Chương 4
Có gì đó không đúng

     achs từ Police Plaza trở về nhanh hơn nhiều so với việc đi bằng phương tiện giao thông công cộng hay phải quan sát đến các loại đèn tín hiệu. Vì cô đã gắn một chiếc đèn nháy của xe cảnh sát lên nóc xe mình, một chiếc Camaro SS đời 1969, đã được sơn lại thành màu đỏ như lửa cho tương xứng với tông màu Rhyme ưa thích cho chiếc xe lăn của anh. Sachs chẳng khác nào một cô nhóc vị thành niên, luôn tận dụng mọi cơ hội để bắt chiếc động cơ phải gầm hết công suất và xé tung lớp cao su của những lốp xe.
“Em đã copy mọi thứ rồi”, cô nói trong khi mang một cặp hồ sơ dày cộp đi vào phòng. Mặt cô hơi nhăn lại khi đặt nó xuống bàn.
“Em vẫn ổn chứ?”
Bị bệnh viêm khớp dày vò cuộc sống, Amelia Sachs phải uống Glucosamin, Chondroitin cùng các thứ thuốc như Advil hay Naprosyn như cơm bữa. Song, cô ít khi chịu thừa nhận tình trạng của mình, sợ rằng cơ quan sẽ bắt cô phải ngồi chết dí sau bàn giấy theo ý kiến của bên y tế nếu phát hiện ra bệnh trạng của cô. Ngay cả những lúc chỉ có cô và Rhyme, cô vẫn luôn kìm nén cơn đau. Nhưng hôm nay cô thừa nhận: “Thỉnh thoảng em lại có cơn đau tồi tệ hơn”.
“Em muốn ngồi không?”
Cô lắc đầu.
“Được rồi. Chúng ta có gì vậy?”
“Những bản báo cáo, danh sách bằng chứng và bản chụp lại các bức ảnh, không có các đoạn video. Chúng bị giữ ở chỗ ủy viên công tố quận.”
“Hãy ghi mọi thứ lên bảng. Anh muốn xem qua mô tả hiện trường vụ án và nhà Arthur.”
Cô bước đến bên một tấm bảng trắng và ghi các thông tin lên trong khi Rhyme chăm chú theo dõi.
Vụ sát hại Alice Sanderson
Căn hộ của Alice Sanderson:
- Vết gel cạo râu Edge Advanced, có chứa lô hội.
- Vụn bánh giòn, loại Pringles không chất béo, vị thịt nướng.
- Dao hiệu Chicago Cutlery (MW).
- Phân bón hiệu TruGro.
- Dấu giày loại Alton EZ-Walk, cỡ 10½.
- Vết găng tay cao su.
- Những ghi chép nhắc đến “Art” và một số điện thoại di động trả trước trong sổ ghi số điện thoại, không còn liên lạc được. Không lần ra được dấu vết (có khả năng về một mối quan hệ tình ái giữa nghi can và nạn nhân).
- Hai ghi nhớ: “Art – đồ uống” (tìm thấy ở văn phòng) và “Arthur” (ở nhà riêng).
- Nhân chứng nhìn thấy chiếc Mercedes màu xanh sáng, một phần biển số có các chữ cái NLP.
Xe của Arthur Rhyme:
- Sedan hiệu Mercedes C-Class đời 2004 màu xanh sáng, biển New Jersey số NLP 745, đăng ký dưới tên Arthur Rhyme.
- Vết máu trên cửa và sàn phía sau xe (ADN trùng khớp với nạn nhân).
- Khăn lau dính máu, trùng khớp với bộ khăn tìm thấy tại căn hộ của nạn nhân (ADN trùng khớp với nạn nhân).
- Đất với thành phần giống như mẫu đất tại Công viên Clinton State.
Nhà Arthur Rhyme:
- Gel cạo râu Edge Advanced, có chứa lô hội, có liên hệ với loại tìm thấy tại hiện trường.
- Bánh giòn hiệu Pringles, không chất béo, vị thịt nướng.
- Phân bón hiệu TruGro (tìm thấy trong ga ra).
- Bộ dao Chicago Cutlery, cùng loại MW.
- Giày Alton EZ-Walk cỡ 10½ với dấu giày tương tự như dấu tìm thấy tại hiện trường.
- Thư quảng cáo gửi trực tiếp từ phòng tranh Wilcox, Boston và phòng tranh Mỹ thuật Anderson-Billings, Carmel, đều về các buổi triển lãm tranh của Harvey Prescott.
- Một hộp găng tay cao su Safe-Hand có thành phần cao su tương tự như vết tìm thấy tại hiện trường (tìm thấy trong ga ra).
“Quỷ tha ma bắt, đúng là hoàn toàn đủ để buộc tội”, Sachs nói, lùi xa ra tấm bảng, hai tay chống nạnh.
“Một số điện thoại di động trả trước, rồi những ghi chép nhắc đến ‘Art’, nhưng chẳng hề có địa chỉ nơi anh ấy sống hay làm việc. Điều này hiển nhiên khiến người ta nghĩ đến một mối quan hệ… Còn chi tiết nào khác không?”
“Không. Ngoại trừ những bức ảnh.”
“Chiếu chúng lên đi”, vừa nói anh vừa xem qua các ghi chép trên tấm bảng, thầm tiếc vì đã không được tự mình kiểm tra hiện trường theo cách gián tiếp mà hai người vẫn hay thực hiện. Anh sẽ theo dõi hiện trường thông qua một tai nghe cỡ nhỏ và một chiếc máy quay video độ nét cao mà Amelia Sachs mang theo người. Những ghi chép này có vẻ là kết quả của một nhóm điều tra hiện trường có năng lực, nhưng chưa thể được coi là xuất sắc. Chỉ có những bức ảnh của căn phòng nơi hành động gây án xảy ra. Không có bức ảnh nào của những căn phòng khác.
Và cả con dao nữa… Anh nhìn thấy bức ảnh hung khí dính đầy máu nằm dưới gầm giường. Một viên cảnh sát đang nâng một góc diềm đăng ten của tấm ga trải giường lên để có được góc chụp rõ nét. Không có hình chụp con dao khi diềm ga trải giường được buông xuống. Nếu con dao bị che khuất khi diềm ga trải giường được buông xuống, có nghĩa là thủ phạm hoàn toàn có khả năng bỏ sót nó trong lúc vội vã. Nếu con dao vẫn có thể được trông thấy, đồng nghĩa với việc nó đã được để lại một cách có chủ ý để làm tang vật theo một âm mưu sắp đặt trước. Nhưng cảnh sát đã không để ý tới vấn đề này.
