Mười Năm

     ôi có cảm giác như mình đang là một chiến binh da đỏ Apache khi ra trận.
Tôi trườn mình dọc triền đá chênh chếch, thật chậm, từng centimet một. Khó khăn không nằm ở chỗ leo trèo, mà nằm trong sự cần thiết phải chuyển dịch sao cho hoàn toàn không gây một tiếng động. Đa phần thời gian tôi chỉ chạm vào đất qua các đầu ngón tay và đầu ngón chân, và tôi mừng khôn xiết vì ít nhất thì những dải bụi rậm xung quanh vẫn còn lụp đụp rụng nước.
Ở đâu đó phía bên kia con đường, Phil đang sẵn sang can thiệp nếu cần thiết.
Nhưng không được để chuyện đó xảy ra. Một vụ đọ súng là thứ cuối cùng mà chúng tôi cần tới lúc này. Thật thận trọng, tôi hé mắt nhìn qua mép tảng đá, và nhẹ nhàng thở ra khi thấy tên gangster vẫn còn quay lưng về phía mình.
Gã vẫn đang cảm thấy rất an toàn.
Ít nhất thì sự tập trung của gã cũng chỉ có mức độ. Gã thậm chí đã trùm phần mũ của chiếc áo choàng parka lên đầu để che gió lạnh. Điều này đối với tôi có hai ý nghĩa: thứ nhất là gã sẽ không nghe thấy tôi ở bước tiến cuối, và thứ hai là tôi phải ra đòn mạnh hơn trong kế hoạch, nếu không gã sẽ còn kịp thét lên cảnh báo.
Vài giây sau đó, tôi khom người ngồi trên tảng đá.
Khi nhìn sang bên, tôi biết trong trang trại vẫn chưa có gì rục rịch. Chiếc xe Malibu vẫn đứng bên cạnh hai chiếc xe khác trong nhà để xe đang mở cửa. Điều đó có nghĩa là, chúng tôi phải đối mặt với một số lượng địch thủ không nhỏ. Nhưng một khi đã đưa được đứa bé vào trong vòng an toàn, chúng tôi cũng đủ sức xử lý cả một nhóm đông.
Suy nghĩ về cô bé Ivy khiến da đầu tôi tê tê.
Tôi căng các cơ lên và ước lượng thật chính xác. Khuỵu gối lấy đà, nhảy bật lên cao rồi ném mình xuống trong thế báo vồ.
Gã chỉ nhận ra khi tôi đã hạ chân xuống, ngay sát sau lưng gã.
Đối thủ của tôi giật mình và rụt đầu vào giữa hai bờ vai. Chỉ sau một tích tắc, gã muốn xoay trở lại thật nhanh. Nhưng trong trường hợp này, kể cả tích tắc kinh hoàng ngắn nhất cũng đã là quá nhiều.
Cú chặt tay của tôi giáng đúng vào mục tiêu với sức mạnh đã được tính toán chính xác. Không một tiếng động, tên gangster gục xuống. Tôi thậm chí còn kịp tóm lấy khẩu súng máy để nó không đập xuống đất mà gây nên tiếng động.
Hai phút sau, tên gangster đã được trói gô lại và bị bịt mồm.
Tới lúc này thì các bạn đồng nghiệp của chúng tôi đã xiết vòng vây lại gần hơn và tìm cách bao quát trận thế. Qua điện đàm chúng tôi được biết rằng với một sác xuất rất lớn, trên toàn khuôn viên không có vọng gác thứ hai. Nhưng sự tin chắc bao giờ cũng tốt hơn là sác xuất lớn. Chúng tôi không thể chờ đợi cho tới khi đối phương nảy ý định cử người đến thay ca.
Phil và tôi cần tới mươi phút để lại gần tòa nhà, không tiếng động và không hình ảnh.
