Dịch giả: Trịnh Huy Hóa
Quỷ biển
Tác giả: Joseph Payne Brennan

     ột tấm áo thụng khổng lồ màu xám đen đang di chuyển dưới đáy biển. Nó trườn đi trong lớp bùn nhão giống như một loài nhuyễn thể kỳ quái đầy si mê háo hức với cuộc sống sục sạo săn mồi. Nó cứ thay đổi giữa dạng nhầy nhớt và dạng lỏng. Có lúc nó trải dẹt ra và trôi đi trên thảm bùn giống như một vết mực loang; thỉnh thoảng nó dừng lại, thu mình vào và nhô lên cao khỏi đám bùn hình thành một chóp nón không rõ hình thù hay một cái mũ trùm khổng lồ. Mặc dù nó không có mắt, nhưng nó có xúc giác cực kỳ phát triển, và nó có sự nhậy cảm rất cao với những xung động dù nhỏ nhất na ná như một kiểu ngoại cảm. Nó rất mềm dẻo, hầu như không có hình thù. Nó có thể vươn ra những xúc tu rất dài, khi đó nó giống như một con mực quái dị hay một con sao biển khổng lồ gớm ghiếc. Nó có thể ép mình thành một cái đĩa tròn dẹt, hay thu mình lại thành một cái bướu không đều khiến nó giống như một khối đá đen chìm dưới đáy biển.
Nó đi thơ thẩn rình mò dưới làn nước đen ngòm không đáy. Nó hình thành từ khi lục địa và biển khơi còn rất trẻ, nó cũng già lão như chính đại dương vậy. Nó di chuyển trong bóng đêm khôn cùng không có khởi đầu cũng không có kết thúc. Những vực sâu dưới đáy biển đen ngòm nơi nó ẩn náu vốn đã đen ngòm từ thủa khai thiên lập địa - chỉ có một nơi duy nhất đáng sợ hơn nơi đây, đó là những dòng sông ngầm nơi các khoảng trống lòng đất.
Nó được kích thích bởi một bản năng duy nhất, không ngừng, không bao giờ thỏa mãn: một cơn đói tham lam, vô độ. Nó có thể sống nhiều tháng trời mà không ăn uống gì, nhưng chỉ vài phút sau bữa ăn là nó lại đói cồn cào như mọi khi. Sự phàm ăn của nó thật đáng sợ và không thể đo lường được.
Dưới đáy biển lạnh giá đen như mực, cuộc chiến tranh vì sự sinh tồn thật man rợ, thật ghê gớm - và thường rất ngắn ngủi. Nhưng với cái khối nhầy đang di chuyển này thì không hề có chuyện phải đánh nhau. Nó ăn bất kể thứ gì gặp được trên đường đi của nó, bất kể kích thước, bất kê hình dạng hay tính khí. Nó hút những sinh vật phù du nhỏ xíu và nuốt chửng con mực khổng lồ với một sự dửng dưng y như nhau. Lớp vỏ ngoài của nó có vẻ ít lỏng hơn, có lẽ vì thế mà nó vẫn giữ lại những vết trầy sẹo, gây ra bởi những cú rứt điên cuồng bằng giác hút của loài mực ma khổng lồ vùng biển sâu, hay những vết răng cắt của loài cá mập khổng lồ thời cổ, nhưng dù có như thê thì chúng cũng không thoát khỏi cái mà số phận đã dànlj cho chúng. Khi lớp màng nhớt sống di chuyển được đó rời khỏi đáy bùn trùm lên chúng, thì những cái chết quằn quại đau đớn nhất so với nó cũng chẳng là gì.
Con thủy quái khủng bố này không biết sợ là gì. Không có gì làm cho nó sợ. Nó ăn bất cứ thứ gì động đậy, hoặc nằm im cố không động đậy, và nó chưa bao giờ gặp thứ gì có thể quay lại ăn thịt nó. Nếu một giác hút của con mực khổng lồ hay hàm răng của con cá mập cắm vào cái thân hình như một khối nhầy nhớt của nó, thì từ chỗ bị rách thủng chất nhầy sẽ tuôn ra và vết cắt sẽ lập tức được hàn kín lại. Nếu có một mảnh nào đó bị cắt rời ra thì nó có thê tìm ra và nhập chúng vào cơ thể trở lại.
Cái áo thụng đen khổng lồ này ngự trị trong cái thế giới hoang vu tối tăm của nhầy nhớt và câm lặng. Nó mò mẫm sục sạo trong bùn một cách tham lam, nó ăn không ngừng nghỉ và không bao giờ ngủ, không bao giờ nghỉ ngơi. Nếu nó nằm yên thì đó chỉ là cách nó giăng bẫy rình bắt con mồi, mà nếu không làm thế thì con mồi sẽ trốn thoát. Nếu nó đã rượt đuổi với một tốc độ khủng khiếp trên mặt đáy biển trơn nhớt thì nó không bao giờ để xổng một kẻ thù nào. Nhưng nó luôn luôn trùm cái khối chất lỏng gớm guốc của nó lên con mồi - đó là cách tấn công duy nhất và vô phương chạy thoát của nó.
Nó sinh ra từ những chất phân hủy và nhầy nhớt dưới đáy đại dương nguyên thủy, và nó xa lạ với đời sống bình thường trên hành tinh như một kẻ ngụ cư đến từ một hành tinh hoang vu trong một thiên hà xa xôi nào đó. Nó là một thử nghiệm lỗi nhịp của tự nhiên, mà so với nó thì con hổ răng lưỡi gươm, voi ma mút hay thậm chí cả con khủng long bạo chúa Tyrannosaurus, vị chúa tể khát máu của những loài bò sát khổng lồ, cũng chỉ là những con vật hiền lành, yếu ớt.
Nếu không vì một đợt bộc phát núi lửa rất mạnh dưới nền đáy đại dương, thì kẻ khủng bố đen ngòm kia có lẽ sẽ tiếp tục kéo lê sự tồn tại của nó trên lớp bùn biển lặng câm và không bao giờ có dịp thể hiện sức mạnh ghê gớm của nó đối với loài người.
Số phận, dưới hình thức một vụ nổ kinh khủng dưới mặt đất bao trùm một vùng đáy biển rộng lớn, đã ném mạnh con quái vật ra khỏi cái thế giới trơn nhớt đen thui của nó và ném cái khối nhớt bị cuộn tròn đó lên mặt biển.
Nếu như nó là một loài cá sống dưới tầng nước sâu bình thường thì nó đã không thể nào sống sót được sau sự kiện nói trên. Vụ nổ và sự giảm đột ngột của áp suất nước biển khi bị bắn lên khỏi mặt nước sẽ tiêu diệt nó. Nhưng nó không phải là một con cá bình thường. Độ nhầy nhớt hay độ dẻo hay cái gì đó đã cấu tạo nên cái cấu trúc giống như con a míp của nó cho phép nó vẫn tồn tại được.
Nó bị tung lên mặt nước mà chỉ hơi bị choáng váng một chút và rơi xuống mặt biển đang nổi sóng. Trong cơn choáng váng nó nổi lềnh bềnh giống như một đống mỡ cá voi màu đen khổng lồ. Những con sóng lớn cuộn lên do vụ nổ trong lòng đất lẹ làng cuốn lấy nó, và vì đang choáng váng nên nó không kháng cự lại những núi nước đang cuốn nó đi.
Cùng với tro tàn, bọt đá và những xác cá chết trương phình rải rác, con thủy quái màu đen bị sóng cuốn phăng phăng về hướng bờ biển. Những con sóng thần cao ngất đẩy nó sâu vào đất liền hơn một dặm, và bỏ nó giữa một vùng đầm lầy nước mặn chát.
Cũng may cho nó là vụ nổ dưới lòng biển sâu và con sóng đưa nó vào bờ xảy ra ban đêm, vì thế con thủy quái nhầy nhớt không phải chịu đựng một thử thách mới và rất đáng sợ đối với nó, đó là ánh sáng.
Mặc dù bóng tối lúc nửa đêm của vùng đầm lầy bị bão tràn qua không thể so sánh được với màn đêm đen kịt dưới đáy đại dương, nơi thậm chí tia tử ngoại của quang phổ mặt trời cũng không thể xuyên tới được, nhưng màn đêm nơi đầm lầy tuy vậy cũng tăm tối và sâu thẳm.
Khi con sóng lớn hạ xuống, nước rút ào ào qua các bụi gai rậm trở về biển khơi, co thủy quái đen thui bám lấy bãi bùn được bao quanh bởi rặng cây gai đuôi mèo. Nó cảm nhận được về sự thay đổi thình lình, kinh khủng trong môi trường sống của nó và vì thế nó nằm im bất động một hồi lâu, tập trung chú ý vào sự thay đổi khó hiểu bên trong cơ thể của nó, khi không có sức ép kịch liệt của nước và không còn được bao bọc bởi nước biển lạnh giá. Khả năng thích nghi của nó thật khủng khiếp và thật khó tin. Nó chỉ cần vài giờ để đạt được những gì mà một sinh vật bình thường chỉ có thể có được qua một quá trình tiến hóa lâu dài. Ba giờ sau khi con sóng lớn đẩy nó lên bãi bùn, nó đã trải qua một cách mau lẹ những thay đổi bên trong cơ thể khiến cho nó cảm thấy dễ chịu hơn trong môi trường mới.
Thực ra nó cảm thấy nhẹ nhõm và linh hoạt hơn nhiều so với khi còn sống dưới đáy biển sâu.
Khi nó bung các xúc giác ra và bắt đầu thu nhận những rung động và sóng phản xạ dù nhỏ nhất trong vùng đầm lầy, cơn đói nguyên thủy của nó lại hồi sinh với sự thúc bách lấn át tất cả. Và đã xảy ra một điều là các cơ quan cảm giác này bắt đầu trở thành một cái gì đó thật khó tin, đóng vai trò như bộ não cho nó, sự chuyển hóa đó đã kích thích nó một cách cực kỳ. Ngay lập tức nó cảm thấy cái đầm lầy này chứa đầy những mẩu thức ăn ngon lành đang run rẩy - nhiều thức ăn hơn, và thức ăn cũng đa dạng hơn những gì nó đã từng kiếm được dưới đáy biển sâu lạnh lẽo.
Cơn đói hoang sơ, không dứt của nó dường như trở nên không thể chịu đựng nổi. Khối chất nhầy của nó được quét qua bởi một cơn run rẩy hưng phấn lan khắp toàn thân.
Trườn khỏi bãi bùn, nó lướt qua đám cỏ đuôi mèo vào một vùng gần đó gồm những đầm nước sâu có những đám bèo nước giăng ngang. Những thân cỏ dại nhô lên và những thân cây mục nát gãy đổ nửa chìm nửa nổi trong những đầm nước lớn hơn.
Điên cuồng vì cơn đói, nó óc ách trườn vào một đầm lầy, chìa các xúc tu chất lỏng ra xung quanh. Trong vài phút nó đã bắt được mấy con ếch béo mập và rất nhiều con cá nhỏ. Nhưng những mẩu thức ăn bé xíu này chỉ càng kích thích sự phàm ăn của nó. Cơn đói trở thành một cơn thịnh nộ mụ mị. Nó bắt đầu một cuộc săn lùng có hệ thống, nó văng mình như một tấm lưới trùm lên từng cái ao nước và lục lạo một cách nhanh chóng nhưng cẩn thận từng xăngtimét một trên đáy bùn ao. Những con vật đầu tiên mà nó tóm được là những con chuột xạ, dù lớn hay nhỏ cũng không thoát. Một tấm màng chất nhầy dính như keo rất lớn thình lình bung ra khỏi màn đêm, chụp lên chúng - và siết lấy chúng. Chất nhầy trong cơ thể nó trong khoảnh khắc đã phân hủy hoàn toàn nạn nhân, ngay đến xương cũng không còn lại chút gì.
Phấn khích và kích động vì những gì nó tìm được, con thủy quái hăng hái sục sạo các ao đầm nối liền nhau không dứt. Khi nổi lên, nó cẩn thận thăm dò từng bụi cỏ để xem còn có con vật nào thoát khỏi ao nước bò lên đó hay không. Một lần nó vồ được một tổ chim non trong một bụi cỏ bên bờ đầm. Tình cờ nó gặp một thân cây đổ nghiêng vắt ngang đường đi, nó bám lấy cái cây với thân hình nhầy nhớt của nó rồi kéo mình lơ lửng trên không trông như một tấm màn cửa đen sì to tướng bằng bùn đen rủ xuống.
Trong lúc đang tiến đến gần một nơi ít đầm lầy hơn và cây cối mọc dày hơn thì nó dần dần cảm nhận được một sự thay đổi khó nhận thấy trong môi trường mới của nó. Nó ngừng lại, chần chừ, nửa ở trong đầm, nửa thò ra khỏi mặt nước của một cái ao nhỏ nằm gần một bìa rừng cây gần đó.
Mặc dù đã chén được khoảng năm sáu chục kilôgam thức ăn gồm ếch, cá, rắn nước, chuột xạ và một vài con thú nhỏ, cơn đói cồn cào của nó vẫn chưa dịu đi. Sự thèm ăn kinh khủng vẫn thúc giục nó tiếp tục cuộc săn lùng, nhưng có cái gì đó trong bản năng giữ nó nằm lại trong ao.
Cái mà nó cảm thấy nhưng không thể nhìn thấy, là mặt trời ban mai đang bắt đầu trải những tia sáng mờ mờ lên mặt đầm. Con thủy quái chưa bao giờ giáp mặt với bất kỳ một nguồn ánh sáng nào trừ những luồng ánh sáng phốt pho lạnh lẽo của các loài cá sống dưới đáy biển sâu. Nó hoàn toàn không biết đến ánh sáng mặt trời.
Khi ánh nắng bình minh mạnh dần lên, xuyên qua những đám sương mù lảng bảng, con thủy quái nhầy nhớt đen thui mới đến từ đáy biển sâu đen như mực cảm thấy có cái gì đó mà nó hoàn toàn không biết đang ập đến với nó. Ánh sáng có hại đối với nó. Nó phóng ra một xúc tu nhanh như chớp, hy vọng tóm được và bóp nát một tia nắng. Nhưng nó càng cố gắng điên cuồng hơn thì ánh sáng ban mai ghê sợ vây quanh nó lại càng mạnh hơn.
Cuối cùng, khi mặt trời lên cao trên ngọn cây, con thủy quái đang giận dữ vì bị ngăn trở hơn là vì sợ, miễn cưỡng trườn trỏ về cái ao và sục mình trong lớp bùn mềm dưới đáy. Và nó ở lại đó trong khi mặt trời chiếu sáng và những con vật nhỏ của vùng đầm lầy đánh liều tiến vào vì những mục tiêu sinh tồn bí ẩn của chúng.