Anh xem xét kỹ lưỡng bức ảnh chụp đống vật liệu đóng gói bưu kiện vương vãi trên sàn nhà, có thể đó là những thứ đã được dùng để bảo quản bức tranh của Prescott khi vận chuyển.
“Có gì đó không đúng”, anh lẩm bẩm.
Sachs vẫn đang đứng gần tấm bảng trắng, hai tay chống nạnh, liếc nhìn về phía anh.
“Bức tranh”, Rhyme nói tiếp.
“Có vấn đề gì với nó sao?”
“LaGrange đưa ra hai động cơ gây án. Một, Arthur đánh cắp bức tranh của Prescott như một vỏ bọc vì anh ấy muốn giết Alice để loại bỏ cô ta khỏi cuộc đời mình.”
“Phải.”
“Nhưng”, Rhyme tiếp tục, “để làm cho hành động giết người trông có vẻ chỉ là tình cờ xảy ra trong một vụ trộm, một kẻ thủ ác khôn ngoan sẽ không đánh cắp thứ trong căn hộ có thể khiến người ta lần theo tới hắn. Nhớ lại xem, Art từng có một bức tranh của Prescott. Và anh ấy có những bức thư quảng cáo liên quan tới những bức tranh của tác giả này”.
“Đúng vậy, làm thế thật vô lý.”
“Cứ giả thiết rằng anh ấy thực sự muốn có bức tranh đó song không đủ tiền, vậy sẽ vừa dễ dàng vừa an toàn hơn nhiều so với chuyện phải sát hại gia chủ nếu đột nhập vào căn hộ và nhẹ nhàng nẫng nó đi trong lúc chủ nhà vắng mặt.”
Cho dù thái độ của người anh họ không phải là một chi tiết có nhiều sức nặng với Rhyme khi đánh giá sự có tội hay vô tội của ai đó, nhưng cũng làm anh khó hiểu.
“Rất có thể anh ấy không giả vờ. Rất có thể anh ấy thực sự vô tội… Em vừa nói hoàn toàn đủ chứng cứ để buộc tội, đúng không? Không chỉ đủ đâu mà là quá nhiều.”
Anh thầm nghĩ: Hãy thử giả thiết là anh ấy không làm chuyện đó, vậy thì sẽ rất nghiêm trọng. Vì đây không chỉ đơn thuần là một vụ nhầm lẫn danh tính, các bằng chứng trùng khớp một cách quá hoàn hảo… kể cả mối liên hệ không thể phủ nhận giữa máu nạn nhân và chiếc xe của anh ấy. Nếu Art vô tội, chắc chắn có kẻ nào đó đã lao tâm khổ tứ để đẩy anh ấy vào tròng.
“Anh nghĩ anh ấy bị giăng bẫy.”
“Tại sao?”
“Động cơ ư?”, anh lẩm bẩm. “Vào lúc này, chúng ta tạm chưa quan tâm vội. Câu hỏi cần đặt ra là kẻ sát nhân đã làm như thế nào. Nếu trả lời được, nó sẽ dẫn chúng ta tới kẻ nào. Có thể trong quá trình điều tra, sẽ biết lý do tại sao, nhưng hiện giờ đó không phải là ưu tiên. Vì thế bắt đầu với giả thiết rằng một ông X nào đó, đã sát hại Alice Sanderson và đánh cắp bức tranh, sau đó đẩy Arthur vào bẫy. Vậy hắn đã làm chuyện này như thế nào, Sachs?”
Cô nhăn mặt khó chịu, lại là căn bệnh viêm khớp. Cô buộc phải ngồi xuống, ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Ông X đã theo dõi cả Arthur và Alice. Hắn nhận ra họ có chung một sở thích về mỹ thuật nên đã bày cách nhử họ cùng tới phòng tranh và tìm hiểu danh tính của họ”.
“Ông X biết cô gái có một bức tranh của Prescott. Hắn thèm khát muốn có một bức nhưng không đủ khả năng nên đã nghĩ tới việc sát hại nạn nhân để chiếm đoạt.”
“Chính xác.” Sachs gật đầu nhìn vào danh sách bằng chứng. “Sau đó, hắn đột nhập vào nhà Arthur, biết được anh ta có ăn bánh giòn Pringles và dùng gel cạo râu Edge, phân bón TruGro cũng như bộ dao Chicago Cutlery. Hắn đánh cắp mỗi thứ một ít để dàn cảnh. Hắn cũng biết Arthur đi loại giày nào vì thế hắn có thể để lại dấu giày và hắn còn khôn khéo lấy một ít đất từ công viên dính vào chiếc xẻng của Arthur…”
“Bây giờ, chúng ta hãy thử cùng nghĩ về ngày Mười hai tháng Năm. Bằng cách nào đó, ông X biết Art luôn rời chỗ làm sớm vào các ngày thứ Năm để đi chạy trong một công vi&ecưng chỉ  qua điện thoại. Sau đó là vụ tai nạn và sự im lặng kéo dài.
“Đúng kiểu biến mất tăm khỏi thế giới của Arthur.” Chị bật cười – một tiếng cười có phần bối rối. “Cậu biết bọn chị đã chuyển tới New Jersey chưa?”
“Thật sao?”
“Arthur từng dạy ở Princeton nhưng đã bị sa thải.”
“Có chuyện gì xảy ra vậy?”
“Anh ấy là trợ giảng và nghiên cứu viên. Bọn họ không ký hợp đồng giảng viên chính thức với anh ấy. Art nói nguyên nhân  là do chính sách của trường. Cậu cũng biết điều đó là thế nào ở các trường đại học mà.”
Henry Rhyme, cha của Art, một giáo sư Vật lý danh tiếng tại Đại học Chicago, con đường hàn lâm là một sự nghiệp được coi trọng trong nhánh đó của họ Rhyme. Ở trường trung học, Arthur và Lincoln từng tranh luận về giá trị của công tác nghiên cứu và giảng dạy tại trường đại học so với một công việc cho tư nhân. “Trong môi trường sư phạm, anh có thể đóng góp nghiêm túc cho xã hội”, Art từng nói khi hai cậu nhóc cùng nhau chia sẻ hai lon bia một cách bất hợp pháp khi chưa đủ tuổi. Arthur cũng cố gắng giữ vẻ nghiêm chỉnh trên khuôn mặt khi Lincoln đưa ra câu bổ sung: “Đúng thế và các cô trợ giảng có thể cực kỳ nóng bỏng”.
Rhyme chẳng hề ngạc nhiên khi Art lựa chọn làm việc tại một trường đại học.
