Phần IV - 69 - 70
Chu kỳ rữc rỡ

     enri Rivière Huệ đóng quân ở sân chùa. Ngôi chùa mới tiêu điều làm sao, chứ? Không có cửa, cũng chẳng có cổng. Tượng bụt ngổn ngang. Ông thì mất râu, bà thì mất tai. Trước và sau chùa, người ta đánh những đống rơm to tướng. Chùa chả có sư gì cả. Cột mọt ăn tứ tung. Mái nhìn thấy trời. Gà qué rủ nhau vào chơi, gáy ỏm tỏi. Bụt hết thiêng, nên gà nhảy cả lên đầu bụt, mà mổ lia lịa. Hương khói vắng ngắt. Chùa bị dân làng bỏ phế. Thiếu cả quả chuông.
Cách đó chừng trăm thước, ngay trên đất làng Tường An, lại có một ngôi chùa thật đẹp, nhưng là chùa của làng Đại Đồng. Ngôi chùa không có tượng bụt. Dân làng Đại Đồng ít lai vãng. Thành ra ngôi chùa chỉ còn là nơi nhi đồng Đại Đồng tập đánh trống.
Bà nội Khoa bảo rằng, ngày xưa, hai ông tiên chơi chọi gà, đem chùa Tường An và chùa Đại Đồng đặt cuộc. Tiên làng nào thua, làng ấy mất chùa. Tiên Đại Đồng ăn gian, mang gà gỗ dự trận. Tiên Tường An ngay thẳng, vác gà thật chọi với gà gỗ. Chọi ba ngày liền, gà của tiên Tường An chết lăn cu lơ. Làng Tường An mất chùa, phải dọn tượng về cái vựa thóc thờ cúng tạm, chờ ngày xây chùa mới. Khi tiên Tường An biết mình bị tiên Đại Đồng gạt gẫm, chùa Tường An đã thuộc làng Đại Đồng. Ông sư, bà vãi bỏ đi kiếm chùa khác. Tiên Tường An hứa xây một ngôi chùa lớn hơn. Bao nhiêu năm ròng rã, tiên mải hạc nội mây ngàn, không thèm trở lại, và ngôi chùa tạm càng ngày càng tiêu điều. Tường An không có chùa, vì thế.
Henri Rivière Huệ đang chiếm ngôi chùa hoang phế. Bọn giặc Pháp và Việt gian canh chừng cẩn mật, đề phòng quân ta tấn công. Huệ không muốn làm một tên giặc Pháp tầm thường. Cũng như Khoa, nó sẽ đánh nhau với quân ta quyết liệt, trước giờ đầu hàng. Chọn sân chùa, là Huệ khôn lắm. Nó chỉ canh phòng ba mặt. Đằng sau chùa, có cái ao đầy đặc bèo Nhật bản, ăn thông ra con ngòi, quân của Khoa khó lòng tấn công đồn Pháp, mặt sau. Buổi chiều, Huệ đã một mình lén tới chùa, bê những ông tượng đắp thành hình tròn, trống khoảng giữa. Nó sẽ trốn trong đó, nếu hết đường tẩu thoát. Giặc Pháp hái hàng bị sung xanh, ổi xanh làm lựu đạn, chống giữ đồn. Huệ tin chắc Khoa không thể thắng nó dễ dàng. Nó chờ đợi Khoa.
Ở cầu Chờ, quân ta tập trung đông đủ. Hễ được làm quân ta đi đánh thực dân Pháp, chẳng ông nhãi nào chịu nằm nhà, nhất là những ông nhãi cứ bị làm thực dân Pháp và Việt gian, những lần chơi trận giả tại thôn mình. Trung đội trưởng Khoa, và hai mươi cảm tử quân mặc trần xì mỗi cái quần đùi. Những đứa khác, đeo lá đầy mình mẩy, trên đầu đội lá trang. Bộ đội về làng, thường mang lưu đạn hình thù giống cái chày giã cua, gọi là lựu đạn chày. Quân ta lấy đất sét, nặn lưu đạn chày. Vài ông nhãi xé lá chuối gói gio, làm tạc đạn. Đội cảm tử cầm ống đu đủ.
