Mười

     ào khoảng chín giờ ba mươi, Mel Corlet bước vào ngôi nhà nghỉ cuối tuần của anh nằm giữa một cánh rừng bên dòng sông Potomac.
Anh thấy đầu váng rất đau, nhưng nhìn chung thì anh còn tương đối tỉnh táo. Món cà phê của Marny Davenport đi kèm với bánh mỳ nướng, đùi lợn xông khói, trứng ốp-la và rất nhiều nước cam ép thật sự đã có một hiệu ứng thần kỳ. Mặc dầu vậy, lẽ ra anh không được phép lái xe sau một đêm dài tới thế. Nhưng rồi người đàn ông tự an ủi mình rằng thật ra anh chỉ đi qua những đoạn đường dành riêng cho xe lâm nghiệp và xe của những người sống quanh đây.
Trong số những người sống quanh dây thì anh đang là người duy nhất có mặt trong cả một khu đất rộng.
Ngôi nhà gỗ nằm cô đơn, hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng được sống những ngày nghỉ hiếm hoi trong cảnh tĩnh mịch tuyệt đối, hoàn toàn không bị ai khuấy đảo, đủ tĩnh mịch cho anh quên được cuộc sống lao động vất vả hàng ngày. Vừa bước chân vào cái buồng tắm đứng nhỏ xíu và đóng cửa lại, Corlet vừa nghĩ rằng nếu được chia sẽ sự cô đơn này với một người phụ nữ dễ thương thì có lẽ cuộc sống sẽ trở nên rất dễ chịu. Anh đang nhớ đến một người cụ thể: tóc vàng, mắt xanh, có duyên, một thân hình lý tưởng và một bộ não chững chạc. Nhưng Liza là chiêu đãi viên hàng không và rất yêu nghề. Mà lịch bay của cô và lịch làm việc của anh lại khác biệt tới mức hiếm hoi lắm họ mới gặp được nhau.
Mel Corlet đưa chiếc lược ướt chải qua mái tóc thẫm mầu gợn sóng, quan sát chút ánh bạc thấp thoáng hai bên thái dương và ở hai đường chân mày.
Nếu không cẩn thận, rồi anh sẽ thành một gã trai ế vợ già nua. Bốn mươi tuổi! Thật ra thì đã quá tuổi cưới vợ một chút rồi. Nhưng từ xưa đến nay anh luôn ngại ngùng cái việc xem xét ngó nghiêng trong hàng ngũ con gái của những gia đình cầu tiến. Anh không thích dạng phụ nữ chỉ biết chăm con và coi con đường danh vọng của chồng là nhiệm vụ của đời mình. Ngược lại, Liza là một cô gái khiến cho anh thích thú. Nhưng đối với một người đàn ông mang trọng trách thì mối quan hệ với một cô gái độc lập và cũng rất thành công trong nghề nghiệp thật sự là một chuyện đầy khó khăn.
Corlet nhún vai.
Và rồi anh quyết định không nghĩ ngợi nhiều thêm. Sau khi đã cạo cho sạch những đám chân râu ra khỏi da mặt, tính vui vẻ lại nắm quyền điều khiển. Cả một ngày trời tự do đang ở trước mặt anh, cả một ngày trời cho thú ngồi câu cá bên bờ sông. Người đàn ông rời phòng tắm, bước đến bên tủ lạnh, định lấy ra một lon bia. Đúng lúc chân bước đi, ánh mắt anh chợt nhìn qua khuôn cửa sổ.
Có phải vừa có một chuyển động bên rìa của khu rừng thưa?
Mel Corlet nhăn trán. Anh biết rằng dạng nhà nghỉ cuối tuần là đối tượng được đám ăn trộm nghiệp dư ưa thích. Trong nhà anh chẳng có mấy đồ đáng ăn cắp, mà ngoài ra ai cũng có thể thấy rằng xe của anh đang đứng trước cửa, nhưng mà…
Kia!
Giờ thì anh nhìn thấy dáng người bên bìa rừng đó thật rõ. Một người đàn ông, đang cúi khom lưng nấp vào sự che chở dối gian của một bụi cây trụi lá. Rõ là gã đang quan sát nhà anh. Mel Corlet nhăn trán, đưa cả năm ngón tai chải qua mái tóc dày. Thế rồi anh quả quyết căng người lên.
Anh không thích làm hỏng cả một ngày trời với các suy nghĩ quẩn quanh rằng có một vài kẻ đáng nghi ngờ đang lẩn khuất quanh đây.