“Anh ấy vẫn có thể làm công việc trợ giảng nhưng đã quyết định ra đi. Anh ấy rất phẫn nộ, cho rằng mình có thể tìm thấy một công việc khác ngay lập tức. Nhưng anh ấy đã thất nghiệp một thời gian trước khi vào làm cho một công ty tư nhân sản xuất thiết bị y tế.” Lại một cái nhìn vô thức nữa, lần này mục tiêu là chiếc xe lăn hiện đại phức tạp. Chị đỏ mặt như vừa làm một việc đầy xúc phạm. “Đó không phải là công việc mơ ước của anh ấy và anh ấy không cảm thấy vui vẻ. Chị biết chắc anh ấy muốn đến thăm cậu. Nhưng có lẽ anh ấy xấu hổ vì đã không thành công trong sự nghiệp khi so với danh tiếng cậu có được.”
Cuối cùng chị nhấp một chút cà phê. “Hai người có thật nhiều điểm chung, giống như hai anh em ruột vậy. Chị vẫn nhớ về Boston, về tất cả những câu chuyện cậu từng kể. Chúng ta đã thức trò chuyện đến nửa đêm và cùng phá lên cười. Có những điều chị chưa bao giờ biết về anh ấy. À, bố chồng chị khi còn sống vẫn nhắc đến cậu luôn.”
“Thật vậy sao?” Anh và bác vẫn hay viết thư cho nhau. Anh đã nhận được một lá thư của bác chỉ vài ngày trước khi ông qua đời.
Rhyme có không ít kỷ niệm khó quên với bác anh nhưng có một hình ảnh luôn khiến anh nhớ hơn cả. Người đàn ông cao lớn, đầu hói, với khuôn mặt hồng hào khỏe mạnh ngả đầu ra sau phá lên cười đến độ đinh tai nhức óc, khiến hầu như mọi thành viên  gia đình đang quây quần quanh bàn tiệc Giáng sinh phải bối rối trừ bản thân Henry Rhyme, bà vợ nhẫn nhịn của ông và chàng trai trẻ Lincoln, cậu cũng phá lên cười thoải mái cùng ông. Rhyme rất quý người bác này và thường xuyên tới thăm Henry cùng gia đình, khi ấy sống cách đó chừng ba mươi dặm, ngay bên bờ hồ Michigan, Evanston, tiểu bang Illinois.
Thế nhưng lúc này Rhyme không còn tâm trí đâu cho hoài niệm, anh thực sự thấy nhẹ nhõm khi nghe tiếng cửa mở, rồi tiếng bước chân dứt khoát vang lên từ ngưỡng cửa vào tới thảm trải sàn. Tiếng bước chân cho Rhyme biết người mới đến là ai. Lát sau, một người phụ nữ tóc đỏ cao ráo, mảnh mai, với quần jean, áo phông đen bên trong áo khoác đỏ tía bước vào. Chiếc áo phông khá rộng so với vóc dáng người mặc, trong khi hình dáng góc cạnh của chiếc báng khẩu súng ngắn Glock hằn lên rõ mồn một bên hông cô.
Khi Amelia Sachs mỉm cười đặt một nụ hôn lên môi Rhyme, nhà tội phạm học có thể thấy rõ câu trả lời bằng ngôn ngữ cơ thể của Judy vẫn đang ngồi ngay gần đó. Thông điệp này quá rõ ràng và Rhyme tự hỏi chuyện gì đã khiến vị khách bất ngờ như vậy. Hoặc là chị đã nghĩ chị quá sơ suất không hỏi xem Lincoln có hẹn với ai không. Hoặc chị đã tự cho rằng một người tàn tật không thể có được đối tượng hấp dẫn đến mức làm người ta ngơ ngẩn như Sachs, vốn từng làm người mẫu trước khi vào học trường cảnh sát.
Anh giới thiệu hai người với nhau. Sachs lắng nghe câu chuyện về vụ bắt giữ Arthur với sự quan tâm rõ rệt rồi hỏi Judy đang xử trí ra sao với tình thế hiện tại. Rồi cô hỏi một câu riêng tư: “Hai người đã có con chưa?”.
Rhyme nhận ra trong khi anh đang xăm xoi những câu lỡ lời của Judy thì bản thân anh cũng thất thố khi không hỏi han gì về cháu trai mình, thậm chí tên cậu bé anh cũng đã quên mất. Hóa ra gia đình họ đã có thêm thành viên mới. Bên cạnh Arthur Nhỏ[1], đã vào trung học, còn có thêm hai đứa bé nữa. “Một cháu trai chín tuổi, Henry và một cháu gái, Meadow, sáu tuổi.”
“Meadow?[3]“,  Sachs ngạc nhiên hỏi.
Judy bật cười bối rối. “Chúng tôi sống ở Jersey. Nhưng cái tên Meadow chẳng liên quan gì tới chương trình truyền hình cả. Cháu được sinh ra trước khi tôi xem chương trình đó.”
Chương trình truyền hình?
Judy phá vỡ khoảnh khắc im lặng ngắn ngủi. “Chắc cậu đang tự hỏi sao chị lại gọi cho ông sĩ quan cảnh sát đó hỏi số của cậu. Nhưng trước hết chị cần cho cậu hay Art không biết chị đến đây.”
“Không biết ư?”
“Nói thật với cậu, bản thân chị đã không nghĩ sẽ làm thế. Chị lo lắng đến mất ăn mất ngủ, không thể suy nghĩ được gì. Khi chị nói chuyện với Art vài ngày trước trong trung tâm tạm giam, anh ấy đã nói: ’Anh biết em đang nghĩ gì nhưng đừng gọi cho Lincoln. Đây chỉ là một trường hợp nhầm lẫn danh tính. Chúng ta sẽ sớm ổn thôi mà. Hãy hứa với anh, em sẽ không gọi’. Anh ấy không muốn làm cậu phải bận tâm… Cậu biết tính Art mà. Lúc nào cũng tốt tính, luôn nghĩ đến người khác.”
Rhyme gật đầu.
“Nhưng càng nghĩ nhiều về việc gọi cho cậu, chị càng thấy đúng đắn. Chị sẽ không yêu cầu cậu nhờ đến các mối quan hệ hay làm bất cứ điều gì không minh bạch, chỉ cần cậu gọi một hai cuộc điện thoại. Cậu nghĩ sao?”
Rhyme có thể hình dung ra việc đó sẽ diễn ra như thế nào ở Big Building. Là chuyên gia tư vấn pháp y của Sở Cảnh sát New York, công việc của anh là tìm ra sự thật, cho dù sự thật đó dẫn tới đâu. Rõ ràng bên cảnh sát sẽ cảm thấy thích hơn nhiều nếu anh giúp họ kết án các nghi phạm thay vì giúp những người này thoát tội.
