Lưu Diên cáo cấp về Hứa Đô.
Tào Tháo kịp bàn đem quân ra địch. Quan Công nghe tin, vào ngay tướng phủ thưa với Tào Tháo:
- Nghe Thừa tướng khởi binh, tôi xin đi làm tiền bộ.
Tháo nói:
- Tôi chưa dám phiền đến tướng quân, nay mai có việc, sẽ lại mời.
Quan Công lui về.
Tháo dẫn mười lăm vạn quân chia ra làm ba đội xuất phát. Đi đường lại tiếp liền mấy lá thư cấp báo của Lưu Diên. Tháo đem năm vạn quân đi trước, thẳng đến Bạch Mã dựa vào núi đất đóng quân, trông xa thấy cả một cánh đồng rộng, mười vạn tiền bộ tinh binh của Nhan Lương đều đã dàn thành trận thế.
Tháo khiếp sợ, ngoảnh lại bảo Tống Hiến (nguyên là tướng của Lã Bố trước):
- Ta nghe ngươi là tướng giỏi của Lã Bố, nay nên thử ra đấu với Nhan Lương.
Tống Hiến dạ một tiếng, vác giáo lên ngựa, xông thẳng ra trận. Nhan Lương cầm ngang giáo, cưỡi ngựa ra thẳng cửa trận. Thấy ngựa Tống Hiến đến, Lương quát to một tiếng, rồi tế ngựa ra đánh. Chưa được ba hiệp, Lương đã đâm chết Tống Hiến ở trước trận.
Tào Tháo thất kinh nói:
- Thật là dũng tướng!
Ngụy Tục nói:
- Lương giết người bạn của tôi, xin ra đánh báo thù.
Tháo cho đi. Tục ra đến nơi chỉ đánh nhau mới được một hiệp, cũng bị Lương chém chết.
Tháo hỏi:
- Ai dám ra địch lại?
Từ Hoảng nghe nói, ra ngay đánh nhau với Nhan Lương. Được hai mươi hiệp thua chạy về. Các tướng đều ghê sợ cả. Tào Tháo thu quân, Nhan Lương cũng lui quân về.
Tháo thấy mất liền hai tướng một lúc, trong lòng lo buồn. Trình Dục nói:
- Tôi xin cử một người địch nổi Nhan Lương.
Tháo hỏi ai. Dục nói:
- Phi Quan Vân Trường, không ai đánh nổi.
Tháo nói:
- Ta chỉ sợ hắn lập được công rồi đi mất.
Dục nói:
- Thừa tướng đừng lo. Lưu Bị nếu còn sống thì tất ở bên Viên Thiệu. Nay sai Vân Trường phá quân Thiệu, Thiệu tất nghi Lưu Bị mà giết đi. Lưu Bị chết rồi, Vân Trường còn đi đâu nữa?
Tháo mừng lắm, sai người mời Quan Công.
Quan Công vào từ hai chị. Hai phu nhân nói rằng:
- Chuyến này chú đi, nên thăm dò tin hoàng thúc.
Quan Công vâng lời, đi ra, cắp Thanh Long đao, cưỡi ngựa Xích Thố, dẫn vài người tùy tùng đi thẳng đến Bạch Mã, vào ra mắt Tào Tháo. Tháo nói:
- Nhan Lương vừa giết liền hai tướng, không ai địch nổi, nên mời Quan Công đến bàn.
Quan Công nói:
- Vâng, để tôi xem.
Tháo đặt cuộc rượu khoản đãi. Chợt có người báo Nhan Lương lại đến khiêu chiến. Tháo dẫn Quan Công lên núi đất đứng xem.
Tháo cùng Quan Công ngồi, các tướng đứng hầu chung quanh. Tào Tháo trỏ xuống thế trận của Nhan Lương ở dưới núi, cờ xí đỏ ối, gươm giáo sáng quắc, trận bày cực kỳ nghiêm chỉnh, mà bảo Quan Công:
- Quân mã Hà Bắc hùng tráng lắm nhỉ!