*

Cách đầm lầy Wharton vài dặm, trong một thị trấn nhỏ của vùng Clinton Center, Henry Hossing ngái ngủ lê bước khỏi cái lều nát bằng những cành cây, nó cho gã một chỗ trú mưa nắng tàm tạm vào ban đêm. Gã loạng choạng bước vào con phố. Lấy tay quẹt ngang cặp mắt ướt nhoẹt, gã gãi gãi hàm râu lởm chởm trên gò má và hấp háy mắt nhìn mặt trời đang mọc. Đêm qua gã ngủ không được ngon giấc lắm, cơn bão biển đánh thức gã dậy trong đêm. Thêm nữa gã phải mang bụng đói đi ngủ, mà chuyện đó thì chẳng bao giờ làm gã vui vẻ được.
Liếc nhìn dọc con phố, gã lừ đừ bước tới, đầu ngả xuống ngực, và hầu hết thời gian gã cắm mắt xuống hè phố hay các rãnh nước với hy vọng nhặt được một đồng xu nào đó của ai đánh rơi.
Thị trấn Clinton Center không tốt bụng cho lắm với gã. Những quầy bố thí thì hiếm hoi, và mới hôm qua thôi gã đã bị một viên cảnh sát địa phương đá đít đòi đuổi gã ra khỏi thị trấn.
Lầm bầm một mình, gã đi đến cuối phố và bắt đầu băng qua ngã tư. Thình lình gã dừng phắt lại và cúi xuống chộp lấy cái gì đó nằm bên vệ vỉa hè.
Đó là một tờ bạc xanh nhàu nát. Và khi gã vội vã vuốt phẳng nó ra thì một vẻ sung sướng kinh ngạc lan ra trên bộ mặt đầy râu nham nhở của gã. Hai mươi đô! Bao nhiêu tháng nay chưa bao giờ gã có nhiều hơn một đô trong túi!
Nhét cẩn thận tờ bạc vào cái túi lành lặn nhất trên chiếc áo khoác xám xơ xác của mình, gã băng qua phố với những bước chân sải dài vội vàng. Thay vì xoi mói các vỉa hè, cặp mắt gã giờ đây nhắm vào các cửa hiệu và tiệm ăn.
Gã dừng bước trước một tiệm ăn, chần chừ, và cuối cùng lại đi tiếp cho đến khi gặp một tiệm khác ít lòe loẹt hơn ở cách đó vài quãng phố.
Khi gã ngồi xuống ghế, ông chủ tiệm liền lắc đầu, “Đi đi, anh bạn. Hôm nay không có cà phê miễn phí đâu”.
Nhăn nhở cười toe, gã lang thang móc tờ bạc mười đô ra và chìa cho ông chủ tiệm xem. “Cái này đã đủ cho một bữa sáng ngon lành ở đây chưa, anh kép!”
Ông chủ tiệm có vẻ bực. “Thôi được. Thôi được. Anh ăn gì?” Ông ta xem xét tờ giấy bạc một cách nghi ngờ.
Henry Hossing gọi nước cam, bánh mì nướng, giăm bông và trứng, cháo bột, dưa tráng miệng và cà phê.
Khi mọi thứ đã dọn ra, gã ăn sạch sẽ mọi thứ, gọi thêm ba ly cà phê, rồi chìa tờ bạc ra để trả tiền cứ y như bữa sáng sáu đô là chuyện ngày thường đối với gã. Rồi gã nhàn nhã trở ra đường.
Quá trưa một tý, sau bữa trưa chín đô, gã nhìn thấy một tiệm rượu. Gã đứng trên vỉa hè phía bên kia nhìn nó vài phút, tay mân mê tờ bạc năm đô còn lại trong túi. Cuối cùng gã băng qua đường với một nụ cười lơ đãng, bước vào tiệm và mua một lít whisky lúa mạch loại nặng cháy cổ.
Gã đứng chần chừ trên vỉa hè, dùng dằng không biết có nên trở về túp lều của gã bên kia thung lũng hay không. Sau một vài phút dấu tranh tư tưởng, gã quyết định không về và thay vì thế đi về phía đầm lầy Wharton. Cảnh sát địa phương còn khuya mới đến quấy rầy gã ở đó, và vì trời quang mây tạnh, thời tiết dễ chịu nên chẳng cần gì đến cái che gió che mưa.
Quẹo khỏi con đường cao tốc chạy vòng quanh đầm lầy cách thành phố vài dặm, gã băng qua một bãi cỏ lầy lội, đi xuyên qua một bụi cây rậm và ngồi xuống dưới một cái cây cho nhựa ngọt nằm ngay bìa rừng rậm.
Vào lúc chiều muộn thì mặt mũi gã đã nóng bừng bừng và gã thoáng có ý nghĩ quay trở về Clinton Center. Dứt mình khỏi cơn mơ màng, gã loạng choạng đi nhặt vài cành cây khô để đốt một đống lửa nhỏ rồi quay trở lại nơi bìa rừng của gã, ngồi xuống dưới gốc cây nhựa ngọt.
Ngay lập tức, gã ngủ thiếp đi như một con ngỗng mệt mỏi, nhưng rồi gã cũng cô tỉnh dậy để đốt đống lửa khi bóng chiều chạng vạng đã ngày càng sẫm hơn trên vùng đầm lầy. Sau đó gã quay lại với cái chai đã cạn. Rồi khi gã đang mơ mơ màng màng bay bổng trong giấc mộng làm giàu huy hoàng thì có cái gì đó thình lình ngắt ngang và kéo gã trở về với mặt đất.
Ngọn lửa bập bùng từ đống lửa của gã bây giờ đã lụi đi, chỉ còn những tàn lửa liu riu kỳ quái đủ chiếu sáng một vùng nhỏ dưới gốc cây nhựa ngọt. Gã không nhìn thấy gì và thoạt đầu cũng không nghe thấy gì, nhưng trong gã vẫn ngập tràn cảm giác về một mối đe dọa thình lình và rõ rệt đang ẩn nấp đâu đây.
Gã đứng dậy, lảo đảo, tựa người vào gốc cây và nhìn chăm chú vào bóng đêm. Trong bóng tối sâu thẳm nằm bên ngoài vầng sáng canh chừng của đống lửa, gã không nhìn thấy được đó là cái gì, cho dù nó có hình dáng hay màu sắc như thế nào.
Rồi gã ngửi thấy một mùi hôi thối kinh khủng mà rùng cả mình. Mặc dù không khí xung quanh vẫn còn nồng nặc mùi rượu whisky rẻ tiền, nhưng cái mùi ghê tởm nọ vẫn át tất cả. Nó hôi thối, khắm lặm, ghê sợ và cực kỳ kinh tởm. Nó hơi giống mùi cá chết thối, nhưng khó mà nói được là nó giống mùi gì mà người ta từng biết.
Đứng run rẩy dưới gốc cây nhựa ngọt, Henry Hossing nghĩ đến một xác chết bị vùi lâu ngày dưới đáy đầm lầy bây giờ mới nổi lên.
Nỗi sợ ngày càng dâng lên, gã nhìn quanh tìm xem còn cành cây khô nào không để cho thêm vào đống lửa đang lụi tàn. Nhưng tất cả những gì gã có thể tìm được là một vài nhánh lá khô. Gã ném chúng vào đống lửa tàn, và ngọn lửa bốc sáng thêm được một chút.
Gã lắng tai và nghe thấy - hay gã tưởng là đã nghe thấy - một thứ tiếng động kỳ quặc như có vật gì đang trượt đi giữa những bụi cây gần đó. Hình như nó lùi lại khi đống lửa bùng lên một chút.
Một nỗi khủng khiếp thực sự xâm chiếm lấy gã. Gã vẫn biết rằng trong tình trạng say khướt như thế này gã không thể nào bỏ chạy được - nhưng lúc này gã đã đi đến một nhận thức khủng khiếp, rằng cái mối đe dọa không thể nói ra được kia đang rình rập trong bóng tối bao bọc xung quanh, chỉ cốt chờ cho ánh sáng từ đống lửa nhỏ của gã lụi đi là lập tức xông vào.
Gã điên cuồng nhìn bốn phía để tìm thêm củi. Nhưng xung quanh chẳng có cành nào. Không có củi, nghĩa là ánh sáng sẽ tắt đi chẳng bao lâu nữa. Nhưng gã không dám liều đi ra xa hơn.
Gã bắt đầu run bắn người lên không kiềm nổi. Gã cố để hét lên nhưng không có âm thanh nào thoát ra từ cái cổ họng đang thắt lại.
Mùi hôi thối kinh khủng kia càng lúc càng nặng hơn, và bây giờ gã tin chắc là đã nghe thấy có tiếng ai đang trườn nhẹ nhàng rất lạ trong bóng tối bên ngoài vầng sáng chiếu ra từ đống lửa.
Gã đứng chết lặng trong cơn hoảng loạn, cảm thấy bất lực tuyệt đối khi ngọn lửa lom dom tắt đi và bóng tối ập xuống.
Vào khoảnh khắc tối hậu, một mẩu than cháy vỡ ra từng mảnh, tóe ra những tia sáng cuối cùng, và trong ánh chớp lóe lên của chúng, gã thoáng thấy con thủy quái.
Nó đã trườn ra khỏi những bụi gai và bây giờ nó đang phóng qua khoảng trống với một tốc độ kinh hoàng. Nó là sự hiện thân cuối cùng của tất cả nỗi sợ hãi, rùng rợn và những cơn ác mộng mà Henry Hossing từng biết đến trong đời gã. Nó là con quỷ từ địa ngục đến để bắt gã.
Tiếng thét khủng khiếp cuối cùng cũng bật ra từ cổ họng gã, nhưng nó bị ngạt đi trước khi kịp kết thúc vì cái áo thụng nhầy nhớt màu đen đã mau lẹ trùm lên người gã với một sức mạnh không thể chống lại được.