Khoa dõng dạc hỏi:
- Thằng nào thích noi gương anh Kim Đồng?
Nhiều cánh tay giơ lên. Khoa phê bình từng đứa:
- Thằng Quyền bị kiến lửa đốt, cũng khóc. Thằng Nhân ngã khẽ, cũng kêu đau. Thằng Tí không dám bắt cá trê, sợ ngạnh đâm nhức tay. Thằng Hòa bị chó đuổi, cắm đầu chạy... Chúng mày noi gương anh Kim Đồng thế quái nào được.
Anh Kim Đồng dũng cảm phi thường. Cha anh là ông Hương bị giặc giết. Mẹ anh chết luôn. Anh xung phong làm liên lạc viên cho bộ đội để... yêu nước và rửa thù nhà. Bộ đội đã diễn kịch Kim Đồng. Đoạn Kim Đồng chịu thử thách, khán giả nhô con đứng cả tim. Anh bộ đội hỏi Kim Đồng:
- Muốn làm liên lạc viên, em phải để anh chặt một cánh tay của em.
Anh Kim Đồng không suy nghĩ, đưa cả hai tay lên bàn:
- Em xin được chặt cả hai tay.
Anh bộ đội vung mã tấu. Khán giả nhô con hồi hộp. Mã tấu vung cao, quật xuống. Cách tay Kim Đồng một gang, mã tấu dừng lại. Anh bộ đội khen ngợi Kim Đồng:
- Em dũng cảm quá, Kim Đồng. Anh thử lòng kiêu hùng của em đó thôi. Em xứng đáng là nhi đồng Việt Nam.
Khán giả nhô con vỗ tay, hoan hô anh Kim Đồng. Đoạn Kim Đồng bị giặc Nhật bắt, tra tấn tàn nhẫn, anh quyết chết không tiết lộ bí mật, khán giả nhô con đả đảo phát xít Nhật, và đứng dậy hát vang:
Anh Kim Đồng ơi anh Kim Đồng ơi
Tuy anh qua đời
Gương anh sáng ngời
Đoàn tôi cố noi...
Trên sân khấu, tấm màn thô sơ khép lại.
Trung đội trưởng Khoa chỉ định một Kim Đồng:
- Tao cho thằng Hiển làm anh Kim Đồng.
Hiển hí hửng:
- Tao thề thà chết vinh hơn sống nhục!
Và, Kim Đồng Hiển ra đi để... bị Henri Rivière Huệ bắt. Khoa đã rỉ tai dặn nó phải khai gì với Huệ. Kim Đồng Hiển cắm cổ chạy. Gần đến đồn giặc, Kim Đồng phanh chân, lững thững vừa đi, vừa hát:
Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều
Bên đèo tiếng gió reo ngàn thông reo
Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều
Bên đèo đoàn quân reo đạn bay vèo
Hôm nay đây vai vác súng trông mây trăng gió buồn đứng
Chiều vàng nhớ núi rừng...
[7]
Henri Rivière Huệ sai quân bò khỏi đồn, bắt sống tên liên lạc do thám của địch. Quân giặc bò chậm quá. Kim Đồng Hiển đợi lâu, bèn chụm tay vô miệng, tuyên truyền địch vận:
Người bạn tôi ơi
Người con của đất Việt
Ở bên phía quân thù
Người còn thức hay mơ
Bên kia là phía sầu u có người dân Việt gục đầu trên đất thù
Bên đây là phía tự do vẫn được “ông già” làm toàn dân “chết co”...
[8]
Hiển là thằng nhãi vui nhộn. Nó nghe ai đó, trong đám dân tản cư, hát trệch “vẫn được cha già làm toàn dân ấm no”, thành “vẫn được ông già làm toàn dân chết co”, nó tưởng nó cũng hát cho vui, thế thôi. Giặc Pháp đã vồ nó. Và, một tên thực dân dọa Hiển:
- Mày dám gọi bác Hồ là ông già, mày phản động!
Hiển nhanh trí:
- Ông làm Kim Đồng, ông giả vờ hát sai cho chúng mày tức, bắt ông tra tấn ông...