Ngoài chái nhà để xe, rõ ràng chỉ có tòa nhà chính đang được sử dụng. Các khung cửa sổ được bịt chặt từ phía bên trong bằng những tấm nhựa màu đen. Nấp vào bóng tối của khu chuồng ngựa giờ bỏ hoang, hai chúng tôi khe khẽ đánh giá tình hình. Cả hai cùng chú ý đến một cánh cửa thông hơi bằng gỗ nằm chênh chếch, kinh nghiệm cho chúng tôi biết rằng sau loại cửa này thường là một cầu trượt chuyển hàng, dẫn xuống tầng hầm.
Tôi lẻn về hướng đó. Phil lăm lăm súng yểm hộ cho tôi từ phía sau.
Chúng tôi không cần phải bàn bạc thêm lấy một lời. Việc mở ổ khóa móc ngoài không mấy dễ dàng vì tất cả đinh ốc đã rỉ sét. Một chút sau, khi Phil băng qua mảnh sân trong mọc đầy cỏ dại thì tôi đã mở được khuôn cửa gỗ ra và đang thầm nguyền rủa những tấm bản lề rỉ sét kêu cót két. Cũng may là tiếng nghiến của sắt rỉ không to lắm, ngoài ra, trong nhà đang vang lên tiếng radio. Tôi đoán rằng chưa một tên nào trong đám gangster nghe thấy những tiếng động đáng ngờ ngoài sân.
Lắng nghe hai giây đồng hồ, rồi tôi thận trọng trèo qua khung gỗ đứng chênh chếch đó, xuống dưới.
Phil bám theo tôi và xoay người đóng cửa lại. Bóng tối dày đặc phủ ập xuống. Tôi nháy đèn pin định hướng rồi tắt đi ngay, lướt sang phía một cánh cửa bằng gỗ rất dày.
Cả bản lề của cánh cửa này cũng rên lên cót két.
Thật bình tĩnh, tôi mở nó ra trong tốc độ của sên bò. Giờ đây thì mắt tôi cũng đã làm quen được với tỉ lệ ánh sáng mới. Bóng mờ yếu ớt tỏa ra từ một lỗ thông hơi nào đó ít nhất cũng cho người ta nhìn thấy những đường viền mờ ảo. Một khoảng hành lang dài, vài cánh cửa bên trái và bên phải. Một trong số đó bị khoét một lỗ nhỏ hình vuông, một dạng cửa nhìn đơn giản. Ánh đèn yếu ớt hắt ra từ căn phòng sau nó.
Tôi gật đầu về phía Phil rồi chuyển động tới.
Bạn tôi ở lại. Nếu gặp khó khăn, phải có ai đó đóng vai trò quân dự bị. Rón rén trên những đầu ngón chân, tôi chuyển động trên nền hành lang đúc bê tông, bị thu hút bởi khoảng hình vuông mờ sáng kia như có ma lực. Cuối cùng, tôi dừng lại, lắng nghe.
Những hơi thở. Những hơi thở nhẹ, nhanh,… một đứa bé!
Tôi nhìn qua khoảng hở hình vuông, khoảng hở rõ ràng đã được tạo ra rất tạm bợ bằng những đường cưa thô sù, vội vã, chỉ nhằm mục đích tạo lỗ quan sát. Trong căn phòng cửa sổ sau đó sáng một ngọn đèn trần yếu ớt. Tôi nhìn thấy vài tấm đệm, một mái tóc xoăn vàng và gương mặt nhỏ bé thanh thản đang chìm trong giấc ngủ, và tôi nhẹ nhõm mỉm cười.
Chỉ thoáng qua, tôi cũng biết ổ khóa thuộc loại đơn giản. Cây nạy với những ngạnh sắt dịch chuyển được là đủ cho tôi. Một tiếng ‘cách’ nho nhỏ vang lên khi lưỡi gà trong ổ khóa bật về. Tôi xoay nắm đấm và thận trọng mở cửa ra.
Chỉ sau ba bước chân tôi đã đến bên tấm đệm. Đồng thời, tôi thoáng nhận thấy qua khóe mắt dáng người thứ hai.