*

Gilles Gowse - hay “ông lão” Gowse -nhảy ra khỏi giường sau một đêm trằn trọc và mộng mị toàn những cơn ác mộng. Ông lão vừa than thở vừa pha cà phê trong bếp của căn nhà tồi tàn dột nát ven đầm Wharton. Khoảng nửa đêm, hình như có mùi hôi thối của nước tù phả vào ngôi nhà. Giấc ngủ bị cắt ngang của ông lão đầy những điềm gở, những bóng ma và ác mộng.
Miệng càu nhàu, ông lão ăn nốt bữa sáng, lấy cái xô đựng sữa từ trong chạn và đi ra chuồng bò đằng xa nơi ông lão nhốt con bò cái duy nhất của ông.
Khi ông lão đi đến chuồng bò thì cái mùi kinh tởm lạ lùng đã ám lấy ông suốt đêm qua lại xộc vào mũi.
“Đầm Wharton! Mày chứ còn ai vào đây nữa!”. Ông lão lẩm bẩm. Và dứ nắm đấm về phía cái đầm.
Khi ông lão bước vào chuồng bò thì cái mùi đó lại càng sặc sụa thêm. Nhăn mặt, ông lão sải bước đến cái ngăn chuồng lung lay nơi ông nhốt con bò cái Sarey.
Rồi ông lão đứng sững mắt nhìn lom lom. Con Sarey đã biến mất. Ngăn chuồng trống không.
Ông lão quay ra sân chuồng bò. “Sarey!” ông gọi to.
Chạy trở vào trong chuồng, ông lão kiểm tra lại cái ngăn. Ở đây cái mùi hôi thối như mùi xác chết xông lên nồng nặc, và ông lão nhận thấy có một vệt sáng như lân tinh trên sàn chuồng. Cúi người xuống thấp hơn, ông lão thấy đó là một vệt nhớt phát sáng phủ lên sàn, dường như có con vật nào đó mình phủ đầy bùn đã chui vào rồi chui ra căn chuồng này.
Phát hiện này cùng với việc biến mất khó hiểu của con Sarey là quá đủ đối với hệ thần kinh đang rệu rã của ông lão. Gào to lên, ông lão lao ra khỏi chuồng bò và chạy đến thị trấn Clinton Center cách đó chừng hai dặm.
Cách người ta tiếp đón ông lão tại thị trấn lại làm cho ông giận dữ thêm. Trong khi ông lão cố gắng để kể cho mọi người nghe về sự biến mất của con bò cái Sarey, về cái mùi nước biển và mùi bùn hôi thối nồng nặc trong chuồng bò nhà ông đêm qua, thì họ lại cười vào mặt ông. Tức là những kẻ kém lịch sự hơn. Còn đa số những người khác thì kiên nhẫn nghe ông lão kể lể - rồi sau đó nháy mắt với nhau và xoáy ngón trỏ lên trán một cách đầy ngụ ý khi ông lão vừa đi khuất.
Có một người, tay dược sĩ Jim Jelinson, dường như chăm chú nghe ông. Anh ta nói rằng khi anh ta về nhà bằng lối sân sau tối hôm qua, anh ta nghe thấy có một tiếng thét sợ hãi ở đâu đó từ trong bóng tối đằng xa. Chắc chắn là nó đến từ hướng đầm lầy Wharton, ãnh ta khẳng định thế. Nhưng vì tiếng thét không lặp lại nữa nên rốt cuộc anh ta cho là mình đã tưởng tượng ra.
Trên đường trở về nhà vào lúc chiều tối thì trong lòng ông lão Gowse đã chất đầy những nỗi bực dọc, phẫn uất và cay đắng. Họ cho ông là điên hay sao, hả? Vậy thì, Sarey biến mất; và họ chẳng thể giải thích điều đó bằng cách nào cho nghe được, phải không nào? Họ giải thích cái mùi đó là do lũ cá chết bị con sóng lớn dồn lại và đẩy vào trong đầm lầy trong cơn bão hôm nọ. Được - cứ cho là thế đi. Còn vệt nhớt trên sàn chuồng bò thì họ bảo đó là do lũ sên. Sên! Làm gì có thứ sên nào lại để lại lắm nhớt như thế kia chứ!
Khi về gần đến nhà, ông lão gặp Ruper Barnaby, người láng giềng gần nhà lão nhất. Ruper xách một khẩu súng và anh ta dắt theo con chó săn Jibbe.
Mặc dù đã có chuyện chành chọe giữa hai người hàng xóm từ ít lâu nay, nhưng lần này Barnaby rất ngạc nhiên khi thấy ông lão gật đầu chào và dừng bước.
- Đi săn đêm hả, ông hàng xóm?
Barnaby gật đầu.
- Con Jibbe chắc sẽ bắt được một con gấu trúc Mỹ. Hôm nay trăng muộn nhỉ...
- Con bò cái nhà tôi mất rồi - Ông lão thình lình nói - Nếu anh có nhìn thấy nó... - Lão ngừng lại. - Nhưng tôi không nghĩ anh sẽ...
Barnaby bối rối nhìn ông lão.
- Lão bảo sao cơ?
Ong lão nhắc lại câu chuyện mà ông đã kể suốt ngày hôm nay ở Clinton Center. Rồi lắc lắc cái đầu khi kể xong, ông lão nói thêm:
- Nếu là tôi thì tối nay tôi sẽ không đi săn trong cái đầm đó đâu, dù người ta có trả cho tôi cả ngàn đô một con chuột xạ đi nữa!
Ruper Barnaby ngoảnh mặt đi cười thầm. Anh ta là một người đàn ông cao lớn, vạm vỡ, một anh chàng rất tháo vát và ít tham vọng - chẳng có gì ngay cả khi anh ta mơ mộng đi nữa.
- Lão Gowse này, - Anh ta cười - lão định hù tôi bằng những câu chuyện ma quỷ đó thì chỉ vô ích thôi! Con bò cái của lão chỉ đi lạc và chắc nó đang lang thang đâu đó. Vì sao hả, suốt năm vừa rồi tôi có nhìn thấy con mèo rừng nào ở cái đầm lầy này đâu cơ chứ!
Ông lão Gowse mím chặt môi.
- Có thể, - Ông bảo khi bỏ đi - rồi tối nay anh sẽ nhìn thấy trong cái đầm lầy này có thứ còn tệ hơn cả mèo rừng cho mà coi!
Lắc lắc cái đầu, Barnaby bước theo sau con chó của anh ta đang sốt ruột te tái chạy lên trước. Ông lão Gowse đâm ra dở hơi mất rồi. Thời buổi này mà đi ra ngoài nhà thì phải khóa cửa lại chứ.
Jibbe chạy đằng trước, đánh hơi, lao vọt từ cái rãnh này đến cái rãnh khác. Khi hoàng hôn đã tắt, Barnaby rời khỏi đường cái lớn, rẽ vào con đường mòn ngoằn nghèo dẫn đến đầm Wharton.

