73 - 74

     ai tháng liền, Khoa đánh nhau với giặc dốt. Nhi đồng thôn dưới không còn thằng nào mù chữ nữa. Trước khi đáng giặc Pháp, phải tiêu diệt giặc dốt. Những vở kịch của thanh niên, phụ nữ, nhi đồng, diễn ở sân khấu đình, toàn nói về sự tệ hại của nạn mù chũ. Bài hát Cô Tú [19] vang vọng ngày đêm:
Ai về chợ huyện Thanh Vân
Hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa
Đánh vần năm ngoái năm xưa
Năm nay quên hết cô chưa biết gì
Lưng trời tiếng sáo vu vi
Vẳng nghe ai học chữ i chữ tờ
Sách i tờ phát không cho học
Liệu cô mình đã đọc được chưa
Đôi bên bác mẹ cùng già
Lấy cô hay chữ để mà cậy trông.
Mùa hè cho chí mùa đông
Ruộng vườn thóc lúa tinh thông chẳng nhầm
Nụ tầm xuân còn đang phong nhụy
Xin cô mình đừng phí ngày xanh
Bình Dân Học Vụ lập thành
Cô mau tới đó học hành cho thông
Sách i tờ phát không cho học được hát là Sách i tờ Pháp không cho học. Có lý ghê. Giặc Pháp muốn dân ta mù chữ, ngu dốt, nên sách i tờ nó không cho dân ta học! Trên tường đình, tường miếu, tường quán, những khẩu hiệu cũ bị xóa đi, viết những khẩu hiệu khuyến học:
Lấy chồng biết chữ là tiên
Lấy chồng mù chữ là duyên con bò
Hay:
Cô kia má đỏ hồng hồng
Vì không biết chữ nên chồng cô chê
Hay Đi học là yêu nước, Giặc dốt nguy hiểm như giặc Pháp, Tiền tuyến diệt giặc Pháp, hậu phuong diệt giặc dốt... Mỗi buổi trưa, trên các chòi phát thanh, cán bộ Bình dân học vụ gọi loa chống giặc dốt.
Hôm nay, là ngày kiểm điểm kết quả. Con đường duy nhất thông ra đường Lầy, để qua Thọ Bi, và đi đến chợ Ô Mễ, bị chắn ngang bằng cây tre bương. Có hai cổng: Cổng sáng và cổng dốt. Cổng dốt là cái hố sâu, đầy bùn quyện lấy rơm và phân trâu bò. Cổng sáng rộng thênh thang, sạch sẽ. Một tấm bảng đen dựng bên cổng sáng. Rất đông người đứng ở ải địa đầu của dân đi chợ. Bất cứ ai, muốn qua lối này, phải đọc nổi hàng chữ viết sẵn trên bảng. Đọc nổi thì qua cổng sáng, được vỗ tay hoan hô. Không đọc được thì... lội bùn, bị chế nhạo xấu hổ. Phần đông, các cô đọc thông, vì đã đi học Bình dân học vụ. Còn các bà đứng tuổi, các cụ già vẫn mù chữ. Nhiều bà đội gạo nặng, không thể đội gạo lội bùn, phải nhờ người đỡ thúng gạo xuống, chuyển sang bên kia đường, rồi mới vén váy tới háng, mà lội bùn. Quang cảnh buồn cười vỡ bụng. Nhiều bà sợ lội bùn, phải trở lại, tìm đường tắt qua cánh đồng, đi chợ. Lội bùn xong, đi kiếm vũng nước rửa bùn. Còn bị gọi là giặc dốt, người mù chữ... Cụ già sáu mươi van nài qua cổng sáng không xong, chửi ầm ỹ, rồi cũng đành lội bùn. Đạo quân diệt giặc dốt trẻ không tha, già không thương. Muốn thoát cảnh lội bùn, đi học i tờ. Học i tờ dễ lắm. I tờ giống móc cả hai, I ngắn có chấm tờ dài có ngang.
Ngày đầu kiểm điểm kết quả, thấy dân làng vẫn đông đàn bà mù chũ. Người ta hoạt động hăng hơn. Nếu không còn ai mù chữ, giặc Pháp sẽ thua bét tĩ, chẳng cần đánh, giặc Pháp cứ thua như thường. Khoa nẩy ra cái ý mở ở thôn nhà một lớp Bình dân học vụ. Nó chọn từ đường nhà họ Vũ làm trường học. Ban ngày, đi học mãi tận trường Ô Mễ, buổi tối, Khoa về dạy học i tờ.