Kim Đồng Hiển bị hai tên thực dân cầm cẳng lôi xềnh xệch vào nộp chủ tướng Henri Rivière. Kim Đồng văng tục, và dọa:
- Lát nữa, quân ta chiến thắng, ông quăng hai thằng xuống ngòi.
Trời đã rét ngọt. Hai tên giặc Pháp sợ quýnh, vội lạy lục Kim Đồng, và trút tội cho Henri Rivière Huệ:
- Con nhà Huệ bắt chúng tao lôi mày chứ, chúng tao đâu nỡ xử tệ... quân ta.
Kim Đồng Hiển im lặng. Nó đã nằm dưới gót chân Henri Rivière Huệ. Thằng thực dân nổi giận:
- A lê a la ba xi ba xu, may la Viet Nam tao danh may no đon...
Thằng Việt gian thông ngôn:
- Quan lớn bảo mày là Việt Nam, quan đánh mày no đòn.
Kim đồng phóng lên bãi nước bọt:
- Sư bố thực dân Pháp!
Henri Rivière đá Kim Đồng một cú:
- Mày chửi sư bố tao à?
Kim Đồng nói:
- Ừ đấy, ai bảo mày nói... tiếng Tây giả cầy! Pe rơ toa, Phờ răng xe!
Henri Rivière hỏi thông ngôn:
- A lê a la ba xi ba xu, Pe rơ toa, Phờ răng xe la cai gi?
Thông ngôn Việt gian lại hỏi Kim Đồng:
- Quan lớn muốn biết Pe rơ toa, Phờ răng xe là gì!
Kim Đồng quát:
- Là bố mày, giặc Pháp. Thằng Khoa dạy ông đó, con ạ!
Henri Rivière Huệ sai Việt gian kín đầy lọ nước ngòi, để gần chỗ Kim Đồng Hiển nằm. Nó không thèm nói tiếng Tây nữa. Đá Kim Đồng một cú, Henri rivière hỏi:
- Mày đi liên lạc, hở?
Kim Đồng đáp:
- Ừa đấy, ông đi liên lạc đấy. Ông thà chết không khai gì sốt cả. Ông là... Kim Đồng!
Henri Rivière cười khiêu khích:
- Giết mày chỉ tổ tốn đạn, ông gội đầu giúp mày. Hì hì hì, trời lạnh, mà ông rưới nước từ từ xuống lưng mày, thì xương sống mày co lại, Kim Đồng ạ!
Kim Đồng bỗng sợ quá. Nó trở giọng:
- Ê Huệ, tao khai hết. Tao ghét thằng Khoa lắm. Ông chơi trận giả nốt đêm nay, sáng mai, ông sang Đống Năm ở với chú ông rồi. Ông đếch sợ thằng Khoa. Ông muốn nó thua bét tĩ. Thằng Khoa đóng quân sau chùa Đại Đồng, từ buổi chiều, nó chờ chúng mày buồn ngủ là tấn công.
Henri Rivière vuốt râu tưởng tượng. Nó hét inh:
- Mày đáng ăn c. cho anh Kim Đồng.
Henri Rivière Huệ ra lệnh:
- Tắm giùm nó!
Bọn Việt gian dội nước ướt hết áo Kim Đồng. Anh Kim đồng chửi bới um sùm. Anh bị giặc Pháp trói ghì cánh khỉ, giam ở chân đống rơm. Henri Rivière sai quân phục kích ngả chùa Đại Đồng. Nó đã mắc mưu trung đội trưởng Khoa. Quân ta tụ họp tại cầu Chờ, một lúc lâu. Khi biết chắc anh Kim Đồng quê hương Việt Bắc xa mù đã rơi vào tay giặc, cánh-quân tiên phong, do trung đội phó Mẫn sẹo chỉ huy, lên đường. Tiếng lá ngụy trang kêu sột soạt. Trung đội trưởng Khoa nhìn đoàn quân đi, cảm khái:
- Đoàn quân đi thấp thoáng trong đêm... Một, hai, ba...
