-35 -36 -
Vừa biết chớm buồn

    
au những ngày đảo chính, tỉnh lỵ náo nức nhộn nhịp. Vẻ buồn thoang thoảng của nó biến đâu mất. Đảo chính ví như một lớp phấn hồng nhạt, đánh phớt trên khuôn mặt lười trang điểm của cô gái tỉnh nhỏ. Đâu đâu, người ta cũng nói chuyện độc lập và Khối Đại Đông Á. Bài hát Tiếng gọi sinh viên, của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, được người lớn và trẻ con thị xã Thái Bình học hát một cách say sưa.
Này sinh viên ơi,
quốc gia đến ngày giải phóng.
Đồng lòng cùng đi
hy sinh tiếc gì thân sống.
Vì tương lai quốc dân,
cùng sông pha khói tên,
làm sao cho núi sông
từ nay luôn vững bền.
Dù cho thân phơi trên gươm giáo.
Thù nước lấy máu đào đem báo...
Thằng Vọng đứng giữa sân trường bắt nhịp và dạy bạn bè hát. Khắp sân trường, học trò túm năm tụm ba, tập hát Tiếng gọi sinh viên. Các lớp đóng cửa im ỉm. Học trò tới trường để hát và bàn tán chuyện độc lập. Vọng tiếc rẻ không có con nhà Vũ thổi ác mô ni ca. Nó hát khản cả tiếng, hát vang lừng, như thể cả đời nó chưa bao giờ được hát.
Sinh viên ơi!
Mau hiến thân dưới cờ
Sinh viên ơi!
Mau làm cho cõi bờ
thoát cơn tàn phá,
vẻ vang đời sống, xứng danh ngàn năm
dòng giống Lạc Hồng.
Người lớn gặp nhau ngoài đường, nắm trái đấm giơ lên cao chào nhau. Trẻ con cũng giơ nắm đấm chào nhau. Đưa đám ma một nhân vật của thị xã, người ta theo quan tài, hát bài Tiếng gọi sinh viên.
Một cơn gió mới lùa vào tâm hồn Côn, cùng với niềm hân hoan của dân tộc. Bản nhạc Tiếng gọi sinh viên đã dạy Côn lớn lên, khôn ra. Nó mới hiểu, yêu nước là phải xông pha khói tên, làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền. Côn nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ phất phơ bay trên ngọn cột cờ trường học. Phải hiến thân dưới lá cờ đó. Thầy Đàn đã hiến thân dưới cờ, thầy đã ra đi, lấy máu đào đền nợ nước. Côn muốn gặp thầy Đàn để ôm chặt thầy. Nó thương thầy gấp bội. Nó hãnh diện là học trò thầy Đàn, như Vọng hãnh diện là học trò thầy Hoan.
Niềm hân hoan của dân thị xã bộc lộ rõ rệt nhất trong ngày giỗ tổ Hùng Vương. Học trò thành chung và học trò tiểu học, áo dài đen, quần chúc bâu trắng, đội mũ trắng, xếp hàng đi trước, dân chúng theo sau, từ trường tiểu học, tiến đến sân vận động. Tất cả hướng mặt về Câu lạc bộ. Nơi đó, một bàn thờ trải cờ Việt Nam và một đỉnh hương trầm nghi ngút. Đội kèn bú rích của lính khố xanh, nay gọi là An Vệ Dân, thổi bài Tiếng gọi sinh viên. Trống đồng đánh thình thình, nghe oai vệ lắm. Học trò giở nón, úp vào bụng. Thằng Vọng được đứng với đội kèn bú rích. Nó lấy giọng, bắt nhịp. Học trò đồng ca:
Bốn nghìn năm văn hiến,
nước Nam khang cường.
Là nhờ công đức ngàn xưa.
Văn hóa như sông rừng,
cùng nâng dắt nhau
tô vào muôn ngàn sắc hoa...
Đời đời nhờ Hùng Vương đã vì quốc dân,
lập nên nước này...
Cúi đầu xin ban phúc
giúp cho con Rồng,
từ nay thôi hết lầm than...