Như bị một con rắn độc cắn phải, tôi giật về. Bàn tay thoắt đưa lên bao súng. Mọi dây thần kinh trên cơ thể tôi đều căng lên như dây đàn. Thế rồi tôi chầm chậm thở ra.
Người đàn ông đang tựa người vào khoảng tường trong góc chết cạnh cánh cửa đó bị trói và bị bịt mồm!
Hai con mắt anh ta nhìn trân trân ra phía trước. Ánh mắt như đang nhìn xuyên qua tôi. Anh ta đang say thuốc phiện, rõ ràng là như thế. Một chiếc khăn len buộc ngang nửa mặt dưới để ngăn anh ta nhổ nùi giẻ bịt mổm ra, mặc dù vậy tôi vẫn nhận ra anh ta ngay lập tức.
Mel Corlet!
Vị công chức bị nghi là ngày hôm nay sẽ lén đưa một lượng heroin lớn vào Nhà Trắng!
Tôi không hiểu anh ta làm gì ở đây.
Và điều quan trọng hơn cả là tôi không linh cảm ra rằng, chính trong những giây phút này, các bạn đồng nghiệp của tôi vẫn tin chắc là họ đang quan sát một anh Mel Corlet thật.
Vì thế mà tuy tôi cũng ngạc nhiên đấy, nhưng không có được một phần nhỏ của mức độ cảnh giác mà lẽ ra tôi phải có.
  * * *
Hai giây đồng hồ sau, tôi đã gỡ nùi bịt mồm cho người đàn ông kiệt sức, nhợt nhạt đến phát sợ.
Anh ta thèm thuồng hít không khí. Nửa như còn tỉnh nửa như đã muốn ngất đi. Nhưng vẻ đờ đẫn trong hai con mắt ít nhất cũng cam đoan với tôi rằng anh ta sẽ không tru tréo rung chuông báo động. Tôi tóm lấy vai anh ta và khẽ lắc người anh ta.
- FBI, - tôi nói hối hả. – Chúng tôi sẽ đưa anh ra khỏi đây, Corlet. Anh hãy im lặng thêm vài phút nữa, được không?
Tôi không biết liệu anh ta có nghe rõ lời tôi.
Dù sao, anh ta cũng tự động tự xoa cổ tay mình, sau khi tôi đã cắt dây trói ra. Thận trọng, tôi cúi mình xuống tấm đệm và gạt một vài lọn tóc vàng ra khỏi trán cô bé. Cô bé đang ngủ, chắc chắn là dưới hiệu quả một loại thuốc nghiện nào đó. Tôi mở mí mắt của cô bé lên kiểm tra và nhận thấy hai con ngươi đang đảo lên trên, cô bé chắc chắn sẽ không tỉnh dậy giữa chừng. Nhưng chừng nào mà mạch còn đập mạnh và hơi thở còn đều đặn, báo cho tôi biết là cô bé không bị đau ốm gì, thì giấc ngủ say này rất thích hợp với kế hoạch của chúng tôi.
Tôi lắng nghe vài giây đồng hồ. Rồi tôi bế xốc thân hình nhẹ bỗng đó lên tay và trườn ra ngoài hành lang.
Phil đang chờ ở căn phòng bên dưới cầu trượt. Suốt thời gian qua anh đã căng thẳng quan sát toàn bộ hành lang. Giờ anh nhẹ nhõm thở ra.
- Cô bé ổn chứ? – Anh hỏi ngắn.
- Có vẻ thế.
- Thế thì thoát khỏi đây nhanh…
- Chầm chậm đã, anh bạn già! Corlet còn ở trong này!
- Corlet?- Phil hỏi, sững sờ cực độ.
- Đừng hỏi mình tại sao! Bản thân mình cũng không biết. Đầu tiên đưa cô bé về nơi an toàn, rồi quay trở lại đây! Trong thời gian đó, mình tìm cách đánh thức anh ta dây. Anh ta cũng đang bị say thuốc phiện.