Dĩ nhiên anh không thể cấm người khác đi dạo chơi qua đây hoặn chơi trò trốn tìm trong những bụi cây rừng, hoặc làm những chuyện tương tự. Nhưng nếu ép được gã trai kia đối chất, anh sẽ nhận ra gã định làm trò gì. Mel Corlet cầm lấy chiếc áo choàng Parka treo trên mắc, khoác lên người rồi mở cửa đi ra..
Ngay lập tức, gã con trai trong bụi rậm bên kia nhận ra anh.
Corlet nhìn thấy gã hơi giật mình và rụt đầu xuống. Thật là một cố gắng nực cười: Anh vẫn còn nhìn thấy gã rất rõ qua những cành cây trụi lá. Nếu muốn ẩn nấp, lẽ ra gã phải đứng bên dưới những cây thông và những cây Douglasia nằm ở phía bên kia dãy bụi rậm. Mel Corlet cười khẽ và dậm chân bước, muốn băng qua thảm cỏ ẩm ướt và tiến thẳng đến chỗ vị khách không mời.
Chính trong lúc đó, anh nghe thấy một tiếng động.
Một tiếng động vang lên từ phía sau lưng anh. Một tiếng thép sắc và lạnh. Corlet biết là ngày trước anh đã từng quen với dạng tiếng động này. Nhưng thời kỳ quân ngũ của anh đã qua đi quá lâu, khiến cho anh không ngay lập tức có được một liên tưởng đúng đắn. Anh đứng đờ người ra và co vai lên. Giờ thì anh tin rằng anh đang nghe thấy những hơi thở nhè nhẹ. Có kẻ nào đó đang rình mò bên ngoài ngôi nhà gỗ, chắc chắn là như thế. Corlet lấy hơi thật sâu và muốn xoay người lại thật nhanh. Nhưng đúng lúc đó thì cái giọng người kia đã lạnh lùng và đều đều cất lên, thúc từng từ vào lưng anh.
- Giơ tay lên! Không một cử động đáng nghi, nếu không đó sẽ là cử động cuối cùng của mày! Tao không đùa đâu, nhóc con!
Corlet giật nẩy người. Giờ anh vất vả nuốt khan.
Lưng anh rởn lên như có vô vàn những hạt nước băng giá rỏ xuống. Anh không phải người hèn. Nhưng anh đủ kinh nghiệm và hiểu biết về con người để nhận ra cái vẻ quyết tâm lạnh lùng trong giọng nói của kẻ lạ mặt kia. Không, gã không đùa. Mel Corlet vật lộn với nỗi sợ hãi như đang siết chặt lục phủ ngũ tạng của anh. Chầm chậm, anh giơ hai tay lên, trong óc não là những suy nghĩ quay cuồng như cơn bão.
Một vụ đánh úp?
Một vụ trấn lột bình thường? Hay người ta muốn bắt cóc anh, muốn sử dụng anh làm vật trao trả cho một vụ ép buộc chính trị nào đó? Lại là chính anh?
Tiếng chân người vang to hơn.
Ít nhất là hai đứa, Mel Corlet nghĩ.
Anh nghiến chặt răng khi nòng súng rất cứng thúc vào lưng anh. Dĩ nhiên: tiếng thép kêu ban nãy là tiếng động vang ra khi người ta kéo khóa một khẩu súng lục. Corlet nghĩ tới súng của mình, một khẩu Beretta mà anh đang để trong ngăn kéo bàn làm việc trong nhà. Ở đấy cũng có máy diện thoại. Nếu anh có thể rũ bỏ bọn này trong một thoáng và chạy vào nhà, chốt cửa lại…
Ngớ ngẩn, anh nghĩ thầm.
Không một khuôn cửa sổ nào của anh được gắn chấn song sắt. Bọn con trai này sẽ rất dễ dàng lọt vào trong, trước khi anh rút được súng lục ra. Nhưng anh không nghĩ tới chuyện để yên cho người ta kéo mình đi dễ dàng như vậy. Có thể đối phương của anh là những tay khủng bố, muốn ép buộc ai đó phải thả một số tòng phạm của chúng ra. Suy nghĩ đến một thời gian cầm tù dài cả tuần lễ đầy những bất trắc về tính mạng còn khiến Mel Corlet sợ hơn là mối nguy hiểm cận kề đang tỏa ra từ nòng súng thúc vào lưng.