Toán cảm tử hát vang:
Đoàn quân đi thấp thoáng trong đêm không một vì sao
Uốn khúc đường đào
Mưa trơn bùn sâu
Đoàn quân đi giữa sóng mến thương xuân về đầm ấm
Tôi thấy những nàng
Khăn hồng lệ thắm
Hẹn ngày mai chiến thắng chớ quên đường về làng xưa...
[9]
Bài hát vừa dứt, một ông cảm tử quân xô lô:
Bao em tôi đôi mằt toét nhèm
Đang say mê cái nồi bún ốc
Hai mươi cảm tử quân cười rộ. Thế là cái lạnh biến đâu mất. Phía cầu đình, khuất sau nhũng bụi tre, tiếng hát của toán quân Mẫn sẹo vọng lại:
Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi
Nào có mong chi đâu ngày trở về
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi
Ra đi ra đi thà chết chớ lui...
[10]
Mhư hâm nóng toán cảm tử quân của Khoa.
Trung đội trưởng Khoa oai vệ:
- Tao dặn lần cuối: Gần đến đồn giặc, lặn hết, tay trái bịt mũi, tay phải cầm ống đu đủ. Nhớ thở bằng mồm, cấm ho. Ống đu đủ nhô khỏi mặt nước chừng gang tay thôi. Nào, xung phong...
Các cảm tử quân lần lượt nhảy xuống ngòi. Khoa dẫn đầu. Nó hô hoán:
- Lặn thử!
Hai mươi cái đầu của những ông nhô, tập làm anh hùng, chìm dưới mặt nước. Chỉ còn những cái ống đu đủ nhô lên. Những ống đu đủ biết đi! Hai mươi chiếc tầu ngầm người, sáng kiến của Khoa, của kháng chiến, của một giai đoạn tuyệt vời của lịch sử dân tộc chống xâm lăng. Giặc Pháp đã thua tơi bời, vì nhũng sáng kiến ngây ngô đó. Khoa nhô lên khỏi mặt nước đầu tiên. Rồi, tất cả cùng nhô lên. Và, đi trên bùn. Rẽ nước, rẽ bèo mà đi. Có thể chạy một mạch qua cầu đình, nhào xuống lặn ngòi cũng được. Khoa không thích thế. Nó muốn quân ta phải gian khổ cơ. Càng gian khổ bao nhiêu, càng là quân ta bấy nhiêu. Khoa có anh là thằng Vũ. Các bạn của anh nó, là Côn, là Vọng, là Luyến, là Long, là Lộc đều chiến, đều đã thắng tụi An Tập và tụi trường Tầu. Khoa sẽ chiến như Vũ, sẽ đè bẹp thằng Huệ, để được giữ bộ trống đồng, nay mai. Khoa sẽ làm lác mắt bọn nhi đồng Hải Phòng, Hà Nội tản cư về Tường An. Nó thèm chơi thân với con Liên, như Vũ đã chơi thân với Thúy. Cứ bắt sống Henri Rivière Huệ đêm nay, là Khoa có đủ thứ. Cái thứ nhất, chắc chắn, Khoa sẽ chỉ huy nhi đồng cả hai thôn. Khoa thích thú, reo lớn:
- Đánh mạnh, đánh mạnh để chiếm lại thủ đô!
Toán quân cảm tử nô nức. Chúng chạy dưới nước. Qua cầu đình, trung đội trưởng Khoa vỗ tay, những cái đầu chìm nghỉm. Chẳng ai biết, trừ trung đội phó Mẫn sẹo đang cho quân tiên phong nằm sát vệ đường, mở mắt thao láo, chờ “ống khói tầu ngầm” và con ngòi xao động, là tiến lên khiêu khích quân thù, cho quân cảm tử đánh bọc hậu, bắt sống trọn ổ giặc Pháp.