Năm nào, dân thị xã cũng giỗ tổ Hùng Vương nghiêm trang. Năm nay, nghiêm trang và phấn khởi hơn. Quan đầu tỉnh người Việt đọc diễn văn nhắc nhở công đức tổ Hùng Vương. Trên hàng ghế danh dự, không còn quan công sứ Tây nữa, mà chỉ có mấy vị sĩ quan Nhật, ngực đeo huy chương, lưng dắt kiếm dài. Buổi lễ chấm dứt, dân chúng tuần hành khắp phố. Những thông ngôn Nhật dặn dân thị xã rằng: Khi nào họ hô, đả đảo thực dân Pháp, thì tất cả giơ tay, hô đả đảo.
- Đả đảo thực dân Pháp!
- Đả đảo...
- Đả đảo thực dân Pháp!
- Đả đảo...
Bọn thằng Côn hô to nhất. Nó hỏi Vọng:
- Đả đảo là gì hở, mày?
Vọng nắm chặt trái đấm:
- Đả đảo là đánh cho Tây điên đảo, hạ quỵ Tây.
Những tiếng hô vang vọng khắp thị xã.
- Đả đảo thực dân Pháp!
- Đả đảo...
- Nhật Hoàng vạn tuế!
- Vạn tuế...
- Việt Nam độc lập!
- Độc lập...
- Đại Đông Á đoàn kết!
- Đoàn kết...
- Đả đảo thực dân Pháp!
- Đả đảo...
Bỗng, có người hô:
- Đả đảo phát xít Nhật!
Dân chúng quen miệng, hô theo:
- Đả đảo.
Lập tức, những người thông ngôn Nhật rút súng lục ra, lăm lăm trong tay. Một người bắn chỉ thiên ba phát. Lính Nhật theo đám tuần hành chạy rầm rập lên phía trước, chận lại. Họ rút lưỡi lê, cắm vào đầu súng, lên đạn lách cách. Những ngọn lưỡi lê chỉ chực đâm thủng da thịt. Dân chúng đứng im, mặt mày xám ngắt. Thông ngôn Nhật khám xét từng người lớn. Côn run sợ, véo Vọng một cái. Nó nói nhỏ:
- Bỏ mẹ rồi. Thằng nào bị bắt, sẽ bị Nhật chém ngang thây.
Vọng nghiến răng cho hai hàm khỏi đánh nhịp. Nó thúc nhẹ vào mạng mỡ Côn:
- Câm mồm lại đi.
Sau nửa giờ khám xét, thông ngôn Nhật tóm một người tình nghi, lôi ra. Vọng bật nói:
- Anh Đạo.
Ôny Ban tát tai anh Đạo hai cái, nẩy đom đóm mắt. Anh Đạo nhổ nước miếng, trúng mặt ông Ban.
- Đồ Việt gian!
Lính Nhật thúc báng súng trường vào ngực anh Đạo. Anh ta trợn mắt, nhìn mọi người, gầm lên:
- Đả đảo phát xít Nhật!
Một báng súng nữa đập thẳng mặt anh Đạo. Máu anh ứa ra, và anh rũ xuống, cơ hồ một thân cây bị đốn ngã. Dân thị xã run bần bật. Côn úp tay che mặt. Thằng Vọng mở to mắt nhìn. Hàm răng nó không còn đánh nhịp. Nó nắm chặt hai nắm đấm, nghiến răng ken két. Luyến thấy đôi mắt Vọng long sòng sọc. Nhật ra lệnh giải tán đám tuần hành, người nào về nhà người ấy. Côn kéo tay Vọng, Luyến ra về. Đi được quãng xa, ngó lại không thấy lính Nhật, thông ngôn, Côn hỏi Vọng:
- Anh Đạo nào đấy mày?
- Anh ấy ở Đông Cao [1], Tiền Hải.
- Mày quen anh ấy à?