Đi học thật khổ. Năm giờ sáng thức dậy, ăn một bữa cơm no căng bụng, chờ mẹ nắm cho nắm cơm ép vào mo cau, gói thêm vài con tôm kho mặn, hay dúm muối vừng bỏ trong cặp, chân đất, cuốc bộ năm, sáu cây số tới trường. Buổi trưa, ở lại, ăn cơm nắm, học đến chiều. Những hôm trời nhiều sương muối, đạp chân lên ngọn cỏ, sương muối cơ hồ mũi kim đâm vào da thịt. Thiếu thốn đủ mọi dụng cụ học trò. Chép bài trên giấy dầy cộm, mà ngòi bút ấn mạnh, là lôi cả mảng giấy lên. Học vất vả quá, chẳng đi tới đâu. Vừa học, vừa lo máy bay Pháp bỏ bom. Mỗi cậu học trò phải đào một cái hố cá nhân, phòng máy bay giặc oanh tạc. Trời mưa hay trời nắng, mùa đông hay mùa hè, học hành chả đâu vào đâu, Khoa vẫn lóp ngóp đến trường.
Khoa ngỏ ý mở lớp Bình dân học vụ với mẹ. Me Khoa bằng lòng ngay:
- Còn hơn mày di tập kịch; ngũ lang, ngủ chạ bệ rạc, ghẻ lở.
Cha Khoa không ở nhà thường xuyên. Ông sang Đống Năm, xuống Tiền Hải, qua Thần Đầu, Thần Huống buôn bán, mỗi tháng, về nhà vài hôm, nghỉ ngơi. Ông đi khắp nơi, cố ý tìm Vũ, bắt Vũ trở về.
- Mày làm thầy giáo, chắc buồn cười lắm nhỉ?
- Con là chiến sĩ chống giặc dốt.
- Chiến sĩ i tờ!
- Mẹ giúp đỡ con nhé!
- Bảo Liên của mày nó giúp đỡ mày.
Khoa mở cờ trong bụng. Nó có nhiều dịp gần gũi Liên rồi. Khoa nín thinh. Nó lần mò sang nhà cu Đường. Gặp Đường ở cổng nhà nó, Khoa hỏi:
- Con Liên đâu?
Đường trổ tài... Bình dân học vụ:
- Nờ o no sắc nó ngờ u ngu hỏi ngủ.
- Mày đánh thức nó dậy đi.
- Nờ o no sắc nó bờ ao bao hỏi bảo nờ o no sắc nó bờ uôn buôn huyền buồn nờ o no sắc nó thờ ích thích sắc thích ngờ u ngu hỏi ngủ.
- Ai dạy mày đánh vần thêm nhiều chữ khó thế?
- Con Liên. Ông biết viết cả chữ hoa rồi.
- Nó có xưng cô với mày không?
- Không.
- Nó là cô giáo của mày. Mày phải xưng con với nó.
Đường chìa khuỷu tay:
- Cái này này...
Kho vỗ nhẹ vai Đường:
- Đêm hôm lâu rồi, mày rủ tao về nhà mày ăn khoai nướng ấy mà, con Liên bảo để phần cho tao một miếng, nó có để phần không?
Đường toét miệng cười:
- Mày không chịu sang, nó đem miếng khoai để phần cho mày nuôi kiến. Bọn kiến chưa ăn hết đâu.
- Nó buồn chuyện gì?
- Bố nó sắp đi làm nhà in báo của chính phủ. Chú tao cũng đi theo.
- Mẹ nó có đi không?
- Không.
- Thế thì buồn ở cái khổ nào?
- Nó nhớ Hà Nội.
- Bao giờ nó mới dậy?
- Còn lâu.
- Tao ngồi đây chờ.
- Làm gì?
- Làm nó hết buồn.
Tự nhiên Đường nói:
- Nó khen mày hát hay đấy. Ba chê là khen đấy, Khoa ạ!
Hai đứa ngồi trên bậc cổng. Buổi trưa, im vắng. Ở nhà quê, không ai biết chủ nhật. Một mình Khoa biết thôi, vì nó nghỉ học hôm nay. Sắp tết rồi. Trời đã hết mưa, và bớt lạnh. Nắng hanh vàng ấm áp. Khó chịu cho lớp da mặt, không tệ hại như mưa dầm gió bấc. Con chích chòe, có thể, thảnh thơi đậu trên cành soan cao, hót một điệu tuyệt vời nhất. Con cu gáy, có thể, núp kín trong đám lá rậm của cây bòng, làm thời gian dài ra, bằng tiếng gáy của nó. Ở sân nhà Đường, lũ chim chích đang cãi nhau chí chóe, dưới chân đống rơm mới.