70
Anh Kim Đồng rét run, nằm co quắp ở chân đống rơm. Kim Đồng quê hương Việt Bắc xa mù, chắc cũng khổ đến thế này là cùng. Kim Đồng Tường An vui lắm, vì Henri Rivière đã mắc mưu của nó. Kim Đồng hy sinh cho chiến thắng. Không có Kim Đồng nào sung sướng cả. Muốn làm Kim Đồng, phải chết vinh hơn sống nhục, phải dám tẩm xăng đốt cháy, nhảy vào kho đạn của giặc Pháp, như em bé Nam Bộ. Kim Đồng Hiểu sẽ lừng lẫy chiến khu, giống hệt Kim Đồng trong bài hát. Bây giờ, nó đang ăn đòn nước lạnh của thực dân. Và, nó mong quân ta từng giây từng phút. Cái bùi nhùi của giặc trên thềm chùa chỉ muốn bốc cháy khi gió thổi mạnh. Hiềm vì bùi nhùi quấn chặt quá. Lát nữa, Kim Đồng được quân ta cởi trói, sẽ rút rơm, dùng bùi nhùi của giặc mồi lửa cháy bùng, để sưởi ấm và hong khô quần áo. Kim Đồng cười thầm, nhìn Henri Rivière dẫn quân đi bao vây quân ta, bên chùa Đại Đồng, ngôi chùa mà ông tiên làng Trường An chọi gà bị thua ông tiên làng Đại Đồng.
Chờ Henri Rivière ra khỏi đồn khá xa, Kim Đồng dọa bọn giặc Pháp còn lại:
- Thằng nào đầu hàng trước nhất, sẽ không bị quân ta quẳng xuống ngòi.
Giặc Pháp đã biết rõ số phận của nó. Hung hăng cách mấy, rồi cũng thua bét tĩ. Chưa hề thấy giặc Pháp thắng trận nào. Giặc Pháp bị quân ta đánh tơi bời, ở Nam Bộ, ở Việt Bắc. Hai nghìn giặc Pháp chết chìm dưới đáy sông Lô. Bài hát ghi rõ chiến công hiển hách này:
Ai nhớ sông Lô
Giặc lên ăn cướp dân ta
Tôi nhớ sông Lô
Chiều nao phơi xác quân thù
Hỡi cô con gái giặt yếm bên bờ
Thuyền tôi đậu bến sông Lô
Nửa đêm nghe tiếng quân thù thở than
Than rằng
Khoan hỡi hò khoan
Hôm nào chiến sĩ Việt Nam
Trên dòng sông mênh mang
Tiếng thần công vang vang
Hai ngàn quân Pháp vùi thây
Oai hùng thay Lô giang...
[11]
Tin bộ đội ta đánh giặc Pháp, đọc mỗi tối trên chòi phát thanh, toàn là chiến thắng. Tầu giặc, bị bắn chìm. Máy bay giặc, bị hạ rơi. Xe tăng tầu bò của giặc, bị đốt cháy. Giặc Pháp không được quyền thắng quân ta. Giặc Pháp, trong các cuộc chơi trận giả, càng phải thua liểng xiểng. Quân của Henri Rivière Huệ gạ gẫm:
- Đánh nhau một lát, rồi mới thua chứ?
Kim Đồng lắc đầu:
- Quân ta chỉ đánh toán quân của thằng Huệ thôi. Thằng Khoa bảo sẽ quẳng hết chúng mày xuống ngòi. Đứa nào đầu hàng ngay, được tha.
- Chưa đánh đã hàng à?
- Ở Hải Phòng, vừa nghe tin bộ đội ta định đánh, tụi Pháp đã quăng súng khóc sướt mướt, xin tha tội. Tụi mày không nghe tin chiến sự, hả?
- Có.
- Thế còn đòi đánh cái con khỉ gì nữa?
- Ừa, tụi tao hàng.
- Thả tao đi.
- Không.
- Sao?
- Thả mày, thằng Huệ nó sẽ khền tụi tao. Mà, Kim Đồng phải chết mới anh dũng. Kim Đồng sống nhe răng chán lắm, không giống kịch.
Thằng giặc vừa nói, vừa cười. Nó đá Kim Đồng một cú đau điếng:
- Đừng khôn lỏi, Hiển vổ! Kim Đồng vổ thích sống nhục hơn chết vinh.
Kim đồng vổ giở võ dọa:
- Ông sẽ cho mày xuống ngòi mò ốc.
Giặc Pháp khoái trá:
- Chúng tao rút lui có trật tự, thằng vổ ạ! Bọn thôn dưới chiếm đồn trống, bắt tượng làm tù binh. Còn chúng tao về nằm khoèo ổ rơm, ăn ngô rang.