- Thầy Hoan bảo anh ấy tìm tao. Tối qua, anh Đạo kể tội Nhật. Anh ấy nói sẽ xui dân thị xã chống phát xít Nhật. Giá anh Đạo không bị bắt, tao đã theo anh ấy đi rồi.
Luyến lè lưỡi:
- Ông sợ quá, ông chuồn đây.
Luyến co cẳng chạy. Côn không nói thêm gì với Vọng nữa. Tự đáy lòng nó, vừa cuồn cuộn một nỗi đau thương. Côn đã nhìn rõ sự hung ác của Nhật. Nó nhìn Vọng. Thằng bạn nghèo khổ đang ứa nước mắt. Côn thấy nước mắt bạn không giống nước mắt những lần nó bị thằng Hách bắt nạt. Nó vươn tay, khoác vai Vọng:
- Về nhà tao uống nước.
36
 
Niềm hân hoan đã tàn lụi. Lớp phấn hồng đảo chính, trên má cô gái tỉnh lỵ, vội vàng phai nhạt. Bây giờ, chỉ hằn dấu vết sợ hãi. Nhật treo chân hai người Việt Nam, trên một cành cây, đầu dộng xuống. Hai người này, bị bắt quả tang, ăn cắp thóc của ngựa lính Nhật. Họ quỳ lạy Nhật. Nhật không mảy may xúc động. Lính Nhật trói chân họ, dùng dây thừng lớn, kéo lên cành cây cao, ở đầu tỉnh. Một người lính Nhật leo lên buộc chặt. Hai tên ăn cắp thóc giẫy giụa, la hét, cho tới khi chết. Hai người bị Nhật xử tử cùng cư ngụ tại xóm Kỳ Bá. Họ nghèo khổ, như mẹ con thằng Vọng. Chính mắt Vọng đã nhìn thấy, từ lúc họ bị bắt đến lúc họ giẫy chết. Vọng kể cho Côn nghe. Côn đã ôm mặt khóc tấm tức. Nó thương hai người nghèo chết khổ sở quá.
Nhật để hai cái xác chết toòng teng trên cây ba ngày, để làm gương cho dân thị xã. Không ai dám gần chỗ ngựa lính Nhật ăn thóc nữa. Nhật đi khám xét từng nhà. Nhật không bắt rượu lậu, mà chỉ bắt những người chống Nhật. Quan đầu tỉnh người Việt không can thiệp nổi việc gì. Thị xã căng thẳng nỗi sợ. Nhật ra lệnh cho dân quê nhổ lúa non lên trồng đay, để Nhật có đay đan lưới, chống bom Mỹ! Ai không tuân lệnh sẽ bị xử tử. Dân quê phá lúa, trồng day. Gạo bỗng lên giá vùn vụt. Dân quê đổ xô về thị xã, xin việc làm tôi tớ và ăn mày. Chợ thị xã và các vỉa hè, ban đêm, ăn mày ngủ chật ních. Mùa xuân năm may lạnh hơn những mùa đông năm cũ. Khối ông già, bà lão đã chết cóng ở chợ. Ngay tại thị xã, nhiều nhà đã phải ăn cơm trộn ngô, khoai. Có gia đình sáng lót lòng củ khoai, trưa ăn cơm, và tối húp cháo.
Chiến tranh cũng theo đảo chính về Thái Bình. Người Hà Nội, người Hải Phòng, có bà con thân thuộc ở Thái Bình, về đây tránh bom Mỹ. Nhật gây chiến với Mỹ. Và, Mỹ chở bom, dội xuống Hà Nội, Hải Phòng. Bác thằng Côn đi ca nô Nam Định-Hà Nội, bị máy bay Mỹ bắn trúng tay, phải cưa cụt một tay.