“Chị đã đọc mấy bài cắt từ báo ra viết về cậu.”
“Bài cắt từ báo ra?”
“Art luôn theo dõi những bước đi của mọi người trong gia đình. Anh ấy đã cắt hàng tá bài viết về các vụ án của cậu từ các tờ báo. Những điều cậu làm được thật đáng kinh ngạc.”
Rhyme nói: “Em chỉ là một người làm công ăn lương thôi mà”.
Cuối cùng Judy cũng bộc lộ cảm xúc chân thành bằng một nụ cười trong khi chị chăm chú nhìn thẳng vào mắt Rhyme. “Art nói anh ấy chưa bao giờ tin cậu là người khiêm tốn, cho dù chỉ trong một phút.”
“Thật vậy sao?”
“Vì chính cậu cũng chẳng bao giờ tin vào điều đó.”
Sachs khẽ cười thành tiếng.
Rhyme bật ra tiếng cười mà anh nghĩ có thể coi là thành thật. Sau đó anh trở lại nghiêm túc. “Em không rõ có thể giúp được gì nhiều hay không. Nhưng hãy cho em biết những gì đã xảy ra.”
“Chuyện xảy ra thứ Năm tuần trước, hôm Mười hai. Art luôn về sớm vào những ngày thứ Năm để chạy bộ một lúc trong công viên tiểu bang trên đường về nhà. Anh ấy rất thích chạy.”
Rhyme nhớ lại trước đây đã không biết bao nhiêu lần, hai cậu bé chỉ cách nhau vài tháng tuổi cùng nhau chạy đua trên vỉa hè hay băng qua những đồng cỏ ngả vàng gần những ngôi nhà của gia đình chúng, khiến những con châu chấu có mặt trên đường đua phải bay đi tứ tán, trong khi những con muỗi nhỏ li ti dính bết lên làn da đầm đìa mồ hôi của hai đứa khi chúng dừng lại thở lấy hơi. Art có vẻ khá hơn nhưng Lincoln lại lọt được vào đội tuyển điền kinh của trường. Vì ông anh họ của anh chẳng hề bận tâm thử tham gia tuyển chọn.
Rhyme tạm gác những hồi ức sang bên để tập trung lắng nghe những gì Judy đang nói.
“Anh ấy rời chỗ làm ba rưỡi chiều và đi chạy như thường lệ, sau đó về đến nhà khoảng bảy giờ hay bảy rưỡi tối. Hôm sau, cảnh sát tìm đến nhà, hai người từ New York và một người từ New Jersey. Họ hỏi anh ấy rất nhiều câu hỏi, rồi kiểm tra chiếc xe. Họ tìm thấy những vết máu, chị không biết nữa…”. Giọng nói của chị hiện rõ những dư âm sót lại của cú sốc trong buổi sáng tai họa đó. “Họ khám xét ngôi nhà và lấy đi một vài thứ. Sau đó quay lại và bắt anh ấy vì tội giết người.” Phải khó khăn lắm chị mới nói ra được câu cuối cùng.
“Chính xác thì người ta tình nghi anh ấy đã làm gì?” Sachs hỏi.
“Họ tuyên bố anh ấy đã giết một người phụ nữ và ăn cắp một bức tranh quý của cô ta.” Người phụ nữ mỉa mai đầy cay đắng: “Ăn cắp một bức tranh? Để làm gì? Lại còn giết người nữa. Tại sao? Arthur chưa bao giờ làm hại ai trong cả cuộc đời anh ấy. Anh ấy không có khả năng làm điều đó”.
“Những vết máu được tìm thấy thì sao? Họ có giám định ADN không?”
“Họ làm rồi. Có vẻ như kết quả hoàn toàn khớp. Nhưng những xét nghiệm đó cũng có thể sai, đúng không?”
“Đôi khi”, Rhyme nói trong khi thầm nghĩ. Rất, rất hiếm khi.
“Hoặc có thể kẻ sát nhân thực sự đã tạo ra vết máu đó.”
“Arthur có đặc biệt quan tâm tới bức tranh đó không?”,  Sachs hỏi.
Judy mân mê chiếc vòng tay to bản bằng nhựa đen và trắng đeo trên cổ tay trái của chị. “Có, anh ấy từng có một bức tranh của họa sĩ đó. Anh ấy rất thích nó nhưng đã buộc phải bán đi khi mất việc.”
“Bức tranh được tìm thấy ở đâu?”
“Nó chưa được tìm ra.”
“Nhưng làm sao họ biết nó đã bị lấy đi?”
“Có một nhân chứng nói đã nhìn thấy một người đàn ông mang nó từ căn hộ của người phụ nữ ra xe vào đúng khoảng thời gian cô ấy bị giết. Ôi, tất cả chỉ là một mớ hỗn độn khủng khiếp. Những trùng hợp ngẫu nhiên… “. Giọng nói của chị chìm đi trong những tiếng nấc.
“Anh ấy có biết người phụ nữ đó không?”
“Lúc đầu Art nói anh ấy không biết, nhưng rồi sau đó anh ấy nghĩ có thể họ đã từng gặp nhau tại một phòng tranh mà thỉnh thoảng anh ấy có lui tới. Nhưng anh ấy khẳng định chưa từng nói chuyện với người phụ nữ đó.” Giờ đây đôi mắt của vị khách nữ đã thay thế tấm bảng vẽ kế hoạch tóm cổ Logan trong suy nghĩ của Rhyme.
Rhyme chợt nhớ lại quãng thời gian anh và Arthur từng trải qua bên nhau.
Chạy thi tới cái cây đó đi… Không, đồ nhát như cáy… Cái cây thích ở đằng kia kìa. Chạm vào thân cây! Đếm đến ba. Một… hai… chạy!
Anh đâu có đếm đến ba!
“Vẫn còn nữa đúng không, Judy?”, Sachs hỏi.
Rhyme đoán Sachs đã nhìn thấy điều gì đó trong mắt vị khách nữ.
“Tôi chỉ thấy lo lắng thôi, cả về bọn trẻ nữa. Đối với chúng, đúng là một cơn ác mộng. Hàng xóm láng giềng đối xử chẳng khác gì chúng tôi là những tên khủng bố.”
“Tôi rất xin lỗi phải hối thúc nhưng chúng tôi cần biết toàn bộ những gì đã xảy ra, điều đó rất quan trọng.”