Và, giặc Pháp hành hạ Kim Đồng vổ không nương tay. Khi ấy, nằm sát vệ đường làng, trung đội phó Mẫn sẹo căng mắt chờ ống khói tầu ngầm. Quân ta hối chỉ huy:
- Tấn công chưa, Mẫn sẹo?
- Gượm đã.
- Mày bắt chúng tao ngủ suốt đêm à?
- Đợi thằng Khoa.
- Xung phong đi! Ông nóng lòng giết giặc, giành độc lập quá rồi.
Mẫn sẹo không thể nhìn rõ ống khói tầu ngầm. Vì, trời đêm nay thiếu trăng. Nó đã nghe rõ tiếng òng ọc của bùn, dưới đáy ngòi cuộn lên. Và, những đám bèo di chuyển. Thằng Khoa đó. Mẫn sẹo hạ lệnh:
- Bò số một!
Toán quân tiên phong lết, cơ hồ loài rắn. Hai khuỷu tay mỗi quân ta dùng thay chân. Đã tập bò, tập bắn, ném lưu đạn, quân ta áp dụng đúng các kiểu bò, mà anh Lý huấn luyện. Anh Lý không dạy chiến thuật... tầu ngầm. Đang thở bằng ống đu đủ, Khoa vẫn có thể mơ mộng rằng, anh Lý sẽ khen ngợi nó và nhi đồng thôn dưới. Biết đâu chừng, anh Lý sẽ viết thư gửi bác Hồ. Bác Hồ sẽ gửi thư cho Khoa, như bác Hồ đã gửi thư cho ông Năm.
Mẫn sẹo không biết mơ mộng. Nó bò thật chậm. Tới cổng đồn giặc, Mẫn sẹo ngừng lại, chờ Khoa lặn nốt khúc ngòi, để tiến về cái ao, phía sau chùa. Đồn còn cách vài chục thước. Giặc Pháp nghênh ngang đi đứng. Quân ta có thằng ngửa cổ ho. Mẫn sẹo xuỵt xuỵt. Thằng quân ta buồn ho, bịt miệng, gục mặt xuống cỏ mà ho. Nó ho khổ, ho sở. Ho là đồ... Việt gian phản quốc! Những lúc không dược phép ho, nó cứ thèm ho. Một thằng quân ta ho là, y rằng, nhiều thằng quân ta khác lây ho. Mấy đêm trước, Khoa dẫn quân đi đột kích bòng của ông lang Căn, chỉ vì ho, mà bị bầy chó của ông lang Căn sủa inh ỏi, chạy trối chết. Mẫn sẹo sợ lộ mục tiêu, cảnh cáo:
- Thằng nào ho sẽ bị khai trừ.
Bị khai trừ là chịu đựng một hình phạt đau đớn nhất. Nhiều thằng quân ta cấu cổ cho đỡ ngứa. Rồi, hết ho. Mẫn sẹo đếm thầm từ một tới hai trăm. Nó tính đoạn đường nước của toán quân cảm tử. Mẫn sẹo truyền lệnh:
- Chuẩn bị tấn công!
Toán quân tiên phong ngồi dậy. Mẫn sẹo hét lớn:
- Xung phong!
Quân ta ào ạt chạy. Hhững trái lựu đạn chầy, nặn bàng đất sét, nung khô, tung lên... Tung đúng sách vở dạy. Rút kíp tưởng tượng, đưa ra đàng sau, dộng xuống gót chân, đếm một hai ba, và ném. Ném xong, vội vàng nằm rạp chờ tiếng nổ. Giặc Pháp chống trả mãnh liệt. Quân ta hứng đạn ổi xanh, bòng non lốp bốp. Tạc đạn gio phóng vào đồn giặc. Bụi bay tung tóe. Một thằng Pháp gọi ơi ới:
- Huệ ơi, chúng nó tấn công rồi! Về cứu tụi tao, mau lên!