Mùa xuân gần kề. Bài giảng văn Khoa vừa chép: Mưa xuân đã rắc bụi. Lộc tơ đã nẩy ra những chồi xanh ngắt, để báo hiệu cho chúng ta biết, ngày tết Nguyên Đán sắp tới. Nhưng năm nay, toàn dân ta vẫn còn phải nỗ lực kháng chiến chống bọn thực dân xâm lăng Pháp... Tết kháng chiến năm nay sẽ buồn tẻ như tết kháng chiến năm ngoái. Tết không đốt pháo, không phải là tết. Bài thơ, Khoa mới học:
... Xuân trời đất làm bằng hoa bằng lá
Người Việt Nam làm bằng súng bằng gươm
Xuân muôn năm lấy sắt lửa mà làm
Hoa hạnh phúc nẩy tự nòng đại bác
Lòng lựu đạn chứa hương thơm ngào ngạt
Bắn đi, ném đi, gươm dáo chém đi
Chặt ngang thây phường cướp nước gian phi
Lũ cỏ dại bắn vào hàng ngũ chúng
Xuân sẽ mở khi đứt đầu phản động
Máu Việt Nam không chen máu tanh hôi
Binh sĩ ta đem cả sức vô hồi
Bắt tạo hóa nở nụ cười độ lượng...
Như thế, tết, hay không tết, đối với Khoa, cũng chả ăn thua gì. Chỉ làm Khoa tương tư mùi khói pháo, không thoát lên được, bởi lớp sương dầy, trong không khí lạnh. Khoa đã hết nhỏ bé, để thích tranh gà, tranh lợn, để thích tiền mừng tuổi và mặc quần áo mới. Mà, chẳng ai mừng tuổi ai. Người ta mừng tuổi cụ Hồ, gửi tiền mừng tuổi bộ đội. Tết kháng chiến đó. Tết kháng chiến. Đám cưới kháng chiến. Đám giỗ kháng chiến. Đám ma, cũng kháng chiến nốt! Nhiều tập tục đã bị kháng chiến giết chết oan uổng. Cái trống cơm, cái kèn đám ma chết trước. Đàn bầu thôi nẩy những điệu lãng mạn thuần túy của quê hương. Mà, chơi... chào cờ, mặc niệm! Ngay cả tranh gà, tranh lợn mộc bản cũng bị khắc thêm câu thơ thi đua tăng gia sản xuất:
Cụ ông thi với cụ bà
Nuôi lợn cho béo nuôi gà cho to
Chẳng còn gì cả. Mầu sắc tết cổ truyền chìm lấp dưới lớp hắc ín kháng chiến. Khoa thì chỉ thấy tết tẻ nhạt, vì thiếu pháo nổ, thiếu vôi bột rắc đầy ngõ, thiếu cây nêu cao. Cây nêu cao phải treo cờ!
- Sắp tết rồi. Khoa nhỉ?
- Ừ.
- Đã tập vở kịch diễn tết chưa?
- Chưa. Tao chán diễn kịch rồi. Tao sắp làm việc khác.
- Tát ngòi, bắt cá lấy tiền mua trống đồng chứ gì! Ông biết tỏng.
- Thẳng Vĩ nói khúc ngòi chúng mình nhận tát, có hai cái hang cá trê.
- Thế à?
- Ừa.
Hai thằng bạn quay mặt ra ngõ, không biết con Liên tinh quái đã thức, và rón rén tới cổng. Nó nhẹ nhàng leo lên ngồi trên cây tre, bắc ngang cái cổng, làm như căn nhà nhỏ bé. Nó lặng thinh hóng chuyện.
- Này Khoa!
- Gì?
- Mày học giỏi thế, mày đã đọc truyện Trên bến Búng [20] chưa?
- Chưa.
- Tao đọc rồi.
- Nói phét. Mày mới đánh vần thông thạo thôi.
- Con Liên kể cho tao nghe. Nó bảo bà lão chở thuyền ở bến Búng đục thuyền, làm hai mươi thằng thực dân Pháp chết đuối.
Liên phá ra cười. Cả hai thằng cùng quay lại. Khoa ngỡ ngàng. Đường xấu hổ. Liên nheo mắt:
- Cu Đường là cu Cuội... Liên kể chuyện Trên bến Búng cho cu Đường nghe bao giờ? Người ta mới hứa kể, đã khoe.
Đường cười trừ. Liên trách Khoa:
- Cu Khoa cũng là cu Cuội. Bảo sang ăn khoai nướng không sang, bắt tội kiến ăn no nê.