*

Barnaby ham đi săn. Anh ta thích chui lủi cả ngày trong các bụi gai còn hơn là ngồi chết dí một chỗ ở nhà trên chiếc ghế nệm êm ái. Và cho dù có mất cả đêm lùng sục mà vẫn ra về tay không thì anh ta cũng chẳng lấy thế làm bực mình. Thực ra anh ta là một tay đi săn giỏi; ít nhất thì một nửa số thức ăn trong năm của anh ta là thỏ rừng, gấu trúc Mỹ, và đôi khi có cả hươu, những thứ mà anh ta săn được trong đầm lầy Wharton.
Vào lúc trăng mọc, anh ta đã tiến sâu vào vùng đầm lầy. Jibbe đã hai lần phát hiện thấy thỏ rừng, nhưng cả hai lần nó đều vội vàng quay lại với vẻ hoảng sợ sao đó.
Có cái gì đó trong hành động của nó bắt đầu làm cho Barnaby lấy làm khó hiểu. Con chó dường như do dự không muốn đi tiếp, nó cứ đeo dính lấy anh chàng thợ săn không rời một bước. Một lần anh ta đã vấp phải nó và suýt nữa thì ngã cắm đầu xuống đất.
Rốt cuộc anh thợ săn dừng lại, nhăn mặt và nhìn về phía trước. Khu đầm trông chẳng có gì khác thường. Thực ra thì có một cái mùi rất khó ngửi lơ lửng trong không khí, nhưng đó chắc là do cơn sóng thần trong cơn bão mới rồi đã sục bùn dưới đáy đầm lên. Có lẽ là rong tảo và xác cá chết tích tụ lại đang thối rữa trong các cái ao.
Barnaby mắng con chó.
- Mày sợ cái gì, hả? Đi tiếp đi! Mày làm tao vấp nữa là tao cho cái đá đấy, nghe chưa!
Con chó lại chạy lên trước một đoạn, nhưng có vẻ rất miễn cưỡng. Nó đánh hơi mấy bụi cỏ một cách đại khái cho xong và hình như không còn thiết tha gì đến chuyện đi săn nữa.
Barnaby giận điên lên. Thậm chí ngay cả khi phát hiện thấy dấu vết của một con gấu trúc Mỹ, còn mới nguyên trên lớp bùn non cạnh một cái ao, mà con Jibbe cũng tỏ ra chẳng mấy quan tâm.
Dầu sao nó cũng chạy ra xa hơn một tý và Barnaby bắt đầu hy vọng nó sẽ trở lại hăng hái như cũ.
Nhưng anh ta đã lầm về chuyện đó. Khi họ tiến vào một vùng có nhiều lùm cây rậm rạp xen lẫn với những bụi gai và những đám cỏ đuôi mèo thì con chó thình lình co rúm người lại, nó nép vào bóng tối và nhất định không chịu nhúc nhích.
Barnaby tin rằng con gấu trúc đã lủi vào một bụi rậm đâu đó gần đây. Nhưng con chó không chịu nghe lời đã làm anh ta nổi điên.
Bị ăn mấy cú đá, con Jibbe miễn cưỡng đứng dậy và bước vài bước về phía trước, lông trên cổ nó dựng đứng cả lên giống như bờm sư tử.
Barnaby vừa chửi thề vừa dấn bước theo con chó tiến vào đám cây rậm tối om.
Mặc dù có trăng nhưng dưới những lùm cây này rất tối. Anh ta bước đi rất thận trọng để tránh thụt chân xuống ao nước.
Thình lình, con Jibbe tru lên một tiếng dường như phát điên vì hoảng loạn và bắn ra khỏi bụi rậm. Nó bỏ chạy, miệng vẫn không ngừng tru lên một cách kỳ quặc.
Lần đầu tiên trong buổi tối hôm đó Barnaby thấy mình run lên vì sợ. Đã bao nhiêu lần đi săn, chưa bao giờ anh ta thấy con Jibbe lại sợ đến mức quắp đuôi lại như thế. Đã có lần nó thậm chí còn đuổi theo cả một con gấu xám khổng lồ.
Chống mắt nhìn vào bóng tối đen ngòm, Barnaby chẳng thấy cái gì cả. Trong các lùm cây cũng không có cặp mắt quái gở nào nhìn anh ta.
Trong khi căng mắt cố nhìn vào bóng tối đang vây quanh mình, anh ta chợt nhớ đến lời cảnh cáo của ông lão Gowse mà cay đắng nhăn mặt. Nếu cái lão ngu ngốc ấy tình cờ biết được con Jibbe bỏ chạy khỏi đầm lầy, thì chắc chắn lão sẽ đem chuyện này ra để chế nhạo anh ta mỗi ngày cho đến lúc chết.
Nghĩ đến chuyện đó anh ta lập tức nổi giận. Thế là anh ta hầm hầm lao tới cùng với cơn thịnh nộ tăm tối nhắm vào cái con vật nào đó đã dọa nạt con chó của anh ta. Một phát súng trúng đích có lẽ sẽ giải quyết được mọi chuyện.
Nhưng ngay lập tức anh ta dừng phắt lại và lắng nghe. Từ trong bóng tối ngay trước mặt anh ta nhận thấy một tiếng động kỳ lạ, dường như có một vật rất lớn đang bò trong đám cỏ đuôi mèo, đồng thời mùi hôi thối đột nhiên trở nên nồng nặc.
Anh ta chần chừ vì không nhìn thấy được đó là cái gì, vừa cố gắng chống lại cái ý muốn bỏ chạy đang dâng lên rất mạnh trong lòng anh ta. Bóng đêm đen ngòm và cái mùi hôi thối của ao tù nơi đây dường như làm anh ta ngạt thở.
Tim anh ta bắt đầu đập thình thịch khi cái tiếng bò trườn sột soạt kia đến gần hơn. Mọi bản năng đều mách bảo anh ta quay người bỏ chạy, nhưng một thứ ương ngạnh bướng bỉnh bẩm sinh gần như liều lĩnh giữ anh ta dứng yên một chỗ.
Tiếng động nghe đã rõ hơn, và thình lình anh ta chắc chắn rằng có cái gì đó chết chóc và kinh khủng đang lao về phía anh ta qua những bụi cây rậm kia với một tốc độ ngày càng nhanh.
Giơ khẩu súng lên, anh ta chĩa về hướng có tiếng động và bóp cò.
Trong ánh lửa lóe lên từ đầu nòng súng, anh ta nhìn thấy một cái gì đó to tướng và sáng lấp lánh, giống như một tấm áo thụng lớn màu đen ngòm trải rộng đang ló ra khỏi những bụi cây ngoài cùng. Nó dường như đang lướt về phía anh ta, và nó chuyển động nhanh nhẹn khủng khiếp.
Anh ta muốn thét lên và bỏ chạy nhưng ngay khi con quái vật lao tới thì anh ta hiểu rằng bỏ chạy lúc này thì cũng vô ích. Vì thế nên dù cho máu như đông cứng lại trong người, anh ta vẫn ghì chặt khẩu súng mà bắn liên hồi.
Những phát súng đó hình như chẳng có tác dụng gì nhiều hơn những viên đá cuội bắn vào đống bùn bằng ná cao su. Vào khoảnh khắc cuối cùng sự can đảm của anh ta như vỡ vụn và anh ta tuyệt vọng tìm cách bỏ chạy. Nhưng tấm áo thụng quái dị kia đã lao đến, nó trùm lên anh ta cùng với một mùi hôi thối lợm mửa và siết chặt lại. Tiếng thét của anh ta lúc này chỉ còn nghe những tiếng ục ục khe khẽ bên trong tấm áo thụng nhầy nhớt đen ngòm đang trùm kín lấy anh ta.