Nếu gạt được khẩu súng sang bên, anh có thể chạy vài bước chân cho tới góc ngôi nhà gỗ và trốn vào bụi rậm.
Anh rất quen khu rừng này. Lúc đó chúng sẽ không tìm được ra anh ngay.
Những bàn tay người thọc vào dưới tà áo choàng và vuốt dọc người anh. Giờ đây anh mới ý thức được rằng tất cả những cân nhắc vừa rồi của anh chỉ tốn không đầy hai giây đồng hồ ngắn ngủi, nhưng là hai giây đồng hồ mà tên gangster thứ hai cần tới để bước sang bên, lại gần nạn nhân. Mel Corlet nghiến chặt hai hàm răng và chờ cho qui trình khám xét kết thúc. Anh căng cơ bắp lên và tập trung hoàn toàn vào cánh tay phải của mình. Rồi anh hành động.
Từ thế đứng, bất ngờ anh xoay phắt về và dùng khuỷu tay hất khẩu súng lục sang bên.
Tên gangster thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên. Gã lùi về và đã muốn giơ súng lên trong thế bắn, nhưng Mel Corlet đã xoay ngược được người đi và chạy dọc mặt tiền của ngôi nhà gỗ.
Đối phương buột miệng chửi.
Hai tiếng nổ vang lên liên tiếp, mỏng manh và sắc gọn như những lằn roi. Mel Corlet cảm nhận được luồng gió của hững viên đạn. Thở hổn hển, anh đến được góc nhà, né ngay sang trái và chỉ ngay tích tắc sau đó, anh nhìn thấy một vệt đen nọc lớn dậy trước mặt mình. Một gã đàn ông thứ tư!
Corlet không tránh được nữa. Anh thét lên khi đập người vào kẻ kia. Tên ganster đang rình chờ sẵn. Gã đã được chuẩn bị trước. Nạn nhân thật sự không có cơ hội. Mel Corlet điên cuồng đấm tới. Rồi anh muốn né sang phải. Nhưng đúng lúc đó, một cú đá cứng như gỗ phạt ngang ống đồng anh. Rên lên, anh lảo đảo lùi về. Đối phương ngay lập tức ra đòn tiếp. Hai rồi ba quả đấm nặng ký thúc vào khu dạ dày anh.
Mel Corlet co gập người xuống. Đồng thời, cả hai tên gangster kia cũng đã đi tới góc nhà.
Một tên trong bọn giơ súng lúc lấy đà rồi đập mạnh xuống. Mel Corlet có cảm giác trong đầu anh vừa xảy ra một vụ nổ lớn. Cảm giác đau nhảy nhót xuyên qua toàn cơ thể. Những vành lửa nổ tóe ra trước mắt. Anh cảm nhận rõ não bộ của mình đang bị một làn sóng màu đen không gì cưỡng nổi cuốn dạt ra xa.
Người đàn ông đã ngất đi trước khi cơ thể anh nghiêng về phía trước và đập thật mạnh xuống lớp cỏ ẩm ướt.
  * * *
Mãi tới cuối giờ chiều chúng tôi mới lại tụ họp lại.
Anh bạn đồng nghiệp của chúng tôi tổng kết tình hình. Một bản tổng kết thảm thê, được anh trình bày bằng một vẻ cộc lốc cục cằn:
- Gregory Thunes và Linda Higgins chết. James Watson bị nguy hiểm đến tính mạng. Cánh bác sĩ vẫn còn chưa biết liệu họ có cứu được anh ta hay không. Trong cả ba trường hợp, các triệu chứng đều trỏ tới khả năng tự tử. Marilyn Rivers cũng đã nói trên băng ghi âm rằng cả băng nhóm đó đã được cảnh báo. Bằng một cách nào đó, những đối tượng có liên quan biết được rằng họ đã bị nêu đích danh. Họ lẩn tránh hậu quả hành động của mình, bằng con đường tự tự. Chỉ có James Watson trong giây phút cuối cùng đã đâm sợ hãi. Anh ta gọi cho bác sĩ tư…
- … đây là giả thuyết mà theo tôi không hoàn toàn logic, - tôi cắt ngang. – Ít nhất là không logic, nếu chúng ta lấy xuất phát điểm rằng Watson đã uống thuốc độc. Lúc đó anh ta phải ngay lập tức quay số gọi xe cứu thương mới đúng.
- Chắc anh ta không còn đủ khả năng để cân nhắc cho sáng suốt, - Winnaker nhún vai nói. Tôi mím môi.