Quan Công nói:
- Tôi coi chẳng khác gì gà bằng đất, chó bằng ngói!
Tháo lại trỏ bảo:
- Kìa! Ở dưới cái lọng, người mặc bào vóc, giáp vàng, cầm dao cưỡi ngựa là Nhan Lương đó.
Quan Công liếc mắt trông xuống, rồi nói với Tào Tháo:
- Tôi trông bộ nó, như là cái đầu cắm trên cái sào để đem bán vậy!
Tháo nói:
- Không nên khinh thường!
Quan Công nói:
- Tôi tuy bất tài, xin lấy đầu hắn trong đám vạn quân kia, đem về dâng Thừa tướng.
Trương Liêu nói:
- Trong quân không nói đùa, Vân Trường chớ nên khinh thị.
Quân Công nhảy phắt lên ngựa, cắp ngược Thanh Long đao, tế xuống núi, mắt phượng trợn lên, mày tằm dựng ngược, xông thẳng vào trận bên kia, đi đến đâu quân Hà Bắc tự rẽ như sóng dưới nước. Quan Công đến thẳng chỗ Nhan Lương. Lương đang đứng dưới lọng, thấy Quan Công đến, vừa muốn hỏi thì ngựa Xích Thố chạy mau đã đến trước mặt. Nhan Lương trở tay chưa kịp, Quan Công đưa một lưỡi đao, Lương chết ngay dưới chân ngựa. Quan Công liền nhảy xuống đất, chặt lấy đầu, buộc vào cổ ngựa, rồi lên ngựa cầm đao từ trong trận phi ra như đi chỗ không người. Binh tướng Hà Bắc kinh hoảng, chưa đánh đã rối loạn. Quân Tào thừa thế đuổi đánh, giết hại không biết bao nhiêu; ngựa, khí giới, quân Tào cướp được rất nhiều.
Quan Công tế ngựa lên núi, các tướng đều khen ngợi. Quan Công đem đầu Nhan Lương đặt trước mặt Tào Tháo. Tháo nói:
- Tướng quân thực là một người thần!
Quan Công đáp:
- Tôi thấm vào đâu. Em tôi là Trương Dực Đức còn có thể ở trong đám quân trăm vạn lấy đầu thượng tướng dễ như lấy vật gì trong túi.
Tháo nghe cả sợ, ngoảnh lại dặn các tướng:
- Từ nay về sau có gặp Trương Dực Đức ở đâu, thì chớ có khinh địch.
Và sai các tướng viết vào vạt áo để ghi nhớ.
Quân Nhan Lương thua, chạy về đến nửa đường gặp Viên Thiệu, báo là có một tướng mặt đỏ râu dài, cầm đại đao, một mình cưỡi ngựa vào trận, chém chết Nhan Lương rồi, cho nên thua to.
Thiệu giật mình hỏi:
- Người ấy là ai?
Thư thụ thưa:
- Hẳn là Quan Vân Trường, em Huyền Đức.
Thiệu nổi giận trỏ vào Huyền Đức nói:
- Thế ra em ngươi chém chết tướng yêu của ta, ngươi tất thông mưu, vậy để ngươi ở đây làm gì?
Liền thét đao phủ lôi Huyền Đức ra chém.
Ấy mới là:
Vừa là khách quý ngồi trên ghế
Thoắt đã thằng tù đứng dưới sân
Chưa biết tính mệnh Lưu Bị làm sao, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Chú thích:
[1] Dự Nhượng người đời Chiến Quốc, trước thờ Phạm, sau bỏ theo Trí Bá, Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết; Dự Nhượng định giết Tương Tử để báo thù cho Trí Bá nhưng bị Tương Tử bắt được, Tương Tử hỏi: “Ngươi đã thờ cả hai người, sao chỉ báo thù cho một người?” Dự Nhượng nói: “Họ Phạm đãi tôi như người thường, cho nên tôi lấy người thương đáp lại, còn Trí Bá đãi tôi như quốc sĩ, cho nên tôi lấy quốc sĩ đáp lại”.