- Mỗi một lúc một khó hiểu hơn, - Phil vừa lẩm bẩm vừa trèo ngược cầu trượt lên trên và mở nắp đậy bằng gỗ ra.
Tôi trao cho anh cô bé đang ngủ say. Rồi tôi lại đóng cửa gỗ lại. Phần việc thứ nhất hầu như đã được hoàn tất. Giờ chỉ còn Corlet, người đã đột ngột xuất hiện trong tư cách tù nhân của bọn người đối nghịch. Cho tới bây giờ tôi vẫn chưa thể hiểu nổi chuyện này, và tôi không có ấn tượng rằng người đàn ông này trong vòng hai hay ba tiếng đồng hồ nữa sẽ đủ khả năng cung cấp cho tôi lời giải thích.
Khi tôi quay trở về tới phòng giam thì người đàn ông đó vẫn còn đờ đẫn ngồi xổm bên tường.
Tôi kéo anh ta dậy và phải đưa tay đỡ, vì đầu gối anh ta như muốn gập lại bất cứ lúc nào. Ra đến hành lang, tôi thoáng dựa người anh vào tường rồi với tay đóng cửa lại. Nếu một trong những tên gangster bất ngờ đi xuống dưới này, chúng tôi không nên để cho gã nghi ngờ ngay từ cái nhìn đầu. Hiện trong nhà vẫn còn yên tĩnh. Tôi mím môi lại rồi gắng sức kéo Mel Corlet, vất vả đi qua khoảng hành lang, về phía căn phòng có chiếc cầu trượt.
Phil đã quay trở lại. Các bạn đồng nghiệp của chúng tôi bây giờ chắc chắn phải tiến đến gần trang trại lắm rồi. Corlet mềm nhũn ra trong cánh tay đỡ của tôi, anh ta dường như sắp ngất. Không, chắc chắn anh ta sẽ không thể nhanh chóng kể cho chúng tôi nghe một điều gì, trừ trường hợp bác sĩ tìm ra anh ta đã bị xử lý bằng loại thuốc phiện nào và tìm được cách cắt ngang hiệu ứng của nó. Hiện thời, chúng tôi phải lấy làm mừng rằng ít nhất thì phản xạ của nạn nhân vẫn còn hoạt động tốt, đủ tốt để anh ta phần nào tự trèo được lên trên, dọc theo những thanh gỗ nằm chắn ngang cầu trượt.
Tôi đẩy từ dưới. Phil tóm lấy hai cánh tay Corlet và thận trọng kéo anh ta lên cao. Chúng tôi không thể không gây một vài tiếng động. Nhưng điều đó giờ không còn quan trọng nữa. Phil giơ tay đỡ lấy thân hình Mel Corlet đang nghiêng ngả rồi chờ tôi bên miệng hầm. Chính trong giây phút này, tôi nghe thấy tiếng một cánh cửa mở ra ở đâu đó trong tầng hầm.
- Có đứa tới! – Tôi rít lên. – Đưa Corlet đi, rồi ra hiệu cho quân tràn vào!
- Nhưng mà…
- “Chia ra và chiến thắng”, - tôi trích dẫn. – Cesar đã nói thế, mà chắc chắn ông ta là một chiến lược gia vĩ đại. Những gì mình làm ở dưới này đâu có cản trở công việc của các cậu trên đấy, đúng không?
Phil không nghĩ tới chuyện phản kháng nữa.
- Rõ, - anh nói ngắn.
Trong tích tắc sau đó, anh đưa Mel Corlet biến ra khỏi tầm nhìn của tôi. Nhưng tôi biết rằng chẳng bao lâu nữa bạn tôi sẽ xuất hiện trở lại.
  * * *
Gã đàn ông mà những người canh chừng tưởng là Mel Corlet đã làm việc trong một tiếng đồng hồ trong phòng của gã.
