Chuyện đời của một tử tù

     rong khi trả lời thẩm vấn, hắn thường xin tòa giải quyết cho rõ chuyện hắn có phải là con của bố hắn hay không? Lời nói cuối cùng trước khi tòa vào nghị án - sau khi đã nghe vị đại diện Viện Kiểm sát đề nghị mức án tử hình - hắn vẫn lặp lại lòi khẩn cầu ấy. Điều đó, đã gần như một nỗi ảm ảnh của hắn?
Khi hắn sinh ra thì cha mẹ hắn đã có những mối bất hòa trong đời sống vợ chồng. Bố hắn nghi hắn không phải là con đẻ. Hắn lớn lên trong mối hoài nghi, ra đường bị những đứa trẻ cùng trang lứa gọi là “thằng không có bố”, căm lắm mà không làm gì được.
Năm 1972, hắn được 6 tuổi, bố được trên điều vào miền Nam công tác. Sau ngày giải phóng, ông nhận công tác tại bệnh viện Sài Gòn. Khoảng cách như một cuộc ly thân mặc nhiên. Suốt mấy năm ròng, tuy trên hình thức, cả hai anh em hắn đều lớn lên trong hoàn cảnh không có bố nhưng riêng đối với hắn, sự việc có vẻ như nặng nề hơn. Hai năm sau, bố hắn lập gia đình với dì T, năm sau nữa, hắn có một đứa em trai cùng bố khác mẹ. Bố, dì và em trai hắn cư ngụ tại TP Hồ Chí Minh. 1985 - năm hắn thi hành nghĩa vụ quân sự thì cũng là năm bố hắn trở ra Thái Bình làm thủ tục ly dị với mẹ hắn. Giờ đây hai gia đình, hai tỉnh, hai miền... - về mặt chính thức - đã tách biệt nhau. Thật ra thì vẫn còn, còn có một mối liên hệ máu mủ cha con. Sau ba năm nghĩa vụ trở về, hắn theo học hai năm tại trường Kỹ thuật Cơ điện 1 và ra trường với nghề thợ tiện.
Anh hắn nói hắn lớn lên bình thường. Không! Không có vấn đề gì về tâm thần. Mấy năm trước hắn vẫn vào thành phố thăm bố, có lúc còn ở lại chơi nhà bố và dì T hàng tháng trời. Cả gia đình vẫn vui vẻ với nhau, không có chuyện gì mâu thuẫn cả.
Ngày 8/5/1994, hắn lên tàu vào TP. HCM, mang theo trong balô một trái lựu đạn, một con dao, một chiếc võng, ba đoạn dây dù dài 2 mét, một can nhựa 2 lít, 90 viên thuốc ngủ và một gói thuốc chuột. Hắn mua hai lít xăng đựng vào can nhựa, rồi khoảng 6 giờ rưỡi chiều ngày 10/5, hắn đến nhà bố và dì hắn. Ông bố đã đi công tác, bốn người gồm có dì T, em B, ông X và chị H đang ngồi xem tivi. Hắn ngồi xem tivi và nói chuyện với dì T cho đến hết chương trình. Khi dì T đóng của chuẩn bị đi ngủ, hắn cầm trên tay trái lưu đạn và can xăng đã mở nắp sẵn, nói nếu ai chống cự, hắn sẽ tưới xăng và cho nổ lựu đạn thiêu hủy toàn bộ. Kết quả điều tra của công an nói rằng, hắn đã đòi chia tài sản, dì T đồng ý đưa cho hắn hai chỉ vàng và chiếc xe cub, nhưng hắn không chịu, hỏi chỗ cất tiền, vàng. Khi đã được dì T chỉ chỗ cất chìa khóa tủ, hắn lấy một cái can một lít cho thuốc ngủ vào pha với nước, rồi cho bốn người uống. Hắn kêu tắt hết đèn trong nhà, thắp đèn cầy lên rồi dùng dây dù trói bốn người lại. Hắn dùng bông gòn và khăn tay, cà vạt... nhét tai và miệng các nạn nhân, lấy áo trùm lên mặt họ rồi đi lục soát tìm tài sản. Lúc ấy, hắn thấy B cựa quậy, nên đã dùng hai tay bóp cổ B cho đến lúc B nằm yên!
Hắn nói rằng hắn chỉ định hù dọa thôi chớ không có ý định giết chết mọi người. Lúc buộc mọi người uống thuốc, hắn biết ông X và chị H chỉ uống giả vờ, nhưng hắn không nói gì. Những điều được mô tả lại qua kết quả điều tra nói trên, nghe giống hệt như trong một bộ phim bạo lực. Phải chăng hắn cố tình làm như thế? Tại sao phải cần đến rất nhiều động tác như thế?
Hắn ra mở cửa - loại cửa sắt kéo - để tẩu thoát nhưng mở hoài không được. Do sợ bị bắt, nên hắn lấy gói thuốc chuột ra uống tính tự sát, nhưng khi uống vào bị ói ra. Hắn vào giường nằm và thiếp đi. Đến 12 giờ khuya, ông X và chị H tỉnh dậy, tự cởi trói cho nhau, và nhờ người hàng xóm báo công an. Lúc đó, thì bà T và em B đã chết. Hắn bị Tòa tuyên án tử hình. Hành động giết người của hắn - như tòa nhận định - táo bạo, dã man, tàn ác, bất chấp đạo lý. Mẹ hắn ra khỏi phòng xử án, có người dìu hai bên. Bà vẫn nhắc đi nhắc lại câu “Ông không nhận nó là con. Hai mươi lăm năm nay, tôi đã ở vậy nuôi con để chứng tỏ là tôi không có quan hệ với người nào khác...”. Anh hắn nói: “Việc nó làm không thể nào bào chữa được, cho dù với lý do gì đi nữa. Thôi thì để cho pháp luật xét xử. Chỉ có điều chúng tôi biết nó không có ý định cướp của, cáo trạng nói vậy là oan cho nó!” Ba hắn đã gởi giấy xin vắng mặt tại phiên tòa.
-------------------------------------
Bị cáo Đặng Minh Ninh, tức Đặng Duy Ninh, sinh năm 1966 tại Thái Bình. Bị TAND TP.HCM kết án tử hình trong phiên tòa sơ thẩm ngày 27/09/1995.