Mỹ chưa dội bom Thái Bình, Nhật đã bắt đào tăng sê và tập phòng thủ thụ động. Hôm nọ, máy bay Nhật rượt máy bay Mỹ trên vùng trời Thái Bình, đã làm náo động dân chúng. Chiếc máy bay khu trục của Mỹ, bị hạ rơi ở Quỳnh Côi, cháy từ trên không, rớt xuống nổ tan tành. Người ta sợ Mỹ dội bom Thái Bình để trả thù. Ban đêm, dân thị xã bị cúp điện. Mỗi nhà chỉ được thắp đèn dầu nhỏ, và hễ báo động, phải tắt ngay. Xe Con Voi của ông Lê văn Định nằm đầy bến. ét xăng hiếm lắm. Nhật không cho xe chạy bằng xăng. Xe Con Voi dùng than, chạy các đường mười hai phủ huyện.
Thằng Vũ đã về Thái, dịp này. Côn thấy bạn khác đi nhiều quá. Nó lớn vượt hơn Côn. Vũ có vẻ ít nghịch ngợm. Nó không kể cho Côn, Luyến, Vọng nghe chuyện vườn Bách Thú, hồ Tây, Nghi Tàm, Quảng Bá, Láng, Voi Phục, hồ Gươm, mà toàn kể chuyện đảo chính Nhật ở Hà Nội và nấp máy bay Mỹ.
Sự hồn nhiên chưa hẳn mất, nhưng thời cuộc đã làm những đứa trẻ duỗi chân. Và, sự hồn nhiên bị đụng, hở ra một cánh cửa, cho nắng gió ùa vào. Giọng nói của Vũ ồm ồm, khó chịu lắm. Nó không nhận ra điều đó. Nó lại khó chịu giọng nói của thằng Côn.
Vũ về Thái được hai hôm, thị xã xôn xao chuyện một sĩ quan Nhật bị giết chết, ở bến đò Hưng Nhân, gần làng Thanh Triều. Một người Việt Nam đã bắn viên sĩ quan này, và đẩy xác xuống sông Trà Lý. Nhật bao vây thôn xóm, quanh bến đò, đòi xác sĩ quan của họ. Họ cho một cái hẹn ba ngày, nếu không nộp xác chết, họ sẽ làm cỏ hết dân chúng. Côn sợ hãi. Vũ coi thường. Chúng nó rủ nhau vào sân trường nói chuyện. Vũ bảo:
- Ở Hà Nội, đêm nào ta cũng giết Nhật và Việt gian.
Côn chợt nhớ hôm giỗ tổ Hùng Vương, anh Đạo nhổ nước miếng vào mặt ông Ban, mắng ông ta là đồ Việt gian, nó quên béng, chưa hỏi Vọng. Nay, Vũ lại nhắc hai tiếng Việt gian, Côn đập khẽ lưng Vũ:
- Việt gian là gì hở, mày?
- Là người Việt làm tay sai cho Nhật.
- Tay sai là gì?
- Là Nhật nó sai đi giết người, bắt người đánh đập.
Côn liếm môi, quan trọng:
- Ông Ban là Việt gian đấy, mày ạ!
Vũ há hốc miệng:
- Thế à? Mày đừng gọi nó là ông nữa. Ở Hà Nội, người ta gọi Việt gian là thằng. Thằng Ban mà ở Hà Nội, là bị giết rồi. Dân Hà Nội cừ lắm. Coi Nhật như tép kho tương. Tao cuộc với mày, Nhật nó chỉ dọa, chứ nó đét dám làm cỏ dân ở bên đò Hưng Nhân đâu.
Nói chuyện Nhật và Việt gian chán chê, Vũ hỏi Côn chuyện Thái Bình:
- Thầy mình còn dạy không?
Côn ơ một tiếng:
- Tao viết thư cho mày rồi thôi.
- Thư lạc bố nó mất rồi.
- Thầy mình đi được mấy tháng. Bố tao bảo thầy là nhà cách mạng.
- Thế hở? Ở Hà Nội, có nhiều nhà cách mạng lắm.
- Thầy khen mày can đảm, và khuyên tao hãy can đảm như mày.
Vũ ngạc nhiên:
- Tao can đảm cái gì đâu?
Côn vỗ vai bạn:
- Mày không thèm xin lỗi thằng phó cẩm. A, hôm đảo chính, thằng Việt gian Ban tát lão phó cẩm hộc máu mồm.