*

Ông lão Gowse thức dậy sớm sau một đêm khó ngủ nữa, ông đi ra chuồng bò để xem xét. Ông lão không thấy có gì không ổn nữa, nhưng vẫn chẳng thấy bóng dáng con Sarey đâu. Và cái mùi hôi thối bốc lên từ hướng đầm lầy Wharton khi có gió thổi vẫn còn nguyên như hôm qua.
Sau khi ăn sáng xong, ông lão ra khỏi nhà đi đến chỗ Rupert Barnaby, cách nhà ông chừng một dặm về phía đường cái. Ông lão cũng không chắc là mình định tìm cái gì nữa.
Khi ông lão đến căn nhà nhỏ nhưng gọn gàng ngăn nắp của Barnaby thì ở đó mọi thứ vẫn yên lặng như tờ. Quá yên lặng. Barnaby thường dậy rất sớm, ngay trước khi mặt trời sắp mọc.
Vì một sự thôi thúc bất ngờ, lão Gowse bước qua cổng và gõ cửa. Ông lão chờ một lúc nhưng không có ai đáp lại. Ông lại gõ, và ngần ngừ một tí, rồi bước khỏi hàng hiên.
Jibbe, con chó săn của Barnaby, đang len lén đi vòng ra sau nhà. Bình thường thì nó sẽ xông ra và sủa. Nhưng hôm nay nó đứng im thin thít - hay cũng gần như thế. Người nó run lên bần bật và nó cứ nhìn chằm chặp vào lão Gowse. Con chó đang sợ hãi, hoảng loạn, và mang vẻ mặt có tội rất xa lạ với nó.
- Chủ mày đâu, Jibbe? - Lão Gowse gọi nó - Kiếm chủ mày về đây!
Thay vì chạy đi, con chó lại gục đầu xuống và phát ra một tiếng tru dài nghe oán, buồn bã rất kỳ lạ.
Lão Gowse rùng mình. Quay đầu lại liếc căn nhà im ắng, ông lão bước ra đi về phía con đường.
Bây giờ thì phải nghe ông, ông đắc thắng nghĩ. Hôm qua họ đã cười nhạo ông về chuyện con bò cái Sarey biến mất. Có lẽ họ sẽ không thể thoải mái mà cười khi ông bảo cho họ biết rằng Barnaby đã đi vào đầm lầy Wharton cùng với con chó Jibbe của anh ta, và con chó trở về có một mình!

*

Khi Cảnh sát trưởng Miles Underbeck nhìn thấy ông lão Gowse bước vào Trụ sở Cảnh sát Clinton Center thì ông ta ngồi phịch xuống ghế mà cau có mặt mày. Sáng nay ông ta rất bận, mà chắc chắn lão Gowse đến đây là để căn vặn về chuyện con bò cái đi lạc trời đánh của ông lão.
Thế nhưng cái ông lão lẩm cẩm ấy lại có câu chuyện mới và giật gân hơn. Ông lão tuyên bố rằng Ruper Barnaby đã biến mất. Tối hôm qua anh ta đã đi vào vùng đầm lầy và không thấy trở về, ông lão khăng khăng như vậy.
Nhưng khi Cảnh sát trưởng Underbeck tra hỏi cặn kẽ hơn, thì ông lão Gowse phải thừa nhận ông không thể nói chắc Barnaby có trở về hay không. Rất có thể là anh ta đã về nhà từ lúc sáng sớm và rồi lại đi trước khi ông lão đến.
Nhưng ông lão nhìn chằm chặp vào ông Cảnh sát trưởng bằng cặp mắt sáng rực và lắc lắc cái đầu.
- Anh ta sẽ không trở về được nữa đâu, tôi cá với anh đấy! Con chó đó nó biết rõ! Nó tru lên, giống như loài chó vẫn tru khi có người chết. Con vật đã bắt Sarey tối hôm trước, nó cũng đã tóm được Barnaby trong đầm lầy tối hôm qua rồi!
Sếp Underbeck không phải típ người dễ bị kích động. Những lời lẽ thống thiết tuôn trào của lão Gowse làm cho ông ta phát cáu nhưng cũng chẳng gây được ấn tượng gì.
Ông ta cộc cằn hứa sẽ xem xét vấn đề nếu tối nay Barnaby không trở về. Ông tuyên bố, Barnaby biết rành cái đầm này hơn bất kỳ ai trong quận. Và anh ta hoàn toàn có khả năng để tự bảo vệ bản thân mình. Có lẽ, ông Cảnh sát trưởng giả thiết, anh ta đã ra lệnh cho con chó trông nhà còn mình thì đi đâu đó sau khi đã đi săn về vào tối hôm trước. Cứ chờ thêm một chút là nhiều khả năng anh ta sẽ xuất hiện.
Ông lão Gowse lắc đầu với cái vẻ của kẻ hoài nghi thâm căn cố đế. Khăng khăng rằng thực tế sẽ chứng minh cho nỗi lo sợ của ông, ông lão càu nhàu lê bước ra khỏi đồn cảnh sát.
Ngày hôm đó qua đi mà chẳng có dấu hiệu gì của Barnaby. Vào lúc sáu giờ chiều, ông lão Gowse quả quyết tiến thẳng vào khách sạn Crown, cái khách sạn hai sao độc nhất của Clinton Center, để đăng ký một phòng, ông lão không dám về nhà. Vào lúc bảy giờ, ông Cảnh sát trưởng cử một chiếc xe tuần tra đến nhà của Barnaby. Ông ta sốt ruột chờ nó trở về, ngón tay gõ liên tục vào mặt bàn, hay xếp tới xếp lui một cách lơ đãng đống hồ sơ chất đống, ở đó suốt cả ngày.
Chiếc xe tuần tra quay về trước tám giờ tối một tý. Trung sĩ Grimes báo cáo.
- Chẳng có ai cả, thưa sếp. Nhà khóa chặt. Chúng tôi đã tìm kiếm. Nhưng chỉ thấy có con chó của Barnaby. Nó tru lên và bỏ chạy cứ như bị ma đuổi vậy!
Sếp Underbeck bối rối. Nếu Barnaby mất tích thật, thì nên bắt đầu cuộc tìm kiếm ngay lập tức. Nhưng lúc này trời đã tối rồi mà nhiều vùng trong đầm lầy Wharton thì ngay giữa ban ngày cũng không ai có thể đi qua được. Ngoài ra cũng không có gì đảm bảo là Barnaby không đi thăm ai đó, ở gần Stantonville chẳng hạn, để tán gẫu với bạn và ở lại qua đêm.
Vào lúc chín giờ ông ta quyết định hoãn mọi hành động lại cho đến sáng mai. Một cuộc tìm kiếm ngay bây giờ dù thế nào cũng sẽ là vô ích. Trong đầm lầy có quá nhiều chướng ngại. Nếu sáng mai mà Barnaby không quay về, và không có báo cáo nhìn thấy anh ta ở đâu cả, thì một cuộc truy tìm trong đầm lầy sẽ có thể bắt đầu.
Không lâu sau khi ông ta đi đến quyết định này, khi ông ta đang sửa soạn quần áo để về nhà, thì xảy ra một sự kiện mới, đáng báo động thật sự.
Ngay trước chín giờ tối, một chiếc xe thắng gấp bên ngoài đồn cảnh sát. Một ông lớn tuổi vội vàng chạy vào, tay dìu một cô gái trẻ đang hoảng loạn sụt sùi. Váy áo và tất của cô ta rách bươm, trên mặt có nhiều vết cào.
Sau khi đỡ cô ta ngồi xuống ghế người đàn ông quay về phía Cảnh sát trưởng Underbeck và các nhân viên cảnh sát đang xúm lại xung quanh.
- Tôi nhặt cô ta ở trên xa lộ gần đầm Wharton. Cô ta gào vỡ cả phổi! - Ông ta xoa trán - Cô ta chạy như ma đuổi ngay trước mũi xe tôi. Suýt nữa thì tôi cán phải. Cô ta sợ phát điên lên nên tôi chẳng thể hiểu cô ta nói cái gì. Hình như có ai bắt cóc bạn trai cô ta lôi vào mấy bụi cây ở đó. Mãi tôi mới lôi được cô ta vào xe và tôi phóng bạt mạng đến đây.
Cảnh sát trưởng Underbeck xoi mói quan sát người đàn ông. Ông ta rõ ràng là đang bàng hoàng sửng sốt, và không che giấu điều gì nên ông Cảnh sát trưởng lại quay về phía cô gái.
Ông ta cố nói thật dịu dàng để trấn an cô ta, và cuối cùng cô ta cũng lấy lại được can đảm để kể cho ông ta nghe câu chuyện của mình.
Cô ta tên là Dolores Rell và cô sống ở ngoại ô Stantonville. Lúc sẩm tối cô lái xe đi cùng anh chồng chưa cưới là Jason Bukmeist sống Ở Clinton Center. Khi Jason lái xe trên đoạn xa lộ sát vùng đầm lầy Wharton, cô ta nói cảnh đầm lầy trông rất thơ mộng trong đêm sáng trăng. Jason liền dừng xe lại, và sau khi họ quan sát cảnh tượng đó trong vài phút thì anh ta bảo vì tối nay trời ấm nên “đi dạo dưới ánh trăng” sẽ rất thú vị.
Dolores lưỡng lự không muốn rời khỏi xe nhưng cuối cùng cô cũng miễn cưỡng đi dạo một đoạn ngắn dọc bờ đầm lầy, nơi đất dưới chân còn khá cứng.
Khi cặp tình nhân đang đi dưới tán những hàng cây, cách chiếc xe chừng 15 mét, thì Dolores ngửi thấy một mùi hôi thối rất khó chịu và cô ta muốn quay về xe. Nhưng Jason bảo cô chỉ là mùi đầm lầy thôi chứ có gì đâu và cứ khăng khăng đòi đi tiếp. Vì cây mọc rất sát nhau, nên họ đi thành hàng dọc, Jason đi trước.