Henri Rivière Huệ đang bao vây quanh chùa Đại Đồng, nghe tiếng kêu cứu, hai chân bốn cẳng chạy về đồn. Nó nguyền rủa thằng Kim Đồng vổ. Anh Kim Đồng mừng rên:
- Quân ta đâu, giải phóng tao đi chứ?
Năm thằng quân ta liều chết, vượt qua làn đạn ổi xanh của giặc, cứu Kim Đồng.
- Mày ở đâu hả, Hiển?
Kim Đồng ngẩng đầu:
- Tao bị giam ở chân đống rơm.
Quân ta nhào tới đống rơm, lôi Kim Đồng ra khỏi đồn giặc. Vừa lúc Henri Rivière Huệ kéo quân về. Giặc Pháp được tiếp viện, ném ổi xanh tưng bừng. Quân ta đánh cầm chừng, theo đúng chiến thuật của trung đội trưởng Khoa. Đột nhiên, trong toán quân ta có vị anh hùng chửi bậy:
- Mẹ bố đứa nào ném cứt trâu trúng ông đấy?
Giặc Pháp cười ha hả:
- Ông chứ còn ai? Mìn rùa đó, con ạ!
Quân ta hứng thêm nắm bùn. Mẫn sẹo biết là trung đội trưởng Khoa đã lên bờ. Nó cho quân rút lui. Henri Rivière truy kích.
Toán quân cảm tử, lặng lẽ, tiến vào trong chùa. Quân của Mẫn sẹo chạy thật nhanh. Bất chợt, Mẫn sẹo dừng lại phản công. Lựu đạn chầy nguy hiểm vô cùng. Thằng giặc nào bị trúng cũng kiếp vía. Henri Rivière sợ lựu đạn chầy, chuồn gấp. Quân của Mẫn sẹo đuổi theo. Giặc Pháp về tới đồn, cảm tử-quân của Khoa nấp ở trong chùa, ào ra. Henri Rivière bị hai gọng kìm kẹp chặt. Hai bên sáp lá cà, đấm đá nhau túi buị. Henri Rivière tả xung hữu đột, múa mai hoa quyền. Trung đội trưởng Khoa quyết bắt sống Henri Rivière, xem chừng, khó khăn.
Thằng Đường làm hỏng công phu của Khoa. Nó xung phong quá sớm. Khoa đã phân công tác: Chờ Henri Rivière đến gần, một tiểu đội cảm tử, bất thần, phóng ra ôm chặt Henri Rivière, trói gô nó. Thế là nó hết múa mai hoa quyền và đá song phi. Con nhà Đường ngu dốt, ngứa mồm hô xung phong. Kế hoạch hỏng, toán quân cảm tử đành xuất đầu lộ diện.
Bây giờ, cả hai bên không dùng lựu đạn chầy đất sét, tạc đạn gio, và đạn ổi xanh, bòng non giết nhau nũa. Sáp lá cà là vật lộn, đấm đá, cấu véo. Vài cảm tử quân của ta muốn kết thúc chiến trường nhanh chóng, để còn đốt rơm sưởi cho ấm, lẻn ra phía ngòi bông nhông xuống nước. Giặc Pháp ngu dốt bám sát. Cảm tử quân móc bùn pháo kích. Giặc Pháp ăn no đạn bùn, la bai bải. Cảm tử quân bứng bùn lên bờ. Đạn bùn tung vào chiến trường. Giặc Pháp trốn lủi, hàng ngũ tán loạn. Henri Rivière Huệ bị vây chặt. Nhiều tên thực dân và Việt gian đã đầu hàng. Một thằng mũi lõ nhanh trí khôn, hô to:
- Nghiêm!
Nó cất gọng hát quốc ca:
- Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc...
Giặc Pháp hát theo. Cả quân ta lẫn quân Pháp ngưng chiến, đứng thẳng như đang chào cờ. Henri Rivière lợi dụng giờ ngưng chiến, phóng khỏi vòng vây, chạy vô chùa. Quân ta quên chào cờ, quên luôn cờ in máu chiến thắng mang hồn nước, quyết bắt Henri Rivière. Tên giặc hô nghiêm và hát đoàn quân Việt Nam đi bị đạp ngã sõng soài. Nó gang họng đôi co:
- Chúng mày không chào cờ là đồ phản quốc!