Kha móc trong túi ra gói lạc rang:
- Khoa đền tội, nhé!
Liên hỏi:
- Cái gì đó?
Khoa đáp:
- Lạc rang.
Liên cầm ngay gói lạc, liến thoắng:
- Lạc rang à? Liên thích lắm.
Con bé bóc gói lạc, nhón một hạt, còn bao nhiêu đổ vào túi áo mình. Nó vê vỏ, tách hạt lạc làm đôi. Một nửa, Liên thảy vô miệng, nhai ròn. Một nửa, nó đặt ngửa giữa lòng bàn tay, chỉ cái chấm nhỏ trên đầu hạt lạc:
- Cu Khoa biết không?
- Biết.
- Nói xem nào.
- Trúng được gì?
- Muốn gì được nấy.
- Muốn hai điều thôi.
- Ừ.
- Điều thứ nhất, cấm gọi Khoa là cu Khoa,
- Còn điều thứ hai?
- Sẽ nói sau.
- Vậy, chấm nhỏ trên đầu nửa hạt là gì?
- Ông cụ! Ông cụ bé tí ti. Tí ti ông cụ!
- Còn là gì nữa?
- Ông lão. Một ly ông lão, một ly ông cụ...
Liên cười:
- Ăn lạc rang khoái nhất là nhấm ông cụ, bằng răng cửa.
Khoa nói:
- Liên thua cuộc rồi.
Liên nhìn Khoa, nhấm nhẳn:
- Thế à, cu Khoa?
Khoa nhắc:
- Cấm gọi cu Khoa.
Liên nheo mắt:
- Ờ nhỉ, Liên quên. Điều thứ hai ra sao hở, Khoa?
Khoa hơi bối rối. Nó sợ nhỡ tầu lắm. Ở đây, bị Liên cho nhỡ tầu, làm gì có ô tô ray mà đi? Khoa không đáp câu hỏi của Liên. Nó ngó Đường:
- Cu Đường đánh vần cừ ghê.
- Mày cũng học đòi cái Liên à?
Liên dọa Đường:
- Hễ gọi cái Liên, không thèm dạy học nữa, cho mù chữ luôn.
Đường vênh mặt đáng yêu:
- Đây hết mù rồi.
Khoa lắc đầu:
- Mày hết mù, nhưng còn chột. Mày chột chữ.
Liên thích chí:
- Cu Đường chột chữ vẫn bị lội bùn!
Đường cáu quá, chạy vào nhà. Khoa đang mong thế. Để có nhỡ tầu, chỉ mình Khoa biết. Nó nói:
- Thôn mình đông người mù chữ quá, Liên ạ!
Liên ỡm ờ:
- Thôn mình là thôn nào?
- Thôn này.
- Liên tản cư mà. Dân tản cư mà...
- Tản cư về đây, thì đây là thôn mình.
- Rồi sao?
- Khoa định mở lớp Bình dân học vụ tối, thi đua với thằng Huệ, Liên đến dạy với Khoa nhé!
- Dạy i tờ?
- Ừ.
- Làm cô giáo?
- Ừ.
- Được gì?
- Mỗi tối, một gói lạc rang.
- Giúp Khoa thôi, hở?
- Giúp nhiều người.
- Liên không gia nhập thiếu nữ đâu. Liên ở đây chờ về Hà Nội.
- Càng tốt. Khoa không thích Liên gia nhập thiếu nữ.
- Tại sao?
Khoa muốn trả lời, tại vì Khoa không thích Liên quen với thằng nào, ngoài cu Đường nhà quê và Khoa. Khổ nỗi, Khoa ngập ngừng, chẳng thể nói một câu ngon ơ như sáo chó. Nó đưa ngón tay cái lên miệng, cắn móng:
- Liên bằng lòng chứ, Liên?
Liên hỏi:
- Dạy tối, về khuya, Liên sợ ma. Khoa dẫn Liên về cơ.
Khoa lặng thinh giây lát, cho niềm sung sướng thấm vào tâm hồn nó. Đôi mắt Khoa long lanh. Đôi mắt ấy, nhìn Liên. Bỗng dưng, sự láu lỉnh, vẻ hóm hỉnh của Liên trốn đâu mất. Con bé cúi đầu, vân vê mép áo. Khoa nói nhỏ, thật nhỏ:
- Khoa sẽ dẫn Liên về.
Tiếng nói của Khoa chìm biến. Chỉ còn nghe rõ tiếng hót tuyệt diệu của con chích chòe trên cành soan, gần đó. Và, tiếng gió luồn qua bụi tre. Và, tiếng nắng nhảy múa, làm rung rinh những chiếc lá không muốn úa vàng.