Khuôn mặt Judy lại đỏ bừng lên, hai đầu gối ép chặt vào nhau. Rhyme và Sachs có một người bạn làm đặc vụ cho văn phòng Cục Điều tra liên bang ở California, Kathryn Dance. Cô là một chuyên gia nghiên cứu ý nghĩa của ngôn ngữ cử chỉ. Rhyme từng coi những kỹ năng này chỉ có ý nghĩa thứ yếu trong khoa học hình sự. Nhưng dần dần, anh trở nên thực sự tôn trọng Dance và đã học được ít nhiều chuyên ngành của cô. Lúc này anh có thể dễ dàng nhận thấy Judy Rhyme đang ở trong trạng thái căng thẳng tột độ.
“Tiếp tục đi nào”, Sachs động viên.
“Cảnh sát đã tìm ra một vài bằng chứng khác mà thực ra cũng không hẳn là bằng chứng. Nhưng… chúng khiến họ nghĩ rất có thể Art và người phụ nữ kia đang hẹn hò với nhau.”
Sachs hỏi: “Chị nghĩ sao về chuyện này?”.
“Tôi không nghĩ anh ấy lại làm thế.”
Rhyme nhận thấy động từ trong câu trả lời trở nên rụt rè hơn. Không còn là lời phủ nhận mạnh mẽ cương quyết như với các tội danh giết người cướp của. Người phụ nữ khốn khổ mong muốn câu trả lời là không, cho dù cô gần như chắc chắn đã có cùng suy nghĩ như Rhyme: việc người phụ nữ bị giết là tình nhân của Arthur sẽ là một chi tiết có lợi cho anh ta. Sẽ dễ dàng cướp của một người xa lạ hơn của người ta đang bồ bịch. Thế nhưng, là một người vợ và một người mẹ, Judy vẫn mong câu trả lời ngược lại.
Sau đó chị ngước mắt lên, cái nhìn đã bớt thận trọng khi quan sát Rhyme, chiếc ghế anh đang ngồi cũng như các máy móc luôn đồng hành cùng anh.
“Cho dù chuyện gì đã xảy ra đi nữa, anh ấy không giết người phụ nữ đó. Anh ấy không thể. Chị linh cảm được điều đó… Cậu có thể giúp bọn chị được không?”
Rhyme và Sachs nhìn nhau. Anh nói: “Xin lỗi, Judy, lúc này bọn em đang có vào một vụ rất quan trọng. Bọn em sắp tóm được một gã sát nhân rất nguy hiểm. Em không thể dứt ra khỏi vụ này được”.
“Chị không muốn cậu phải làm thế. Nhưng, hãy giúp anh ấy, chỉ một điều gì đóthôi. Chị không còn biết phải làm gì nữa.” Đôi môi chị run rẩy.
Anh nói: “Bọn em sẽ gọi điện thoại để xem có thể làm được gì. Em không thể cho chị biết bất cứ thông tin nào ngoài những gì luật sư có thể nói cho chị, nhưng em sẽ nói thật về cơ hội kháng án thành công của Arthur”.
“Ôi, cảm ơn cậu, Lincoln.”
“Luật sư của anh ấy là ai?”
Chị cho hai người biết tên và số điện thoại của vị luật sư. Một luật sư chuyên bào chữa cho các vụ án hình sự, thành tích thuộc loại đầu bảng, kèm theo mức giá thù lao cũng ngất ngưởng không kém, Rhyme biết rõ người này. Ông ta là một người cực kỳ bận rộn và có nhiều kinh nghiệm về các vụ án tài chính hơn là một vụ cưỡng dâm.”
“Cưỡng dâm?” Chi tiết này góp thêm một khía cạnh khó lường và đáng lo ngại hơn cho vụ án.
“Phải. Trong cả hai vụ, một nhân chứng nặc danh đã gọi điện thoại đến thông báo và cung cấp một số thông tin đóng vai trò rất quan trọng để nhận dạng thủ phạm, tương tự như vị nhân chứng đã gọi đến mô tả về chiếc xe của anh họ anh.”
“Và tất nhiên cả hai người gọi điện đều là đàn ông?”
“Chính xác. Chính quyền thành phố đã đặt giải thưởng song không ai trong hai người này lộ diện.”
“Thế còn các bằng chứng?”
“Flintlock không nhớ chính xác. Nhưng ông ấy nói là luôn có các dấu vết để lại cùng các mối liên hệ rất chặt chẽ. Năm hay sáu bằng chứng theo lớp được phát hiện tại hiện trường và nhà nghi phạm, giống như những gì đã xảy ra với anh họ anh. Trong cả hai trường hợp, cảnh sát đều tìm thấy máu nạn nhân dính trên khăn lau hay một trang phục lấy từ nơi ở của nạn nhân.”
“Anh dám cược rằng không hề phát hiện ra vết dịch sinh học nào trùng khớp trong vụ cưỡng dâm.”
Phần lớn những kẻ cưỡng dâm bị kết tội do để lại những dấu vết của một trong ba thứ dịch sinh học: tinh dịch, nước bọt hay mồ hôi.
“Không. Không hề có.”
“Những người gọi điện thoại nặc danh, có phải lúc nào họ cũng cho biết một phần biển đăng ký xe, đúng không?”
Cô nhìn vào bản ghi chép. “Chính xác, sao anh biết?”
“Vì gã thủ phạm của chúng ta cần câu giờ. Nếu hắn cung cấp toàn bộ biển số, ngay lập tức cớm sẽ lao thẳng đến nhà kẻ làm vật thí mạng, như thế hắn sẽ không kịp bố trí tang vật tại đó. Kẻ sát nhân đã lường trước mọi thứ. Tất cả những người bị tình nghi đều phủ nhận phải không?”
“Phải. Họ đều cố thử vận may với bồi thẩm đoàn nhưng đều thua cuộc.”
“Không, chuyện này quá trùng hợp”, Rhyme lẩm bẩm. “Anh muốn xem qua…”
“Em đã nhờ người lấy hồ sơ từ kho lưu trữ các vụ đã thụ lý xong.”
Anh bật cười. Như thường lệ, cô lại đi trước anh một bước. Anh nhớ lần đầu tiên hai người gặp nhau nhiều năm trước, Sachs lúc đó là một nhân viên tuần tra đã hoàn toàn vỡ mộng và sẵn sàng từ bỏ sự nghiệp cảnh sát. Còn Rhyme đang muốn từ bỏ nhiều hơn thế. Kể từ lúc đó, họ đã cùng nhau đi một đoạn đường thật xa.