Quân ta cãi:
- Giặc Pháp dã man không được chào cờ Việt Nam.
Trận chiến tiếp tục. Giặc Pháp bị bắt quá nửa. Những đứa khác thoát cảnh tù binh, chạy về nhà nằm ngủ. Anh Kim Đồng Hiển, tức Hiển vổ, cậy mình lập chiến công đầu, đòi quyền xử tù binh. Và, anh đã quăng hai tên giặc lôi anh, như lôi chó chết, xuống ngòi. Những tên giặc tưới nước lạnh tra tấn anh, bị anh lấy bùn đắp kín đầu tóc, lỗ tai, và giật đứt hết giải rút. Lại bắt tù binh đứng thẳng, giơ tay. Quần của tù binh trễ quá đùi. Tù binh phải dang chân đỡ quần khỏi tụt. Quân ta ôm bụng cười, mừng chiến thắng. Mẫn sẹo tịch thu bùi nhùi, sai tù binh kiếm củi khô, rút rơm đốt... lửa trại.
Cảm tử quân, dưới quyền chỉ huy của trung đội trưởng Khoa, đang lục soát trong chùa. Chùa tối om. Khoa bảo Mẫn sẹo, mang rơm vào chùa đốt sáng. Vẫn không tìm được Henri Rivière.
Kim Đồng nói:
- Hun nó như hun chuột, nó sẽ chui khỏi hang.
Trung đội trưởng Khoa mím môi suy nghĩ:
- Ông có cách rồi.
Khoa pha trò cười. Quân ta cười hinh hích. Henri Rivière ngậm miệng. Khoa lôi một tên tù binh vào chùa, dụ dỗ không tra tấn, nó nhận lời ngay. Nó mếu máo:
- Huệ ơi, bọn thôn dưới tước hết quần áo của chúng tao rồi. Bọn nó lột trần truồng chúng tao. Mày không đầu hàng, bọn nó quẳng hết chúng tao xuống ngòi.
Máu thực dân nổi lên, Henri Rivière phẫn nộ:
- Đồ khốn kiếp!
Trung đội trưởng Khoa hí hửng:
- Hết trốn núp nhé, thực dân. Mày thua ông rồi. Ra đi. Giơ tay lên!
Henri Rivière bị mắc mưu, ức hộc máu mồm, xô ngã một ông tượng, hai tay giơ lên cao, lững thững ra. Cảm tử quân xông tới ôm chặt tướng giặc, dùng dây trói tay, chân Henri Rivière, khiêng nó ra sân chùa. Đống lửa đã cháy lớn. Quân ta nhìn rõ Henri Rivière buồn thiu. Trung đội trưởng Khoa hỏi Henri Rivière Huệ:
- Thôn dưới xứng đáng giữ trống đồng chưa?
Huệ đáp:
- Còn thi đua chống giặc dốt nữa. Nếu chúng mày đoạt giải, thôn dưới được giữ trống đồng.
Khoa nói:
- Chúng tao sẽ thắng, và tao sẽ chỉ huy cả mày.
Huệ nín lặng. Khoa tự tay cởi trói cho Huệ. Nó đứng dậy, lủi thủi bước. Khoa cấm quân ta hành hạ tù binh. Thế là không còn quân ta và quân giặc nữa. Tất cả vui hát bên đống lửa. Gần nửa đêm, nhi đồng thôn dưới xếp hàng ra về. Mặt đường đất lại muốn nứt lở. Mây sợ hãi không dám che lấp sao. Trời, cơ hồ, đã tan sương mù. Vùng trời êm ả của thôn quê lại khuấy động bởi tiếng hát của một thời xao xuyến:
Những bông hoa ngày mai
Đón tương lai về tay
Đang xuân đời mỉm cười vui hát lên
Khi đoàn quân tiến về là đêm sáng dần...
[12]
Đêm, có vẻ, sáng dần. Và, Khoa tưởng chừng nó đang kéo quân về thị xã Thái Bình như, từ xa xôi, nhiều người đang tưởng quân ta kéo về Hà Nội, chiếm lại thủ đô.