Thình lình, cô kể, cả hai nghe thấy có cái gì đó đang bò sột soạt qua các bụi cây phía trước họ. Jason bảo cô đừng sợ, rằng có lẽ đó là con bò của ai đó đi lạc. Nhưng khi đến gần hơn thì hình như nó đang lao đến với tốc độ nhanh khủng khiếp. Và tiếng động của nó cũng không giống như tiếng bước chân của con bò.
Vào giây cuối cùng Jason quay vụt lại và thét lên sợ hãi, kêu cô chạy đi. Trước khi kịp chạy cô còn nhìn thấy một vật gì đó đen ngòm, khổng lồ đang lao đi dưới lùm cây trong ánh trăng mờ mờ. Trong một thoáng, cô ta đứng như trời trồng vì kinh hoàng; rồi cô ta quay lưng bỏ chạy. Cô ta nghĩ là đã nghe thấy tiếng Jason chạy đằng sau cô. Cô ta không chắc lắm. Nhưng ngay sau đó cô nghe thấy tiếng anh thét lên.
Dù kinh hoàng nhưng cô vẫn cố quay lại nhìn về phía sau.
Kể đến đây, cô ta lại bắt đầu lên cơn nức nở, phải vài phút sau cô mới có thể tiếp tục.
Cô ta không thể miêu tả chính xác cái mà cô đã trông thấy khi ngoảnh đầu nhìn lại. Cái vật mà cô thoáng thấy đang lao ra dưới hàng cây trước đó đã đuổi kịp Jason. Nó gần như trùm lên anh ta. Tất cả những gì mà cô ta có thể nhìn thấy là bộ mặt đau đớn và một phần cánh tay của anh ta, gần sát mặt đất, dường như cái vật đó đang ngồi đè lên anh ta vậy. Cô không thể bảo vật đó là cái gì. Nó có màu đen, không ra hình thù gì, như một con thú mà cũng không giống hẳn là con thú Nó có vẻ như một thứ quái vật bò sát khủng khiếp không thể tả được, thứ quái vật từng làm cô rùng mình kinh sợ hồi cô còn bé phải ở một mình trong bóng tối của phòng nuôi trẻ.
Lúc này cô ta rùng mình và lấy tay che mặt khi cô cố mô tả lại cái vật mà cô nhìn thấy.
- Ôi, Chúa ơi! Một bóng đen còn sống! Một bóng đen còn sống!
Bằng cách nào không rõ, cô ta kể tiếp, cô ta lấp vấp chạy qua các bụi cây và lên đến mặt dường. Cô ta kinh hoàng đến nỗi hầu như không nhận thấy chiếc ô tô đang lao đến.
Không nghi ngờ gì là Dolores đang bị một nỗi kinh hoàng thực sự chế ngự. Cảnh sát trưởng Underbeck tỏ ra rất sốt sắng. Sau khi cô gái với khuôn mặt tái nhợt được đưa đến bệnh viện gần đó để băng bó các vết trầy xước và làm dịu thần kinh, Underbeck tập hợp tất cả các cảnh sát có mặt, trang bị cho họ súng ngắn, súng trường và đèn pha, ông ta lùa họ lên bốn chiếc xe tuần tra và nhắm hướng đầm lầy Wharton lên đường.
Chiếc xe của Jason được tìm thấy tại nơi anh ta dừng xe. Nó không hề hấn gì cả. Một cuộc lục soát khu vực đầm lầy quanh đó dưới ánh đèn pha không mang lại kết quả gì hết. Cái vật tấn công Jason có lẽ đã lôi anh ta vào một góc hẻo lánh xa tít giữa những ao hồ la liệt trong kia.
Sau hai giờ chà sát các bụi rậm và sục bùn loãng dưới ao hồ mà không có kết quả, Cảnh sát trưởng Underbeck mệt mỏi thu quân và lui cuộc săn lùng lại đến sáng.
Khi những tia nắng bình minh nhợt nhạt đầu tiên xuất hiện trên bầu trời của đầm lầy Wharton, cuộc lùng sục lại bắt đầu. Lực lượng tăng cường gồm những thường dân tình nguyện từ Clinton Center đã đến. Và một cuộc rà soát kỹ lưỡng toàn bộ vùng đầm lầy Wharton bắt đầu mở màn.
Đến giữa trưa, việc tìm kiếm vẫn không đem lại kết quả gì - hay cũng gần như vậy. Một trong những người lùng sục mang đến cái mũ chơi bóng chày và một chai rượu whisky lúa mạch mà anh ta tìm thấy dưới gốc cây nhựa ngọt. Cái mũ bằng nỉ không ra hình thù gì đã cũ và sờn rách, nhưng nó vẫn khô nguyên. Điều đó chứng tỏ rằng nó bị vứt trong đầm lầy sau cơn bão mấy ngày trước. Chai whisky trông còn rất mới thậm chí trong chai vẫn còn sót lại vài giọt rượu. Người tìm thấy nó báo cáo lại rằng dưới gốc cây nhựa ngọt còn có một đống lửa nhỏ đã tắt.
Hy vọng rằng những chứng cớ này có lẽ sẽ mang lại lời giải thích cho sự biến mất của Jason, Cảnh sát trưởng Underbeck ra lệnh tập họp tất cả các chủ tiệm rượu ở Clinton Center lại, nhằm truy cho ra tên của những người mới đây đã mua một chai rượu Whisky lúa mạch như cái chai đã tìm thấy dưới gốc cây.
Cuộc tìm kiếm lại tiếp tục, và đến giữa buổi chiều thì người ta lại có một phát hiện khác đáng ngại hơn. Một người lùng sục sốt sắng, trong khi sục sạo một vùng đất bị giẫm nát giữa một đám cỏ đuôi mèo mọc cao, đã lôi lên được từ dưới bùn một cây súng.
Sau khi chùi sạch các vệt nhớt và bùn bần bám quanh, hai người tìm kiếm đã xác nhận rằng đó là khẩu súng của Barnaby. Một người đã từng đi săn với Barnaby còn nhớ rõ cái vết khắc trên báng khẩu súng của anh ta.
Trong khi Cảnh sát trưởng Underbeck còn đang cân nhắc cẩn thận cái thông tin không mấy dễ chịu này, thì đã có thêm tin tức đến từ cuộc thẩm vấn các chủ tiệm rượu ở Clinton Center. Tất cả những ai mới đây từng mua rượu whisky lúa mạch đóng trong chai một lít như cái chai được tìm thấy đều bị thẩm vấn. Chỉ duy nhất một người còn chưa xác định được - đó là một gã lang thang từng lượn lờ quanh thị trấn này mấy ngày trước đây và đã được lệnh phải cút xéo.
Đến tối thì có một cuộc họp nhằm xem xét kỹ lưỡng mọi yếu tố đã thu thập được, nó cho phép người ta kết luận rằng gã lang thang đó, trong cơn cuồng loạn sẵn sàng giết người do say rượu quá độ, có thể đã giết cả Barnaby và Jason rồi vùi xác họ dưới một trong những chiếc ao sâu có vô số trong đầm lầy. Rất có thể tên giết người vì say quắc cần câu vẫn còn đang ngủ vùi đâu đó trong những đám bụi gai rối bời trong vùng đầm lầy.
Hầu hết các nhân viên điều tra đều coi câu chuyện ly kỳ của Dolores là sản phẩm của một đầu óc hoảng loạn. Dưới ánh trăng lờ mờ, họ phân tích, một gã lang thang điên khùng cặp mắt dại đi có ý muốn giết người rất có thể bị nhận lầm như một con quái vật. Thêm nữa, trong cơn hoảng loan cô gái rất có thể đã phóng đại quá đáng những gì cô ta nhìn thấy.
Và khi màn đêm đã trùm xuống trên bãi lầy tăm tối ảm đạm thì Cảnh sát trưởng Underbeck miễn cưỡng đình chỉ cuộc săn lùng. Tuy vậy, vì xét đến khả năng kẻ sát nhân có thể vẫn còn ẩn nấp trong rừng cây, nên ông ta quyết định thiết lập một hệ thông tuần tra suốt đêm dọc theo đoạn xa lộ chạy ngang qua đầm lầy. Nếu kẻ bị truy nã thực sự ẩn nấp trong đám bụi cây phản phúc kia, thì hắn không thể nào đào thoát theo xa lộ mà không bị một trong những tổ tuần tra này phát hiện. Một lối thoát duy nhất khác là băng qua vài dặm bãi lầy đầy lau lách nối đầm lầy với biển. Mà xem ra kẻ chạy trốn khó có thể tính đến chuyện đào thoát theo ngả này.
Các tổ tuần tra được quy định mỗi phiên ba giờ, cứ hai người một tổ, được trang bị đầy đủ vũ khí và đèn pha cực mạnh. Họ được lệnh tìm hiểu từng tiếng động, từng chuyển động mà họ nghe thấy hay nhìn thấy trong đám bụi rậm ven xa lộ. Sau khi hô to một lần “đứng lại” là họ có quyền bắn hạ kẻ tình nghi. Những người đi ô tô hiếu kỳ dừng lại trên xa lộ để hỏi xem người ta đang lùng sục ai đều bị vẫy tay mời đi chỗ khác chơi, sau khi được cảnh cáo không nên cho ai đi nhờ và phải báo cáo cho cảnh sát mọi vụ cho đi nhờ.