74
Nhi đồng thôn dưới nhất định ăn tết bằng bộ trống đồng. Làng nào trong huyện Thư Trì cũng có trống đồng. Chỉ làng Tường An nghèo mạt, hai năm cách mạng thành công, nhi đồng vẫn thèm ước một bộ trống đồng. Tiền nguyệt liễm, tiền mót lúa, hôi cá, chưa đủ mua. Anh Lý đã sang Đống Năm hỏi giá trống đồng. Anh bảo còn thiếu năm trăm nữa. Nhi đồng thôn trên về bét các cuộc thi đua, không hy vọng được giữ trống đồng, thành thử chúng nó lười kiếm tiền gây quỹ. Khoa đã hứa với Đường sẽ cho Đường đánh trống con. Đường rất thích trống đồng. Khoa thích nào kém. Đêm đêm thức giấc, nghe tiếng trống đồng từ Đồng Đức, Thọ Bi, Thụy Bình, Đại Đồng vọng sang, vọng tới, Khoa nôn nao vô cùng. Thời đại của Khoa là thời đại của trống đồng thôi thúc, giục giã. Thiếu nó, kể như mất quá nửa niềm vui.
Khoa đã dẫn nhi đồng Tường An đi dự đại hội thiếu nhi xã. Nó thấy tủi thân, khi bọn thằng Đường nhìn trống đồng, của nhi đồng làng khác, thèm rỏ rãi. Khoa quyết thực hiện mộng đánh trống đồng cho nó, cho thằng Đường, cho nhi đồng Tường An. Bởi thế, bọn nhi đồng thôn dưới mới say mê tát ngòi bắt cá, theo lệnh của Khoa, đổi cá lấy trống đồng. Trời lạnh, nhi đồng nhảy xuống ngòi móc bùn, be bờ chắn ngang từng khúc ngòi. Chúng thay phiên nhau tát nước. Gàu không đủ, lấy gáo múc nước. Những bàn tay nhô con, muốn làm nghiêng khúc ngòi, cho nước hắt đi chỗ khác. Chẳng mấy đỗi, khúc ngòi cạn nước, chỉ còn bùn, và tôm cá lổn nhổn. Ở một cái hang, dưới bụi cây rậm, con nhà Vĩ trườn mình chui vào. Cái hang sâu nuốt quá nửa thân hình Vĩ. Nó là rái cá. Vĩ là Yết Kiêu. Nó nín thở tài tình. Nó cầm đoạn dây mây đầy gai, thọc sâu trong hang. Một lúc lâu, nó trườn lùi ra, mặt mũi, đầu tóc bê bết bùn. Nó cười. Hàm răng trắng ởn. Trông nó giống hệt Tây đen bán vải. Vĩ khoe nhặng xì ngầu:
- Nhiều lắm.
Vĩ đưa tay, vuốt mặt đầy bùn:
- Mới động khẽ, bọn cá trê đã ọ ẹ... đầu hàng!
Nó giục:
- Thằng Đường đem cái rổ xề lại đây. Tao bắt sống thực dân cá trê mừng tuổi bác Hồ.
Đường gân cổ:
- Mua trống đồng đã. Còn thừa tiền mới mừng tuổi bác Hồ!
Vĩ lại chui vào hang cá trê. Mỗi lần nó trườn ra, là mỗi lần một con cá trê trong tay nó. Vĩ bắt cá trê rất giỏi. Ngạnh cá trê không tài nào đâm thủng tay nó, dù cá trê đóng quân mãi tận chiến khu hang hốc. Những thằng khác đã bắt tới con cá rô cuối cùng. Chúng nó qua tát khúc ngòi gần đó. Vĩ và Đường phụ trách hang cá trê. Khoa đứng trên bờ hô hoán, vui mừng. Khoa biết nó không thể giỏi bằng những đứa trẻ ở nhà quê. Cả Vũ, Côn, Luyến, Lộc nữa. Những đứa trẻ ở thành phố được mỗi nước khôn vặt. Thả chúng về quê, chúng sẽ chẳng làm được gì, ngoài việc dùng cái tài khôn vặt của mình mà chỉ huy, ra lệnh. Khoa phục Vĩ sát đất. Nó tính sẽ để Vĩ ôm trống cái.