- Thế chuyện gì xảy ra với chuyên viên báo chí cũng bị Marilyn nêu tên? – Tôi hỏi.
- Trường hợp đó rõ ràng là một tai nạn.
- Thế còn Jonathan Willow? Chính bản thân anh ta phải được cảnh báo trước tiên, trước cả những người khác mới đúng.
- Thì đã sao? Chẳng nhẽ vì thế mà anh ta cũng phải tự tử?
- Dĩ nhiên là không. – Tôi xoay sang phía Phil. – Có phải chính cậu đã nói rằng anh ta sững sờ cực độ, đúng không? Vậy là rõ ràng anh ta chưa được cảnh báo trước.
- Ít nhất là bản thân tôi cũng không có ấn tượng là anh ta được cảnh báo trước, - Phil đồng tình. – Tôi phải thú nhận rằng việc anh ta sốt sắng đòi được bác sĩ của FBI khám sức khỏe đã phần nào khiến tôi ngạc nhiên. Rồi chúng ta sẽ biết kết quả.
Đúng, rồi chúng tôi sẽ biết…
Tôi cắn cắn môi. Chắc chắn chúng tôi sẽ tiến thêm được một bước nếu James Watson qua được hiểm nguy và có thể kể cho chúng tôi biết chuyện gì đã thật sự xảy ra. Một người đàn ông uống thuốc độc, rồi sau đó bị bản năng sinh tồn chiến thắng và gọi điện cho bác sĩ tư, thay vì gọi xe cứu thương. Thôi được, cái đó có thể là sự yếu ớt tạm thời của những sợi dây thần kinh. Nhưng theo quan điểm của tôi, ít nhất thì anh ta cũng còn đủ lý trí để ngay lập tức nói ra là anh ta đã nuốt loại thuốc độc nào.
Tôi ngẩng đầu lên khi cảm nhận được ánh mắt của Phil.
- Cậu đang âm mưu cái gì đó, - anh bạn tôi nhận định. – Cậu không nuốt trôi được cái lý thuyết tự tử, đúng không? Nhưng có lời giải thích nào khác không?
- Ví dụ như lời giải thích rằng toàn bộ câu chuyện này là được tạo dựng từ đầu cho tới cuối, - tôi lẩm bẩm. Tôi cũng phải thú nhận rằng lời lẩm bẩm của tôi chẳng mấy dõng dạc và chẳng mấy thuyết phục.
- Tạo dựng? Kẻ nào tạo dựng? Vì mục đích gì?
- Cái đó mình chưa biết, chó chết!
- Kẻ nào tạo dựng và vì mục đích gì thì ta còn có thể tìm ra, - Roy Farell lên tiếng. – Chuyện khó là nó đã được tạo dựng như thế nào, tôi nghĩ vậy. mọi sự kiện, mọi chi tiết đều rất rõ ràng phù hợp. Nó không thể nào là chuyện tạo dựng được.
- Nhưng câu chuyện có một vài điểm yếu, yếu đến khốn nạn. Một trong số đó là câu hỏi Marilyn Rivers lấy đâu ra heroin trong những ngày sống trong nhà đi săn giữa rừng. Chắc chắn là Hank Jenkins không đưa cho cô ta, mà chúng tôi cũng không tìm thấy chút thuốc phiện nào.
- Nhưng điều đó chưa nhất thiết phải có ý nghĩa gì, - Winnaker nói.
- Chắc là chưa. Tôi chỉ nhắc lại một dữ liệu thôi. Câu hỏi thứ hai, quan trọng hơn, là câu hỏi về băng ghi âm. Thằng con trai cầm khẩu MPI hoàn toàn không có một nguyên nhân cấp bách nào để vất lại chiếc áo bành tô của nó. Tôi ở cách nó quá xa để có thể thật sự gây hại cho nó bằng súng lục.
- Thế nếu chỉ đơn giản là nó đánh giá sai tình huống?
- Thế thì ngay sau đó nó vẫn còn quá đủ thời gian để quay trở lại và nhặt nửa cuộn băng. Chính vì nửa cuộn băng đó mà bọn chúng đã giết chết Marilyn Rivers, đã định ám hại Hank Jenkins và tôi cũng như bày ra một vụ đổ lửa khổng lồ. Các anh có thấy chuyện chúng nó dễ dàng bỏ rơi lại món đồ đó có là logic không?