*

Fred Storr và Luke Matson trong phiên trực từ nửa đêm đến ba giờ sáng đã trải qua hơn hai tiếng đồng hồ mà không có chuyện gì xảy ra trên tuyến đi tuần của họ. Cuối cùng Luke Matson ngồi xuống một thân cây đổ ngang nằm cách vệ đường vài mét.
- Nghỉ chân tí đã, mỏi quá - Anh ta nhăn nhó, tựa cây súng vào gốc cây - Chỉ vài phút thôi.
Fred cà rà bên cạnh.
- Tớ cũng nghĩ thế, Luke ạ. Cậu có thấy - Thình lình anh ta cau mặt nhìn về phía mép đầm lầy - Cậu có nghe thấy gì không, Luke?
Luke lắng nghe, xoay người một vòng trên thân cây.
- Ừ, có lẽ. Nghe như tiếng lạo xạo đâu đó.
Anh ta đứng dậy, nhấc khẩu súng lên
- Cố nhìn xem. - Fred thì thào bảo Luke.
Anh ta bước qua thân cây và Luke đi theo dò dẫm tiến về phía các bụi cây rậm tạo thành đường biên của đầm lầy.
Cách những bụi cây rậm chừng hai ba chục mét họ lại dừng lại. Tiếng động đã rõ hơn. Nghe như tiếng vật gì đang trườn sột soạt, như có một con vật lớn nào đó đang kéo lê mình trên mặt đất mấp mô.
- Hình như một... con rắn - Luke đánh bạo nói - Một con rắn to tổ bố!
- Ta đến gần tí nữa đi. - Fred thì thào.
- Cậu giữ súng sẵn sàng nhé, còn tớ sẽ bật đèn!
Họ tiến tới thêm vài mét. Rồi một luồng ánh sáng vàng rực chiếu thẳng vào bụi cây rậm đằng trước khi Fred bật cây đèn của anh ta lên. Luồng sáng xuyên qua màn đêm, chiếu từ hướng này rồi sang hướng khác.
Luke cau mày hạ thấp đầu súng xuống.
- Chẳng thấy gì cả. Chẳng có gì ngoài cái lớp váng to đen thui kia.
Trước khi Fred kịp đáp lại thì cái lớp váng đen thui đó bỗng dựng một bên lên và trở thành một sinh vật sống kinh tởm. Trong một khoảnh khắc, nó co mình lại thành một cái ụ to, rồi nhô cao lên trông như một cái áo thụng đen lấp loáng thật khó tả. Thình lình nó thụp xuống thành một khối tròn rồi lao về phía trước với tốc độ nhanh khó tả.
Luke thét lên và bắn liên hồi khi cái vật quái gở đó lao như tên bắn về phía họ. Chỉ trong một tích tắc nó đã chồm lên người anh ta. Anh ta lại bắn, nhưng cái vật đó đã trùm kín lấy thân hình anh ta trong một đám nhầy nhớt đặc quánh và hôi thối đến nghẹt thở.
Fred thì đã ba chân bốn cẳng bỏ chạy ngay khi con quái vật lao đến. Anh ta ngã cắm đầu xuống, rồi chồm dậy vừa đúng lúc để chứng kiến một cảnh tượng làm máu trong người anh ta như ngừng chảy.
Con quái vật đã chồm lên Luke. Fred kinh hoàng chứng kiến sự việc đang diễn ra: con quái vật như rơi xuống đầu Luke nghe “bộp” một tiếng, còn anh chàng bất hạnh thét lên trong một nỗi khủng khiếp cùng cực. Rồi từ trên đầu anh ta, cái khối đen ngồm hôi thối đó trong chớp mắt đã chảy tràn xuống người Luke. Tiếng thét tắt nghẹn nửa chừng. Nó lựa theo thân hình Luke mà chảy xuống cho đến khi bao kín hoàn toàn anh ta trong một lớp nhầy nhớt đen thui. Có thể nhận thấy thân hình anh ta dang quằn quại đau đớn bên trong cái áo thụng đen ghê rợn kia. Rồi tiếp theo là một cảnh tượng còn rùng rợn hơn: cái khối đen thui đó đột ngột co rút lại, có tiếng kêu rào rạo bên trong, rồi nó lại phồng lên như một cái bao tải lồi lõm đang quằn quại. Một vài giây trôi qua, rồi nó đổ xuống mặt đất và thân hình nó lại trải ra như một lớp váng dầy nhầy nhụa hôi thối hơi nhô lên ở giữa, những chuyển động quằn quại cũng chấm dứt. Trong khoảnh khắc, nó lại nhổm lên như để chuẩn bị lao tới con mồi còn lại.
Ngay khi cái vật đó nhổm lên, thì nỗi sợ hãi điên cuồng đã kích thích Fred, giúp anh ta thoát khỏi tình trạng mụ mị bất động vì kinh hoàng. Chộp lấy khẩu súng rơi bên cạnh, anh ta nhằm vào cái khối nhầy nhụa đặc quánh đó mà nã đạn liên hồi. Nhưng anh ta lại càng kinh hoàng hơn khi nhận thấy những phát súng đó cũng giống như bắn vào đống bùn, chẳng có tác dụng gì hết ngoài việc để lại mấy vết như vết bùn tóe lên trên cái khối nhầy nhớt kinh tởm kia. Cái vật đó lại lao tới anh ta.
Hành động theo một thứ bản năng nào đó mà anh ta không thể gọi tên ra được, Fred quăng khẩu súng vào con vật và chộp lấy cây đèn pha. Và trong khi con vật đang mải vồ lấy khẩu súng thì anh ta đã bật công tắc đèn, chiếu luồng sáng cực mạnh của cây đèn vào cái vật đang lao tới.
Nó lập tức dừng lại, chỉ cách vài bước chân, và lộ vẻ chần chừ. Rồi thoắt cái nó trườn sang một bên để tránh luồng ánh sáng, nhưng ngay lập tức anh ta xoay cây đèn bám theo. Cuối cùng cái vật đó lùi lại và nằm ẹp xuống mặt đất như một tấm áo mưa to tướng đen thui, nó làm thế dường như để tránh luồng ánh sáng. Nhưng Fred vẫn giữ nguyên luồng ánh sáng chiếu vào nó, anh ta cảm thấy trong từng đường gân thớ thịt rằng luồng ánh sáng màu vàng chói này là cái duy nhất cứu được anh ta khỏi cái chết thê thảm mười mươi.
Lúc này đã nghe thấy nhiều tiếng gọi và nhiều luồng ánh sáng khác nữa cắt vào bóng tối. Tiếng súng nổ trong đêm tối đã kéo những toán tuần tra khác đến đây.
Thình lình con quái vật vô danh vặn vẹo thân hình để thoát khỏi luồng ánh sáng và băng mình biến vào trong bóng đêm.

*

Trong ánh sáng xám xịt của buổi bình minh, Cảnh sát trưởng Underbeck leo lên chiếc xe cảnh sát đang chờ trên xa lộ gần đầm lầy Wharton và quay trở về Clinton Center. Ông ta đã có một quyết định và ông nhất định phải thi hành nó ngay lập tức.
Khi đến Trụ sở Cảnh sát ông ta gọi hai cú điện thoại khẩn cấp, một cho ông Thống đốc bang và một cho viên chỉ huy của Căn cứ quân sự Camp Evans gần đó.
Không thể đối phó với con quái vật trong đầm lầy Wharton bằng lực lượng có hạn của mình được - ông ta kết luận như vậy.
Ruper Barnaby, Jason Bukmeist và Luke Matson không nghi ngờ gì nữa đã bỏ mạng trong đầm lầy này rồi. Và gã lang thang vô danh, bây giờ đã rõ là không phải kẻ giết người, chắc chắn là một nạn nhân nữa. Còn Fred Storr - hừ, anh ta không mất tích. Nhưng các cảnh sát tuần tra đã tìm thấy anh ta ngồi trên mặt đất gần mép đầm lầy, hoảng loạn đến mức gần như ngớ ngẩn. Đã mấy tiếng đồng hồ sau khi được đưa về nhà và đặt lên giường nhưng anh ta vẫn ôm khư khư cây đèn pin cảnh sát và nhất định không rời tay khỏi cái nút bấm trên cây đèn. Khi người ta tắt nó đi thì anh ta gào lên, nên họ đành phải bật nó trở lại. Câu chuyện của anh ta nghe quá đỗi hoang đường đến nỗi một người có đầu óc bình thường khó mà có thể chấp nhận được. Thêm nữa, chúng rất giống với câu chuyện trong cơn động kinh của Dolores Rell. Nhưng Fred không phải là một cô gái trẻ dễ bị kích động; anh ta vốn có tiếng là lỳ lợm, rắn như đanh và rất thật thà, một đức tính vẫn bị coi thường hơn là thói huênh hoang khoác lác. Khi Cảnh sát trưởng Underbeck đứng lên để quay lại đầm lầy Wharton thì ông ta nhận thấy ông lão Gowse đang đứng bên hè đường.
Thình lình ông ta sởn cả gai ốc lên khi nhớ đến con bò cái mất tích của ông lão dở người kia. Trước khi ông lão kịp đến nơi, ông ta đã sập mạnh cửa xe và cộc lốc ra lệnh cho anh lái xe đang chờ. Khi chiếc xe vọt đi, ông ta liếc nhìn vào kính chiếu hậu. Ông lão Gowse đứng im bất động trên vỉa hè trước cổng Trụ sở Cảnh sát.
“Lão già lắm chuyện”, ông ta lẩm bẩm. Anh lái xe liếc nhìn ông sếp và nhấn thêm ga.
Chưa đầy hai giờ sau khi Cảnh sát trưởng quay lại đầm lầy Wharton, trên xa lộ cạnh đầm lầy đã đậu đầy xe - xe tuần tiễu của cảnh sát, xe của những người dân địa phương tò mò và xe tải của Căn cứ quân sự.
Đến chín giờ thì hơn ba trăm người gồm binh lính, cảnh sát và những người tình nguyện, tất cả đều được vũ trang, đồng loạt tiến vào trong đầm để bắt đầu một cuộc lục soát kỹ lưỡng.
Quá trưa thì phần lớn trong số đó đã tới được bờ biển ở phía bên kia đầm lầy. Những nỗ lực đủ kiểu của họ chẳng đem lại kết quả gì. Một người lính phát hiện được một cặp mắt dữ tợn đang theo dõi anh ta trong lùm cây rậm, anh ta lập tức bắn hạ và rồi nhặt được một con cú lớn. Một cảnh sát suýt nữa thì bị một con linh miêu cào rách mặt. Một người khác giẫm phải con rắn chuông và phải đi cấp cứu vì bị rắn cắn. Nhưng không hề có bất kỳ một dấu hiệu nào về một con quái vật, một gã sát nhân lang thang, hay bất kỳ ai trong số những người bị mất tích.
Cảnh sát trưởng Underbeck đứng im lìm với vẻ mặt rầu rĩ ủ dột. Khi đã rõ là theo tất cả những thông tin mà họ biết được cho đến giờ thì tên giết người chỉ rình mò các nạn nhân vào ban đêm, ông ta bên ra lệnh cho mọi người nghỉ ngơi và ăn uống trong bốn tiếng đồng hồ rồi sẽ tiếp tục cuộc tìm kiếm.
Một vài chiếc trực thăng đã quần đảo trên vùng đầm lầy suốt buổi chiều giờ đậu xuống bên bờ biển, mang thức ăn và đồ tiếp tế cho đội quân dưới đất. Theo sự nài nỉ của Underbeck, một dãy hàng rào dây thép gai được dựng lên dọc theo bãi biển. Các trạm gác được thiết lập dọc theo xa lộ, người ta lắp đặt các đèn pha cực mạnh ở mỗi trạm gác. Những xe tải từ căn cứ quân sự chở đến súng máy và một số súng phun lửa.
Đến mười một giờ đêm cuộc tấn công lại tái diễn. Các hàng rào đã được dựng lên, lính gác được bố trí, những luồng ánh sáng cực mạnh từ phía xa lộ chiếu thẳng vào đầm lầy.
Đến mười một giờ mười lăm, các nhóm lùng sục, mỗi nhóm mười người vũ trang đến tận răng, bắt đầu tiến vào đầm lầy.