Gã hoàn toàn an ổn. Ngay cả khi gã rời Nhà Trắng cũng vậy. Giờ gã lại dừng chiếc xe Mercury Gougar màu xanh dương trước căn hộ của gã, bước xuống xe rồi vươn vai như một người đàn ông vui sướng vì vừa làm tròn trách nhiệm của mình.
Mà gã vui sướng thật.
Bởi cho tới giây phút cuối, gã đã luôn băn khoăn đến gần như tuyệt vọng rằng liệu những tính toán của Carlos Cameretti có bị nhầm lẫn chỗ nào chăng. Hoàn toàn có thể xảy ra khả năng các sĩ quan đặc nhiệm FBI không chọn con đường an toàn nhất, mà bắt giam người gọi là Mel Corlet ngay trong Nhà Trắng. Nhưng FBI phản ứng y hệt như Cameretti đã đoán trước, và tay Corlet giả bây giờ thở ra nhẹ nhõm khi thấy mình đã trèo được qua mỏm đã khó khăn nhất.
Theo thang máy, gã lên căn hộ “của gã”, đóng cửa lại và kéo kín tất cả các rèm cửa sổ.
Phòng tắm đằng nào cũng không có cửa sổ, không có cơ hội cho người quan sát từ phía ngoài. Thật nhanh, gã bỏ tóc giả xuống, thận trọng gỡ cặp kính sát tròng màu xanh ra khỏi mắt, rồi đổ một chất lỏng đăc biệt lên trên một cụm bông lớn, xóa đi màng keo đã làm thay đổi nét mặt. Chỉ năm phút sau, gã đàn ông lại trở về là chính gã, như cha sinh mẹ đẻ.
Nhưng trong trường hợp này, tẩy trang như thế là vẫn chưa đủ, bởi bản thân gã có ngoại hình giống Mel Corlet thật. Một loại chất lỏng thứ hai mang lại cho làn da gã cái màu xám xịt, bủng beo. Tấm độn má làm cho những nét mặt như sưng phù lên, hai mũi chích nhỏ với ông tiêm mini tạo ra hai ngấn mỡ bên dưới mi mắt, những ngấn mỡ sẽ lại tan ra trong vòng một tiếng đồng hồ. Một mái tóc giả với lần tóc xám đã bắt đầu thưa làm hoàn thiện chiếc mặt nạ. Tên gangster vội vàng thay đồ. Mười phút sau, gã rời căn hộ trong tư cách một người đàn ông sang trọng nhưng đã lớn tuổi, tấm lưng chớm còng dưới gánh nặng của thời gian.
Trên hành lang không có ai, gã đã xem trước.
Thang máy lại đưa gã xuống dưới. Bình tĩnh, gã đàn ông mở cửa vào nhà, thoáng ngẩng lên nhìn trời và thậm chí còn đủ tỉnh lạnh để đưa mắt nhình quanh.
Không một ai chú ý đến gã. Hay là có.
Gã nhận thức rằng đang có những ánh mắt kiểm tra gã nhanh chóng nhưng tập trung. Nhưng không một nét nào trong ngoại hình của gã khiến người ta nghi ngờ. Trong một tích tắc, ánh mắt gã dừng lại bên những cây thủy tiên đang nở hoa trong khoảng vườn trước nhà. Gã mỉm cười, giống hệt một ông già về hưu hiền lành đang vui sướng trước vẻ đẹp thiên nhiên. Thế rồi bằng những chuyển động hết sức chậm rãi và bình tĩnh, gã giương chiếc ô rất lớn màu đen lên, bước ra vỉa hè và xoay người sang phải. Không một chút vội vàng, gã đàn ông đi về phía ngã tư gần đó rồi rẽ ngoặt sang con phố nằm ngang.
Không một ai nhìn theo gã. Ngôi nhà mà gã bước ra có tất cả tám tầng. Mỗi tầng có hai căn hộ và ít nhất cũng phải có từng đó người sinh sống.
Các sĩ quan đặc nhiệm sẽ thề thốt rằng cái tay Mel Corlet vẫn đang còn ở giữa bốn bức tường của gã…