- Ra cậu thật sự tin rằng chúng nó đã chủ ý đẩy cuốn băng ghi âm đó vào tay bọn mình? – Phil hỏi.
- Đúng. Và chúng nó đã giết Gregory Thunes, Linda Higgins và suýt giết được cả James Watson, để qua đó xóa đi mọi nghi ngờ về hàm lượng sự thực trong lời khai đã được ghi âm của Marilyn.
Im lặng.
Phil đưa tay gãi cằm. Winnaker và Farell liếc nhau. Nhìn nét mặt là đủ hiểu, tôi không hề thuyết phục được họ.
- Ma quỉ, nhưng cái lý thuyết đó của anh làm sao thích hợp nổi với những chi tiết khác? – Dale Winnaker hỏi.
Tôi nhún vai. – Nó sẽ tỏ ra thích hợp chính trong giây phút người ta giả thiết rằng Marilyn Rivers, dù là với lý do nào đi chăng nữa, đã làm việc chung với gã vô danh của chúng ta.
- Với gã vô danh của cậu, - Phil vừa nhướn lông mày vừa sửa lại.
- Thôi được, với gã vô danh của tôi. Có thể gã đã biến cô ta thành con nghiện rồi ép buộc cô ấy. Và rõ là gã đã không cho cô ấy biết toàn bộ mọi việc. Tôi không thể tưởng tượng rằng cô ta sẽ đồng ý với việc giết một loạt các bạn đồng nghiệp như vậy. Tiến trình vụ việc thật ra rất đơn giản. Nhà báo Chuck Miller bị giết sau khi người ta bắn vào tai anh ấy một vài thông tin về cái gọi là một vụ bê bối thuốc phiện trong Nhà Trắng. Marilyn tìm đến với nhà báo Hank Jenkins. Đồng thời,  người ta lén đưa heroin vào bàn viết của Jonathan Willow, để chắc chắn là FBI sẽ thật sự nhảy vào cuộc. Giai đoạn phát triển sau đó là tương đối dễ đoán ra đối với bọn gangster, vì chúng đã biết tính khí của Jenkins. Chúng để Marilyn đọc đoạn văn đó vào băng ghi âm rồi giết cô ta. Để tránh bị bọn mình nghi ngờ, chúng nó ném cuộn băng vào tay bọn mình bằng một kiểu cách hết sức tinh quái. Thế rồi chúng dàn dựng ra ba vụ tự tử.
- Điên rồ! – Dale Winnaker nói thẳng.
Phil nheo mắt lại. Anh biết tôi đã một thời gian dài. Và anh đã thôi không còn chế giếu mỗi khi tôi nói tới “cảm giác về một việc bất ổn”. Bởi thường thì sau đó các sự kiện và vụ việc cũng cho thấy là có chuyện không ổn thật. Nhưng lần này thì ngay cả bạn tôi cũng không cùng ý kiến với tôi. Anh lấy hơi thật sâu rồi lắc đầu.
- Cậu quên một điều rất quan trọng, Jerry. Gregory Thunes, Linda Higgins và James Watson thật sự có nghiện thuốc.
- Nhưng điều đó chưa có nghĩa là họ thật sự dùng thuốc phiện một cách có chủ đích, - tôi khăng khăng bảo vệ ý mình. – Chắc chắn họ sẽ không phải là những người đầu tiên lén bị kẻ khác đưa thuốc phiện vào cơ thể.
- Nhưng làm cách nào, Jerry? Các chính trị gia và các công chức cấp cao đâu có phải là đám thanh thiếu niên điên rồ mới lớn, cái tuổi mà người ta rất dễ bị trộn heroin vào thuốc hút.
Tôi ương bướng nhún vai.
Cả điểm này rồi cũng được giải thích, tôi tin chắc như vậy. Phil còn muốn nói thêm điều gì nữa, nhưng anh bị phá ngang.
Máy điện thoại trên bàn làm việc của Dale Winnaker đổ chuông.
Anh bạn đồng nghiệp xưng danh. Rồi anh lắng nghe, im lặng và rõ ràng là với sự xúc động mỗi lúc một dâng cao. Khi anh ném ống nghe trở về giá máy, có một vệt nhăn rất sâu hằn trên trán…
- Bác sĩ, - anh nói ngắn gọn. – Ông ấy vừa khám cho Jonathan Willow. Đã có kết quả rồi. Chắc chắn là người đàn ông đó đã dùng heroin đều đặn trong thời gian gần đây…