Khoa đánh trống đồng từ ngày còn ở thị xã. Nó quen vài ông lính khố xanh, trong đội trống đồng, kèn bú rích. Mấy ông này dạy Khoa đánh đủ các nhịp. Khoa đã truyền nghề cho nhi đồng thôn dưới. Nó bắt hai thằng đeo thúng, úp mặt thúng xuống, dùng quân khăng làm dùi, đánh vào đít thúng. Một thằng lấy hai cái vung nồi đồng làm chũm chọe. Khoa bảo tập quen tay, khi có trống đồng thật, là đánh liền, không bỡ ngỡ. Nhi đồng thôn dưới thay phiên nhau tập đánh trống đồng giả, kêu lẹt bẹt. Trống giả sẽ thành trống thật, như súng gỗ sẽ thành súng thép bắn tan giặc Pháp. Chỉ cần tin tưởng. Mà, tin tưởng đã thừa, đã khiến những thằng nhãi con làm nghiêng cả ngòi dài, với nhiệt tình và lòng tự phụ.
- Khoa đâu?
Vĩ gọi nhắng. Khoa đáp:
- Tao đây.
Vĩ giơ con cá trê to tướng, đen thui, bụng vàng chóe:
- Con trê chúa. Mày nhìn xem, đầu nó bạc phơ.
Khoa khích lệ Vĩ:
- Mày xứng đáng ôm cái trống cái.
Vĩ hớn hở:
- Tao được ôm trống cái? Hoan hô mày. Tiêu diệt gần hết đồn giặc cá trê rồi, Khoa ạ! Đánh mạnh để trở về thủ đô.
Thủ đô của Vĩ, thủ đô không bao giờ Vĩ tới, chưa bao giờ Vĩ biết. Bây giờ, Vĩ luôn luôn nhắc nhở. Có cái gì thật khác lạ của thời đại thằng Khoa. Cái gì ấy, nó ngô nghê, ngớ ngẩn, buồn cười, song rất chân thành. Khoa nhớ những ngày đi thả rọ cá rô, be bờ đơm đó bắt tép, thả ống lươn, đánh cá sông gây quỹ nhi đồng, có thằng cởi truồng tồng ngồng, vác cái dậm vòi, nhảy xuống nước hô to: Đánh dậm là yêu nước! Những thằng khác hô theo: Đánh mạnh để trở về thủ đô!
Yêu nước, động từ này bọc dầy lớp vỏ thiêng liêng. Không ai có thể phì cười. Tản cư là yêu nước. Đi học là yêu nước. Tăng gia sản xuất là yêu nước. Đóng thuế là yêu nước. Giết chuột là yêu nước! Không một công việc gì, dù hèn mọn đến đâu, là không thể hiện lòng yêu nước. Mấy năm chưa có những khẩu hiệu yêu nước, giết chuột là cái lệ làng đặt ra, và mỗi người chỉ góp đủ số đuôi chuột làng bắt nộp. Nhà giầu bỏ tiền mua đuôi chuột. Nay đã khác. Giết chuột là yêu nước. Nên cả làng thi đua bắt chuột. Chuột phá hại mùa màng, chuột nguy hiểm hơn giặc Pháp. Khói hun ổ chuột, bốc mù mịt khắp cánh đồng. Ai nộp nhiều đuôi chuột, người ấy yêu nước nhiều. Mà, ai cũng thích yêu nước nhiều, khiến chuột bị tiêu diệt hết.
- Này Khoa!
- Cái gì?
- Nội hang cá trê này đủ mua bộ trống đồng rồi đó.
- Mày cừ nhất làng.
- Cho tao làm trung đội phó, nhé!
- Tối nay họp, tao đề nghị mày. Thôi, bắt hết đi.
Vĩ lại chui vào hang. Cu Đường đứng đếm cá trê trong cái rổ xề. Đến chiều, công tác tát ngòi bắt cá xong xuôi, người thôn trên xuống mua tất cả.
Khoa cầm tiền đem nộp cho anh Lý. Anh bảo, thế nào, trước tết, nhi đồng Tường An cũng có bộ trống đồng. Khoa hí hửng báo tin cho bạn bè. Ngay tối hôm đó, nhi đồng thôn dưới họp. Sinh hoạt dân chủ đã quá quen. Đại khái, phần đầu là chào cờ, mặc niệm, suy tôn Hồ chủ tịch, rồi đến tuyên bố lý do cuộc họp, bầu chủ toạ, thư ký... Không một ông nhô nào được từ chối, nếu được đề nghị làm chủ toạ, và được anh em giơ tay đồng ý. Phiên họp tối nay, trung đội trưởng tuyên bố lý do... tát ngòi, và bầu trung đội phó. Khoa muốn họp thật nhanh, để còn về dạy học. Cu Đường làm chủ tọa. Nó điều khiển buổi họp rất vui nhộn. Đường báo cáo tiền cá, phác định công tác thi đua, mừng tết kháng chiến. Phần thảo luận sôi nổi lắm. Các ông nhô hăng say phát biểu, đôi lúc chửi thề, văng tục bừa bãi. Chủ tọa cu Đường cảnh cáo luôn miệng. Thư ký Hiệp toét ghi chép đầy đủ.