Rhyme nói vào micro điều khiển. “Nhận lệnh, gọi cho Sellitto.” Anh đang thực sự bị kích động. Anh có thể cảm nhận được cảm giác phấn khích không lẫn vào đâu được, một tâm trạng hồi hộp đến run người mỗi khi sắp bước vào một cuộc săn lùng. Trả lời cái điện thoại chết tiệt đó đi chứ, anh bực bội thầm nghĩ, và lần đầu tiên hoàn toàn quên bẵng nước Anh.
“Chào, Linc.” Giọng nói đậm chất Brooklyn của Sellitto vang lên khắp căn phòng. “Có chuyện gì vậy anh bạn?”
“Nghe này. Tôi có một rắc rối.”
“Còn tôi đang bận ngập cổ đây.”
Gần đây tâm trạng đồng đội cũ của Rhyme, Trung úy thám tử Lon Sellitto, không được tốt. Một vụ án lớn mà anh ta tham gia vừa bị chìm xuồng. Vladimir Dienko, tên đồ tể của một trùm xã hội đen Nga ở khu Brighton Beach, đã bị truy tố vào năm trước với các tội danh tống tiền và giết người. Rhyme đã hỗ trợ ban chuyên án cùng một số chuyên gia pháp y khác. Nhưng mọi người đều sững sờ khi vụ truy tố Dienko và ba đồng phạm của gã bị bãi bỏ vào hôm thứ Sáu, vì tất cả nhân chứng đều lật lại lời khai hoặc biến mất tăm. Sellitto cùng các đặc vụ liên bang đã bận bù đầu suốt dịp cuối tuần cố tìm ra các nhân chứng và người cung cấp tin mới.
“Tôi sẽ nói nhanh thôi.” Anh kể lại những gì đã tìm ra về vụ anh họ mình cũng như hai vụ án cưỡng dâm và đánh cắp tiền xu hiếm.
“Hai vụ khác? Lạ lùng thật. Thế anh họ anh nói sao?”
“Tôi chưa kịp gặp. Nhưng anh ấy phủ nhận tất cả. Tôi muốn điều tra lại vụ này.”
“”Điều tra lại?”
“Tôi không tin Arthur gây ra vụ đó.”
“Anh ta là anh họ anh. Tất nhiên, anh không nghĩ anh ta là thủ phạm. Nhưng anh có bằng chứng gì không?”
“Giờ thì chưa. Chính vì thế tôi cần anh giúp. Tôi cần vài người.”
“Tôi ngập đến tận cổ với vụ Dienko ở Brighton Beach rồi.”
“Vụ này có thể to chuyện đấy, Lon. Ngoài ba vụ án có mùi sắp đặt tang vật kia, tôi dám cược còn có nhiều vụ khác nữa. Tôi biết anh khoái mấy câu cửa miệng của anh đến mức nào, Lon. Như thế nào nhỉ, năm từ ‘tóm cổ kẻ sát nhân’ không làm anh động lòng sao?”
“Anh muốn nhét vào tai tôi bất cứ câu nào thì tùy, Linc, tôi bận rồi.”
“‘Tóm cổ kẻ sát nhân’ là một cụm từ, Lon. Một câu thì phải có đủ cả chủ ngữ lẫn vị ngữ.”
“Cái gì cũng được. Tôi đang cố cứu vãn vụ đám người Nga. Chẳng có ai ở Tòa thị chính hay Cục Điều tra liên bang tỏ ra vui vẻ với những gì vừa xảy ra.”
“Tôi hoàn toàn thông cảm với họ. Nhưng hãy cho điều tra lại vụ này đi.”
“Đó là việc của bên Án mạng. Tôi thuộc Ban Trọng án.”
Ban Trọng án của Sở Cảnh sát New York không điều tra các án mạng thông thường, nhưng câu viện cớ của Sellitto khiến Rhyme bật cười chua chát. “Anh sẽ nhảy vào các vụ điều tra án mạng khi nào anh muốn làm thế. Từ khi nào anh bắt đầu tôn trọng các nguyên tắc của ban vậy?”
“Tôi cho anh hay những gì tôi sẽ làm”, anh chàng thám tử lầm bầm. “Có một tay đại úy vẫn làm việc hôm nay, ở khu trung tâm – Joseph Malloy. Biết ông ta chứ?”
“Không.”
“Em biết”, Sachs nói. “Một người đàn ông cứng rắn.”
“Chào, Amelia. Cô vẫn sống sót được với đợt lạnh hôm nay sao?”
Sachs bật cười. Rhyme cằn nhằn.
“Vui quá nhỉ, Lon. Ông ta là gã quái nào thế?”
“Khôn lanh. Không bao giờ thỏa hiệp. Không hề có khiếu hài hước. Anh sẽ thích ông ta.”
“Ngày nay có quá nhiều tay hề lảng vảng khắp nơi rồi”, Rhyme lẩm bẩm.
“Ông ta rất nghiêm túc. Một tín đồ của công lý thực thụ. Vợ ông đại úy này đã bị giết trong một vụ đột nhập tư gia năm hay sáu năm trước.”
Sachs nhăn mặt. “Tôi không hề biết chuyện đó.”
“Phải và ông ta tập trung một trăm năm mươi phần trăm vào công việc. Dân tình đồn rằng ông ta đang nhắm tới một vị trí trong văn phòng ở tầng trên. Hoặc thậm chí ngay cửa kế bên.”
Tòa thị chính.
Sellitto nói tiếp: “Thử gọi cho ông ta xem ông ta có cho anh được vài người không”.
“Tôi muốn chính anh cho người.”
“Quên đi, Linc. Tôi đang phải chỉ huy một chiến dịch giám sát bí mật liên tục. Một cơn ác mộng. Nhưng hãy cho tôi biết diễn biến tình hình và… “
“Tôi phải ngắt máy đây, Lon… Nhận lệnh, ngắt liên lạc.”
“Anh đã cúp máy ngay trước mũi anh ta đấy”, Sachs nhận xét.
Rhyme khẽ làu bàu rồi ra lệnh gọi điện thoại cho Malloy. Nếu rơi vào hộp thư thoại lần nữa, chắc hẳn anh sẽ phát khùng.
Nhưng viên đại úy trả lời ngay sau tiếng chuông thứ hai. Lại một sĩ quan cảnh sát cao cấp nữa làm việc ngày Chủ nhật. Rhyme cũng làm như vậy tương đối thường xuyên và vụ ly dị là bằng chứng quá rõ ràng.
“Malloy đây.”
Rhyme xưng tên.
Một thoáng ngập ngừng. Rồi: “Thế này nhé, Lincoln… chúng ta chưa từng gặp nhau. Nhưng tất nhiên tôi biết về anh”.
“Tôi đang ở bên cạnh một trong các thám tử của ông, Amelia Sachs. Chúng ta đang nói qua loa ngoài, Malloy.”