*

Nổi khùng lên vì cơn đói, con thủy quái rời khỏi lớp bùn dưới đáy cái hồ tù hôi thối và ngoi lên mặt nước. Phóng lên bờ hồ trong bóng đêm, nó lướt đi rất nhanh trên các bụi cỏ rải rác trong vùng đầm lầy. Như thường lệ, nó đang bị thúc dục bởi cơn đói hoang dã và tàn bạo.
Mặc dù việc săn mồi trong môi trường mới của nó rất thành công, nhưng sự phàm ăn của nó dường như không hề giảm đi. Nó càng ăn nhiều thì lại càng muốn ăn thêm nữa.
Khi nó đang nổi giận, sục sạo tìm những xung động nhỏ nhất báo hiệu có thức ăn, thì nó bắt đầu ý thức về sự có mặt của những kẻ phá đám. Mặc dù đang là khoảng thời gian của đêm tối trong cái thế giới xa lạ này, nhưng bóng tối trong thời điểm đi săn của nó hôm nay bị chọc thủng một cách kỳ quặc bởi những kẻ thù mà con thủy quái này ghét nhất - những luồng ánh sáng. Những xung động của thức ăn lúc này mạnh hơn hẳn so với những gì mà nó từng biết. Chúng hiện diện ở khắp nơi, rất mạnh, rất rõ rệt, chúng đang chuyển động theo đủ mọi hướng, xuyên qua những tầng thấp hơn của bóng tối bí ẩn đang bị cắt xé bởi những luồng ánh sáng kia.
Nhấc mình khỏi mặt bùn, con thủy quái bám vào một thân cây nghiêng ngả cạnh đầm lầy và treo mình bất động ở đó, nước bùn cứ chảy xuống dọc theo bề mặt phát sáng trên thân hình nó và nhỏ giọt xuống đất. Những cơ quan cảm giác của con vật báo cho nó biết những luồng sáng đáng ghét kia hiện diện ở khắp mọi nơi.
Và thậm chí khi nó đang treo mình lơ lửng trên thân cây giống như một tấm thảm lớn bẩn thỉu nhớt nhát, thì một luồng sáng nóng bỏng đã xé rách bóng tối bao quanh và chiếu thẳng vào nó.
Ngay lập tức nó buông mình khỏi thân cây, rơi xuống đám bùn kêu đánh bộp một tiếng khá to. Cường độ của những xung động gần đó thình lình mạnh lên dữ dội. Những luồng ánh sáng điên khùng chiếu xuyên màn đêm từ khắp mọi phía đổ về nơi vừa phát ra tiếng động.
Nổi giận vì bị ngăn trở, sinh vật nọ phóng mình xuống đầm và lao về phía bờ bên kia.
Nhưng điều đó chỉ có tác dụng trì hoãn tạm thời. Những xung động tăng lên rất mạnh. Bóng tối hầu như biến mất, bị cắt vụn và xé toang bởi những luồng sáng chiếu từ khắp mọi nơi.
Lần đầu tiên trong cuộc sống kéo dài từ thủa hồng hoang của nó, sinh vật này trải qua một thứ cảm giác mù mờ giống như sợ hãi. Nó không thể tóm được ánh sáng, không thể nghiền nát hay làm cho nó chết ngạt. Đó là một kẻ thù xa lạ mà để chống lại nó, con thủy quái này chỉ biết có mỗi một cách là bỏ chạy, trốn đi.
Và bây giờ khi cái thế giới bóng đêm của nó bị xé toạc ra thành từng mảnh bởi vô số những luồng ánh sáng từ khắp nơi đổ đến, con thủy quái theo bản năng tìm kiếm chỗ ẩn náu ở cái nôi đen ngòm khổng lồ, nơi mà từ đó nó đã đến đây.
Lao mình qua khu đầm, nó hướng về phía biển cả.
Những người lính gác tại các trạm gác dọc bờ biển được báo động bởi tiếng súng và những tiếng la hét thúc giục từ phía trong đầm lầy, họ vội đứng dậy hay quỳ gối với vũ khí sẵn sàng khi tiếng động ầm ỹ lan nhanh đến bờ biển.
Bờ biển đầy lau lách ảm đạm nằm nhô hẳn ra dưới ánh đèn pha gay gắt. Những con sóng lao vào bờ đá, làm tung tóe những bọt nước trắng lên bờ cát. Dưới ánh sáng đèn pha, làn nước đen ngòm phát ra những tia sáng nhiều màu sắc.
Tiếng gào thét vang lên đinh tai nhức óc. Những người đứng theo dõi căng thẳng chờ đợi. Thình lình, dọc theo những vạt đất phẳng ảm đạm chạy dài với những lùm cây rậm và những hố trũng rải rác, vọt ra một hình thù kỳ quái làm cho những người đứng canh dường như hóa đá.
Một sinh vật giống như mật khối nhầy nhụa đen thui, không ra hình thù gì, không giống một sinh vật nào từng được biết trên trái đất, nó lao qua các bụi gai rậm rì và tiến vào vùng đất bằng phẳng. Nó là một khối đen thui thui, thoắt cái lại biến thành một tấm áo thụng lớn, tiếp theo thành một thứ như con sên nước lầy nhầy khổng lồ, nó lướt về phía trước với một tốc độ chóng mặt.
Một số lính gác đứng chôn chân một chỗ, vì quá kinh hãi không kéo nổi cò súng. Những người khác vượt qua được cơn sợ hãi và bắt đầu bắn. Đạn từ hàng chục khẩu súng vãi vào con quái vật màu đen đang phóng qua bãi bùn bằng phẳng.
Khi cái sinh vật đó gần chạm đến cuối bãi bằng và tiến tới đụn cát đầu tiên trên đường ra biển thì những người lính gác đuổi nó khỏi đầm lầy đã cắt ngang đường đi của nó.
Một người trong số họ dừng lại, gào lên với những người gác ở bờ biển. “Nó chạy về phía biển! Vì Chúa, đừng để nó thoát!”
Những lính gác bờ biển lại càng nổ súng mạnh hơn, rồi thình lình họ hoảng sợ mà nhận ra rằng con quái vật này dường như chẳng hề hấn gì với những tràng đạn của họ cả. Không hề giảm tốc độ, nó xuyên qua bụi cỏ mèo cuối cùng và phóng vào bãi cát.
Như đang trong cơn ác mộng, những người lính gác nhìn thấy nó đập mình đen đét trên đụn cát gần nhất và đang lướt về phía biển. Tuy vậy, vào khoảnh khắc cuối cùng họ nhớ đến cái hàng rào dây thép gai dọc bờ biển mà ông Cảnh sát trưởng Underbeck cứ khăng khăng nhất định đòi dựng lên cho bằng được.
Lấy lại tinh thần, họ ngừng bắn và chạy qua đụn cát hướng tới cái nơi mà con quái vật màu đen kia nhất định sẽ đụng phải hàng rào.
Một ai đó chạy đằng trước thình lình kêu lên đắc thắng.
- Nó bị bắt rồi! Nó mắc dây thép gai rồi!
Những chiếc đèn pha tập trung chiếu vào hàng rào.
Cái sinh vật đó đang bấu lấy hàng rào dây thép gai và hình như định vặn mình để dứt đứt những dây thép xoắn vào nhau trên hàng rào. Lúc này dường như nó đang tuyệt vọng. Nó vặn vẹo, nhảy chồm chồm và uốn éo giống như một con sứa khổng lồ đen thui đang mắc trong lưới. Những lính gác lao lên phía trước, trong lòng tin tưởng vào thắng lợi của họ. Tuy vậy, có một lần, người lính đi đầu bỗng gào lên.
- Coi chừng! Nó dứt đứt dây thép đấy! Nó đang thoát ra đấy!
Dưới ánh đèn sáng rực, họ khiếp đảm nhìn thấy con quái vật dường như đang ép mình chảy qua các mắt lưới bằng dây thép gai giống như một khối bùn lỏng.
Cách đó chỉ vài mét về phía trước đã là bãi biển dốc xuống và những con sóng đang ì ầm vỗ vào bờ.
Ai nấy đều há hốc mồm, sợ hãi mất hết hồn vía khi con quái vật bằng một cú giật mạnh về phía trước đã ép mình trôi qua hàng rào. Nó làm hàng rào đổ nghiêng hẳn đi, dây thép bị gấp lại, và dường như một vài mảnh thân thể của nó vẫn còn bỏ lại trên dây thép gai.
Khi nó di chuyển ra xa và lao vào vùng cát ướt nối liền với mặt biển thì một người trong số lính gác lao tới cho đến khi anh ta chạm vào hàng rào. Quỳ gối, anh ta nhắm vào con quái vật đang chạy trốn.
Một giây sau, một vòi lửa lớn phụt ra từ khẩu súng của anh ta và làm bùng lên một đám lửa đỏ ngay chỗ sinh vật nọ ở bên kia hàng rào.
Một đụn khói đen kịt bốc lên cuồn cuộn trong đêm tối. Mùi hôi thối nồng nặc kinh khủng lan ra khắp bãi biển. Những người gác nhìn thấy một khối cầu cháy sáng đang vặn vẹo bò đi phía bên kia hàng rào. Người lính bắn súng phun lửa vẫn ghì cò súng không thương xót.
Có những tiếng nổ lụp bụp, tiếng xèo xèo. Những cuộn khói lớn dày đặc bốc lên bầu trời đêm. Cái mùi không thể tả được giờ đây càng trở nên không chịu nổi.
Khi người lính bắn hết nhiên liệu trong khẩu súng thì ở đó không còn nhìn thấy cái gì ngoài những sợi dây thép gai nóng chảy trên hàng rào, và một khoảng cát lớn cháy xém, và tất nhiên là cả cái mùi hôi thối đặc quánh đang quyện lại trong không gian.
Con quái vật thân mềm nhầy nhụa này ghét ánh sáng là phải - vì cái điểm kết thúc cuối cùng của nó là ngọn lửa - kẻ thù vô danh tối hậu mà ngay cả con thủy quái này cũng không thể nào quật ngã và nuốt sống được.
HẾT

Xem Tiếp: ----