Sang phần bầu trung đội phó nhi đồng thôn dưới, Khoa giơ tay trước. Chủ tọa cu Đường bắt đầu:
- Đồng chí Khoa phát biểu ý kiến... lửa đi!
Tiếng cười ầm ỹ. Thằng Hội giơ tay:
- Xin phép chủ tọa. Tôi yêu cầu đồng chí Khoa phát biểu ý kiến... gió.
Thằng khác nói:
- Ý kiến... càng cho nó mạnh!
Chủ tọa cu Đường tít mắt cười. Khoa nói:
- Trung đội phó Mẫn sẹo đã theo bố lên Giai, từ chức rồi. Tôi đề nghị bầu đồng chí Vĩ thay thế. Đồng chí Vĩ bắt cá trê xuất sắc.
Chủ tọa cu Đường về phe Vĩ, không hỏi xem còn ai đề nghị người khác, vội lấy biểu quyết:
- Ai đồng ý đồng chí Vĩ làm trung đội phó, giơ tay lên.
Cả làng giơ tay. Tân trung đội phó đứng dậy, bước lên chỗ chủ tọa cu Đường:
- Tao cám ơn chúng mày lắm. Thằng Quý không giơ tay đồng ý. Mày thiểu số thua đa số. Ông sẽ giao công tác nặng nề cho mày.
Đồng chí Quý trả đũa:
- Ông tố cáo mày giấu hai con cá trê gộc, chờ anh em giải tán, đem về cho mẹ mày nấu canh dưa.
Trung đội phó Vĩ rít qua kẽ răng:
- Sư mày, mày... phản động!
Tên phản động Quý cười toe:
- Mẹ mày bưng bát canh dưa sang cho nhà ông mà. Rõ ràng canh dưa cá trê.
Khoa cố nín cười. Mỗi cuộc họp của nhi đồng là một màn hài kịch. Vui ghê lắm. Tân trung đội phó sửa soạn nhào tới đấm đá đồng chí Quý. Chủ tọa cu Đường khoái coi đánh nhau hơn điều khiển buổi họp. Nó... phát biểu ý kiến:
- Hễ ức quá, ra ngoài sân choảng nhau.
Khoa nói:
- Yêu cầu chủ tọa giữ trật tự giùm.
Chũ tọa cu Đường la lớn:
- Trật tự! Trật tự! Lát sang phần phê bình, tha hồ cãi nhau.
Khoa dục Đường:
- Yêu cầu chủ tọa thông qua vấn đề.
Chủ tọa cu Đường nháy mắt lia lịa:
- Thông qua đây, thông bằng cây sào dài, là vấn đề nó trôi liền. Nào, sang phần phê bình. Tôi xin có một tí tẹo ý kiến. Tôi phê bình phiên họp tối nay sôi nổi, vui vẻ, độc lập, tự do, hạnh phúc. Các đồng chí đồng ý chứ?
Thằng Hội giơ tay:
- Có tí ý kiến.
Nó đứng dậy luôn:
- Chủ tọa Đường phản động, dám bảo ý kiến là kiến lửa, làm các đồng chí khác noi gương. Tôi cũng noi gương... kiến gió! Tôi phê bình tôi trước.
Nó liếm mép:
- Hề hề, ông tự phê bình ông, đừng thằng nào hòng phê bình ông nữa.
Thằng khác:
- Tao phê bình thằng đồng chí Hội. Nhi đồng cứu quốc không được xưng ông.
Thằng khác:
- Tôi phê bình mày, mày xưng tao!
Thằng khác:
- Tớ phê bình đằng ấy, đằng ấy gọi đồng chí là mày.
Thằng khác:
- Yêu cầu cống chọc thủng vấn đề bằng cây sào thật dài đi. Tôi phê bình chủ tọa không biết làm chủ tọa; phê bình đồng chí Vĩ dọa giao công tác nặng nề cho đồng chí Quý. Đồng chí chủ tọa ngáp ba cái, rất đáng phê bình. Đồng chí thư ký ngủ gật.