“Buổi chiều vui vẻ, thám tử Sachs”, giọng nói lạnh lùng từ đầu dây bên kia vang lên. “Tôi có thể làm gì cho hai người?” Rhyme nói vắn tắt về vụ án và lý do khiến anh tin Arthur bị cài bẫy.
“Anh họ anh? Rất tiếc phải nghe điều này.” Nhưng giọng ông ta chẳng hề lộ chút tiếc rẻ nào. Malloy có thể đang lo Rhyme muốn ông ta can thiệp giúp giảm nhẹ các tội danh, nhẹ nhất là tình cờ có mặt không đúng lúc. Còn xa nhất là viễn cảnh một cuộc điều tra nội bộ và giới truyền thông. Tất nhiên, ngược lại cũng chẳng hay ho gì vì ông không giúp người đã đem đến những trợ giúp vô giá cho Sở Cảnh sát New York, hơn nữa lại là người tàn tật. Cư xử đúng đắn đang là mốt thời thượng trong chính quyền thành phố.
Nhưng rõ ràng những gì Rhyme đề nghị còn rắc rối hơn nhiều. Anh nói thêm: “Tôi tin rất có khả năng cũng thủ phạm này đã gây ra nhiều tội ác khác”. Rồi cung cấp chi tiết về vụ đánh cắp đồng xu và vụ cưỡng dâm.
Vậy là không chỉ một mà có tới ba người đã bị bắt oan bởi các nhân viên Sở Cảnh sát New York của Malloy. Có nghĩa là trên thực tế ba vụ án có liên quan chưa được phá xong và kẻ thủ ác thực sự vẫn đang lọt lưới. Nếu không giải quyết êm thấm vụ này có thể sẽ lại xuất hiện một cơn ác mộng nữa với phản ứng của công chúng.
“Quả thật rất lạ. Không bình thường… Tôi biết sự trung thành của anh với anh họ mình…”
“Tôi có lòng trung thành với sự thật, Malloy”, Rhyme nói, chẳng hề bận tâm liệu câu trả lời của mình cón cười. Ý tôi muốn nói là khác thường. Nhưng tôi đã không nhận ra mối liên hệ giữa họ của hai người. Trong suốt các cuộc thẩm vấn, cậu ta cũng không hề nói gì về ông. Tôi thực sự rất tiếc.”
“Thám tử, tôi không muốn can dự vào vụ án. Nhưng tôi đã hứa sẽ gọi điện hỏi tình hình vụ việc. Tôi biết nó đã lên tới trợ lý ủy viên công tố quận. Tôi vừa nói chuyện với ông ấy.”
“Tôi buộc phải nói vụ này rõ như ban ngày rồi. Tôi đã điều tra các vụ án mạng từ năm năm nay và trừ trường hợp ai đó trong phiên tuần tra tận mắt trông thấy một vụ thanh toán băng đảng thì đây là vụ chắc chắn nhất tôi từng chứng kiến.”
“Đầu đuôi câu chuyện ra sao? Vợ của Art chỉ cho tôi biết vài chi tiết rời rạc.”
Tay thám tử trả lời bằng giọng nói cứng nhắc, khô khốc, hoàn toàn vô cảm mà những anh chàng cớm luôn dùng đến mỗi khi thuật lại tình tiết của một tội ác: “Anh họ ông rời chỗ làm sớm. Anh ta tới căn hộ của một phụ nữ có tên Alice Sanderson ở khu Village. Cô ta cũng rời chỗ làm sớm. Không rõ anh ta ở đó bao lâu nhưng vào khoảng sáu giờ chiều, cô gái đã bị đâm chết bằng dao và một bức tranh đã bị đánh cắp”.
“Tranh hiếm phải không?”
“Phải. Nhưng chưa đến mức như tranh của Van Gogh[1].”
“Tác giả là ai?”
“Một tay Prescott nào đó, qua đời cách đây chưa lâu.”
“Vậy là tranh của ông ta đang lên giá?”
“Đoán vậy. Nhưng bức tranh này cũng chỉ có giá khoảng một trăm năm mươi nghìn đô. À, chúng tôi cũng đã tìm thấy vài bức thư gửi trực tiếp, như kiểu tờ rơi quảng cáo, của một vài phòng tranh gửi cho anh họ ông về Prescott. Có vẻ không phải là những bằng chứng hay ho cho lắm.”
“Hãy cho tôi biết thêm về ngày Mười hai tháng Năm”, Rhyme nói.
“Vào lúc khoảng sáu giờ, một nhân chứng nghe thấy những tiếng thét, vài phút sau đó cũng nhân chứng này trông thấy một người đàn ông mang theo một bức tranh chạy ra ngoài, tới một chiếc Mercedes màu xanh sáng đỗ bên đường. Chiếc xe chạy ngay khỏi hiện trường. Nhân chứng chỉ nhìn thấy ba chữ cái đầu trên biển số, không rõ được tên tiểu bang nhưng chúng tôi đã tìm kiếm trong phạm vi thành phố. Sau đó thu hẹp danh sách tình nghi và thẩm vấn các chủ xe. Một trong số này là anh họ ông. Tôi, người cùng nhóm và một nhân viên cảnh sát tới Jersey để gặp anh ta. Chúng tôi phát hiện thấy những vết giống vết máu trên cửa sau xe và băng ghế sau. Có một chiếc khăn lau thấm đầy máu giấu dưới băng ghế. Chiếc khăn này trùng khớp với bộ khăn được dùng tại căn hộ của nạn nhân.”
“Và ADN cũng dương tính?”
“Phải, là máu của cô ta.”
“Nhân chứng đã nhận ra anh ấy trong một buổi nhận dạng trực tiếp?”
“Không, hoàn toàn nặc danh. Nhân chứng gọi đến từ một thuê bao trả trước và không cho biết tên vì không muốn gặp rắc rối. Nhưng chúng tôi cũng không cần thêm. Nhóm điều tra hiện trường đã thu hoạch được nhiều thứ. Bọn họ lấy được một dấu giày ngay trên lối vào căn hộ nạn nhân, cùng loại với giày anh họ ông đi và thu lượm được vài dấu vết hoàn hảo.”
“Bằng chứng ‘theo lớp’[2]?”
“Phải, theo lớp. Vết kem cạo râu, đồ ăn vặt, phân bón cỏ lấy từ ga ra của anh ta. Hoàn toàn trùng khớp với những gì tìm thấy trong căn hộ nạn nhân.”