Vũ khoe:
- Ở Hà Nội, tao đi xem đánh Tây mới vui. Về sau, tao thương Tây, mày ạ! Nhật nó đểu quá, nó ác hơn Tây.
Côn nắm chặt cánh tay bạn:
- Mày giống tao ghê. Thằng Vọng nó thích Nhật hành hạ Tây.
Vũ không chê Vọng. Nó đăm đăm nhìn gian lớp cũ. Có lẽ trường xưa, lớp cũ, và những ngày vui đùa năm qua chỉ còn là kỷ niệm. Côn lay bạn:
- Chúng tao mang gạo cho thằng Vọng đấy. Dạo này gạo kém, mẹ con nó phải ăn cháo thay cơm.
Vũ buồn buồn:
- Ở Hà Nội đã có người chết đói. Chúng mình may cái túi vải, mỗi đứa lấy trộm gạo ở nhà, bỏ vào túi, đem đến cho thằng Vọng.
Côn nói:
- Nó bảo vì Tây mà nó đói khổ. Thầy Hoan dạy nó rằng, sự đói khổ là mầm thù hận. À, Vũ này...
- Gì?
- Mày... mày...
- Gì đấy?
- Mày đừng giận tao, nhé!
- Ông đấm mày chết bây giờ.
- Mày... mày... có nhớ...
- Nhớ ai?
- Nhớ con Thúy không?
Vủ phá ra cười. Nó lăn trên sân cỏ. Côn không hiểu gì cả. Con nhà Vũ nghếch đầu lên:
- Nó biến thành con nhặng chưa?
- Chưa.
- Mày trả thù nó cho tao chưa?
- Chưa.
Côn ngẩn ngơ một lát. Rồi, rụt rè hỏi Vũ:
- Tao... tao...
Vũ toét miệng:
- Mày ghét nó, hở?
Côn lắc đầu rất thiểu não:
- Không, tao lại chơi với nó, mới chết chứ.
Vũ chồm tới, nắm chân bạn:
- Thì mày cứ chơi với nó đi. Tao có bạn ở Hà Nội. Mà tao ghét nó rồi. Mày biết không, nó lớn hơn tao, nó ở cạnh nhà tao. Hễ lúc tao đi học, nó chạy theo cho tao ngô luộc với lại bánh rán, tao ngượng quá. Một hôm, nó ôm lấy tao, tao ức, đấm nó một quả, nó khóc, mày ạ! Từ đó, tao không thèm chơi với con gái nữa.
Vũ nhìn Côn ranh mãnh:
- Con nhặng Thúy đã cho mày bánh rán chưa?
Côn cúi gầm mặt, đáp nhỏ:
- Chưa. Chỉ có tao cho nó cái lồng chim cu gáy.
Giữa lúc hai thằng bạn thân đang tâm sự, vua súng cao su Luyến xuất hiện. Nó kéo hai thằng đi ăn phở Phớn. Trời lạnh, đi ăn phở, còn gì ngon hơn? Vũ cuộc một bát phở sào với Côn, là Nhật không giết hết dân quanh bến đò Hưng Nhân.
Không đứa nào thắng cuộc cả. Vào ngày hạn cuối cùng của Nhật, một thanh niên đến nạp mạng lính Nhật, thú nhận đã giết viên sĩ quan. Anh ta nộp luôn khẩu súng lục đã bắn nạn nhân. Anh ta bảo dân chúng vô tội. Cùng lúc ấy, lính Nhật đã kiếm được xác viên sĩ quan của họ, nổi lềnh bềnh, trên khúc sông gần đó. Mùa nước này lặng, nên xác không trôi xa. Nhật tẩm dầu xăng, đốt xác viên sĩ quan, bỏ than vào cái hộp. Họ cử lễ truy điệu viên sĩ quan, rồi rút kiếm chém đứt đầu người thanh niên. Anh ta đã cứu mạng sống của hàng trăm người. Cha thằng Côn kính phục người thanh niên dũng cảm, coi cái chết của anh như cái chết của một liệt sĩ.