Chủ toạ cu Đường đập bàn:
- Tao không biết làm chủ tọa, tại sao mày còn bầu tao? Lần trước, mày làm chủ tọa, mày đánh rắm thối om phiên họp, ông không phê bình mày, mà mày nỡ phê bình ông, hả? Mày đánh rắm là mày phản động, thực dân Pháp! Ông mà phê bình, mày sẽ bị ghi vào biên bản.
Khoa vỗ tay, át giọng:
- Yêu cầu chủ tọa chấm dứt phiên họp.
Chủ tọa cu Đường hậm hực:
- Phiên họp tối nay chấm dứt. Từ giờ trở đi, ông ị vào làm chủ tọa.
Bọn nhãi lục tục kéo ra khỏi từ đường họ Nguyễn, nơi dùng làm trụ sở nhi đồng thôn dưới. Các ông nhãi cười nói, văng tục huyên thuyên. Sinh hoạt dân chủ thật rực rỡ. Lời dạy phê bình và tự phê bình để tiến bộ của bác Hồ được các cháu nhi đồng áp dụng triệt để.
Khoa đứng ở sân chờ bọn nhi đồng giải tán hết, mới bước nhanh về từ đường họ Vũ. Còn sớm. Lớp học chưa đông. Cô giáo Liên cũng chưa tới. Thầy giáo Khoa đứng nhìn lớp học. Những tấm cửa gỗ của từ đường đã được gỡ ra, kê trên những chồng gạch, dùng thay bàn. Không có ghế. học trò ngồi bệt dưới nền nhà hay mang theo mảnh mo lót quần. Đèn là những chiếc đĩa đầy dầu lạc, dầu vừng, tẩm bấc vải. Ánh sáng đủ cho mỗi người. Ở bảng đen, đĩa dầu thêm vài sợi bấc, đặt lên cái giá cao. Chỉ quê hương của Khoa mới có lớp học như thế này. Ánh sáng, có lẽ, rực rỡ nhờ những tâm hồn hiếu học. Học trò toàn các bà, các cô bằng tuổi mẹ Khoa, dì Khoa, mợ Khoa... Họ yêu mến Khoa và Liên. Cô giáo và thầy giao xưng cháu với học trò.
Khoa nhìn những ngọn đèn đĩa leo lét cháy. Gió cuối đông không thể thổi tắt những ngọn đèn, không thể làm lạnh lớp học của Khoa. Bỗng dưng, Khoa thấy mình chẳng còn là mình bé nhỏ, dù Khoa vẫn bé nhỏ. Khoa muốn so sánh mình với Vũ. Thời đại của Vũ làm gì có lớp học và những ngọn đèn đĩa gây xúc động tuyệt vời. Chỉ thời đại của Khoa mới là thời của niên thiếu hưởng mộng mơ no tròn. Không có Vọng nghèo hèn. Không có Dương hống hách. Tất cả đều là những bông hoa trong vườn hoa, đều là những cánh bướm lượn bay trên đồng nội, đều là những giọng hát ngợi ca tuổi thơ và quê hương. Của trời đất đấy. Trời đất dâng mật ngọt cho niên thiếu. Trời cùng đất hóa phép, làm biến mọi biên giới. Còn lại tình yêu và hồn nhiên. Điều khiến Khoa xa lạ với Vũ năm xưa, là Khoa muốn nhận cho riêng mình một trách nhiệm, một bổn phận, ngoài những lúc rộn rã theo tiếng trống đồng, mải mê nhanh bước nhanh nhi đồng, và say sưa đánh trận giả, mơ thành người lính trong lịch sử tranh đấu của giống nòi.
- Dạy học đi Khoa, bác còn về giã gạo.
- Ừ, tao cũng còn một cối bèo.
Học trò của Khoa giục thầy. Khoa xoa tay, lễ phép nói:
- Cháu đợi một lát.
Một bà học trò âu yếm hỏi:
- Mày đợi con bé Hà Nội, chứ gì! Mợ biết, thiếu nó, mày không dạy nổi đâu. Khoa ngoảnh mặt, che giấu nụ cười sung sướng. Vừa lúc, cô giáo Liên tới. Những cuốn sách i tờ mở soạt soạt một cách vụng về. Lát sau, tiếng đọc bài vang lên. Từ lũy tre xanh, bắt đầu bằng hai chữ i tờ, một thế hệ bà nội, bà ngoại sẽ không còn bắt cháu đọc truyện Phạm Công Cúc Hoa, truyện Thạch Sanh Lý Thông, nhiều bận, để học thuộc lòng nữa. Khoa nghĩ tới ngày mai ấy. Nó, tưởng chừng, đã bắt sự câm nín của quê hương lên tiếng nói. Tiếng nói đó đang vỗ về Khoa.