Không, chúng không trùng khớp, Rhyme thầm nghĩ. Bằng chứng gồm nhiều loại khác nhau. Bằng chứng “cá thể”[3] lấy từ một nguồn duy nhất, chẳng hạn như ADN hay dấu vân tay. Bằng chứng “theo lớp” có chung một số đặc tính nhất định với các vật liệu tương tự, nhưng không nhất thiết từ cùng một nguồn. Chẳng hạn như sợi dệt thảm. Xét nghiệm ADN của mẫu máu lấy từ hiện trường vụ án có thể chắc chắn “trùng khớp” với máu của thủ phạm. Nhưng việc so sánh giữa mẫu sợi dệt thảm từ hiện trường với những sợi thảm tìm thấy trong nhà kẻ tình nghi nếu “có mối liên hệ” chỉ có thể cho phép bồi thẩm đoàn suy ra kẻ tình nghi đã có mặt tại hiện trường.
“Theo ông, nghi phạm có quen cô ta hay không?”, Sachs hỏi.
“Anh ta khăng khăng là không, nhưng chúng tôi đã tìm thấy hai ghi chú nạn nhân đã viết. Một tại chỗ làm việc, một tại nhà. Ghi chú thứ nhất: ‘Art – đồ uống’. Ghi chú thứ hai chỉ vẻn vẹn: ‘Arthur’. Không có gì khác. À, tên anh ta có trong điện thoại của nạn nhân.”
“Số điện thoại của anh ấy?”, Rhyme cau mày.
“Không. Chỉ có số máy di động trả trước. Không có thông tin người dùng.”
“Vậy anh cho rằng hai người thậm chí còn hơn là b khoa trương quá không.
“Được thôi…”
“Tôi chỉ cần một vài cảnh sát giúp chúng tôi tìm hiểu lại bằng chứng trong các vụ án kể trên. Có thể cả điều tra một chút.”
“Ồ, tôi hiểu… Thế này nhé, rất xin lỗi anh, Lincoln. Đơn giản là chúng tôi không có người cho những chuyện kiểu này. Nhưng tôi sẽ đề cập việc này với ông phó giám đốc sở ngay ngày mai.”
“Anh nghĩ có thể gọi cho ông ấy ngay bây giờ không?”
Lại một thoáng chần chừ nữa. “Không. Hôm nay ông ấy có việc bận.”
Ăn trưa. Tiệc ngoài trời với thịt nướng. Hoặc cũng có thể là một suất diễn vào sáng Chủ nhật của Young Frankenstein[1] hay Spamalot[2].
“Tôi sẽ đề cập đến yêu cầu của anh trong cuộc giao ban. Đây là một trường hợp lạ lùng. Anh không nên làm gì cho tới khi tôi hoặc ai đó gọi lại.”
“Tất nhiên rồi.”
Hai người gác máy. Rhyme và Sachs cùng im lặng trong vài giây.
Một trường hợp lạ lùng…
Rhyme nhìn đăm đăm lên chiếc bảng trắng, trên đó là bức ảnh hiện trường chụp thi thể nạn nhân đang nằm ở tư thế lúc từ giã cuộc sống.
Sachs lên tiếng hỏi, phá vỡ sự im lặng: “Không biết Ron đang làm gì?”.
“Sao chúng ta không thử tìm hiểu xem nhỉ?” Anh dành cho cô một nụ cười chân thành hiếm hoi.
Cô lấy điện thoại di động ra, bấm nút quay số nhanh, rồi bật loa ngoài.
Một giọng trẻ trung vang lên giữa tiếng lạo xạo: “Vâng, thưa bà thám tử”.
Sachs đã tìm mọi cách để cậu sĩ quan tuần tra trẻ tuổi Ron Pulaski gọi cô là “Amelia” từ nhiều năm nay, nhưng chẳng bao giờ cậu ta quen cách xưng hô này.
“Cậu đang nói qua loa ngoài đấy, Pulaski”, Rhyme cảnh báo.
“Vâng, thưa ông.”
Từ “ông” làm Rhyme thực sự không thoải mái, nhưng lúc này anh chẳng còn tâm trạng để chỉnh cậu thanh niên.
“Ông vẫn khỏe chứ?”, Pulaski hỏi.
“Ổn cả”, Rhyme đáp. “Ngay lúc này cậu đang làm gì vậy? Việc đó quan trọng không?”
“Ngay lúc này ấy à?”
“Tôi nghĩ tôi vừa hỏi xong.”
“Rửa bát. Jenny và tôi vừa dùng bữa với vợ chồng anh trai tôi xong. Chúng tôi đã cùng lũ trẻ tới chợ bán đồ nông sản. Rất tuyệt. Ông và thám tử Sachs đã bao giờ…?”
“Vậy là anh đang ở nhà và không bận việc gì?”
“Có đấy. Đống bát đĩa.”
“Bỏ chúng đấy. Tới đây ngay.”
Rhyme, một dân thường, không hề có quyền ra lệnh cho bất cứ người nào của Sở Cảnh sát New York, cho dù là đám cảnh sát giao thông. Nhưng Sachs là một thám tử cấp ba, cô không cần yêu cầu anh chàng này giúp họ, cô hoàn toàn có thể ra lệnh điều động. “Chúng tôi cần cậu, Ron, hôm nay và có thể cả ngày mai.”
Ron Pulaski thường xuyên làm việc với Rhyme, Sachs và Sellitto. Tham gia điều tra cho nhà thám tử pháp y nổi danh đã nâng cao không ít vị thế của cậu sĩ quan trẻ trong ban. Rhyme tin chắc cấp trên của cậu ta sẽ đồng ý để cậu làm việc cho họ trong vài ngày, chừng nào ông ta còn chưa gọi cho Malloy hay bất cứ ai ở Sở và phát hiện thực ra chẳng có vụ điều tra nào hết.
Pulaski cho Sachs tên của viên trưởng đồn. Sau đó hỏi: “Ồ, thưa ông, Trung úy Sellitto có tham gia vụ này không? Tôi có nên gọi và phối hợp với ông ấy không?”.
“Không cần”, cả Rhyme và Sachs cùng buột miệng.
Một chút im lặng, rồi Pulaski nói với vẻ không chắc chắn: “Tôi sẽ có mặt sớm nhất có thể. Chỉ là, liệu tôi có thể lau khô mấy cái ly trước khi đi được không? Jenny ghét nhất là vết nước ố trên ly”.
Chú thích

[1] Súng hỏa mai.
[2] Bộ phim hài Mỹ của đạo diễn Mel Brooks.
[3] Tức Monty Python’s Spamalot: vở nhạc kịch hài của Mỹ dựa theo bộ phimMonty Python and the Holy Grail.