Chương 18

      đời, tôi đã trải qua nhiều nỗi đau buồn, lo sợ. Vậy mà khi nghe tin chị Yvonne bị công an bắt, tôi sợ run, như một góc nhà của tôi đổ sập. Chị Yvonne là người con thứ sáu của cậu Tư Diệp, anh của má tôi. Mợ Tư qua đời chừng hai năm trước ngày cậu tập kết ra Bắc cùng với ba tôi và cậu Chín Thuỷ.
Chị Hai Yến là con chim đầu đàn của bảy người con của cậu Tư. Chị là một cô giáo trường làng ở Cái Cui; trường do một chương trình của viện trợ Mỹ. Chồng chị Yên đi tập kết. Anh là Nguyễn Hoàng Phát, sau này cầm đâu trận tấn công vô Cần Thơ vào ngày Tết Mậu Thân. Gia đình tôi biết chị Yvonne đang bị giam ở bót công an trên đường Ngô Quyền, cách nhà chị Yên vài mét. Đó cũng là nơi chị Yvonne ở, để đi học và hoạt động. Mặt trận ra chỉ thị cấm không ai được đi thăm chị. Gia đình chúng tôi quây quần bên nhau trong lo sự. Tôi biết, trong gia đình tôi mỗi người có một mối lo sợ khác nhau. Riêng tôi, tôi có cảm tưởng cả bầu trời trên đầu chúng tôi nặng nề đầy mây xám, báo trước một cơn giông bão sắp đổ ập lên đầu. Tất cả chúng tôi đều im lặng, chờđợi. Tôi thầm tự hỏi, rồi cơn bão sẽ cuốn đi những cái gì, và còn lại gì không?
Ngày chị Yvonne ra toà, không một ai trong gia đình chúng tôi có mặt. Chị bị kết án 5 năm.
Năm năm! Dù chị và tôi không chung một lý tưởng, nhưng mang tình bà con ruột thịt, tôi đau đớn từng thớ thịt, khi tôi nghĩ tới cửa nhà tù, nơi mà chị sẽ bị giam giữ suốt năm năm. Tôi nhắm mắt cố hình dung ra chiều dài của quãng thời gian đó. Suốt bậc tiểu học là năm năm, tức 1.825 ngày, 43.800 giờ và hơn hai triệu rưỡi phút. Trời ơi! Chị sẽ làm gì trong chuỗi ngày đó trong tù? Nếu người ta xúc phạm tới tiết trinh của chị, tôi tin chắc chị sẽ cắn lưỡi tự tử, chớ không chịu nhục. Tôi cầu trời để chị được yên thân trong những ngày buồn tủi, cô đơn trong tù. Tôi vái van cho má chị, ông ngoại, bà ngoại linh thiêng, về phù hộ cho chị.
Một hôm, một người đàn ông là ghé tiệm may, đưa cho má tôi một bức thơ. Mọi người đều nhận ra ngay chữ viết của chị Yvonne. Má tôi vội đem thư vô buồng đọc. Tất cả đi theo, rồi chuyền tay nhau đọc lá thư ngắn ngủi của chị. Chị viết: “Khi nào mọi người đọc được thư này, có thể người ta đã sửa soạn đưa tôi ra ngoài đảo. Đừng lo cho tôi. Đừng thăm viếng. Tôi sẽ không nhận bất cứ một cái gì từ bên ngoài gửi vô. Hay giữ gìn sức khoẻ”.
Tôi biết chị Yvonne muốn bảo vệ gia đình và tổ chức và không cho ai vô thăm nuôi. Đó là hảo ý của chị, nhưng tôi, tôi không thể làm ngơ được. Dù khác chính kiến, tôi là em của chị, không nỡ để chị ra đi mà không có một lời giã từ hay một lời hứa hẹn. Ông nội của chị là ông ngoại của tôi. Chị dậy tôi viết chữ hoa, xài mực tím, theu point de croix. Lúc còn sống chung với nhau, đi học với nhau trong trường làng.
Tôi không muốn má tôi lo, nên đã lén đi thăm chị. Đề phòng bắt trắc, tôi tiết lộ cuộc viếng thăm này cho một mình Hải Vân biết. Nếu chẳng may không thấy tôi về, nó phải đến chỗ cậu Hai Định, ba của anh Nguyễn Hồng Tuyền, một sĩ quan không quân lúc bấy giờ. Tôi dò hỏi mấy thầy đội trong phòng giam, được biết những tù nhân sắp bị đầy ra đảo bị nhốt trong khám lớn, bên cạnh dinh tỉnh trưởng Cần Thơ.
Tôi chuẩn bị một vài thứ cần thiết để đem vô cho chị, nhưng tôi đã hoàn toàn thất vọng, vì chị cương quyết không muốn gặp tôi. Vì vậy, không một ai trong gia đình tôi thấy mặt chị, cho tới ngày chị mãn tù sau đúng năm năm. Trong thời gian ở đảo, chị được coi là một tù nhân “gương mẫu”. Nhưng tôi bằng người ta chỉ có thể cầm tù cái thân chị, chớ không tiêu diệt tinh thần của chị. Dù sao cũng phải công nhận rằng chị là một con người can đảm. Khi ở trong tù, chị vẫn hoạt động. Chị kết nạp đồng chí và dần móc nối với những cán bộ cộng sản, chờ ngày được trả tự do, lại tiếp tục tranh đấu. Rồi cũng như ba của chị, khi được tự do chị “mạnh” hơn trước và trưởng thành. Chị bình tĩnh tiếp tục công cuộc “chống Mỹ cứu nước”. Từ khám lớn Cần Thơ chị đi bộ về nhà chị Hai Yến ở đại lộ Ngô Quyền, rồi sau đó đi thẳng vào mật khu.
Chị Yvonne bị tù, nhưng tinh thần chị được tự do, thoải mái. Trong khi đó, tôi lại bị ám ảnh về nỗi đau khổ của chị. Người xưa nói “Nhứt nhựt tạt tù, thiên thu tại ngoại”. Thế mà chị bị giam suốt năm năm dài. Tôi có cảm tưởng chính tôi mất tự do hay ít ra tự do của tôi cũng đi đe doạ. Với tinh thần khủng bố đó tôi bấy giờ chán việc làm, không còn thích viết những bài mang tính cách tuyên truyền nữa. Hậu quả của cuộc khủng b này là mấy bài bình luận của tôi “mất hẳn sắc bén”. Một lần thiếu uý Nam tỏ vẻ bực mình, hỏi tôi:
- Cô đang yêu hay thất tình?
Tôi ngạc nhiên nhìn ông, không nói gì. Ông nói tiếp:
- Bái cô viết bệt lắm đó… Chuyện tinh phải để ngoài công việc, nghe cô!
Nghe ông nói vậy, tôi giựt mình vì chưa yêu ai, mà cũng chẳng có ai xứng đáng để tôi thất tình. Có một người con trai đi sau lưng, đi trước mặt, đi bên bên cạnh tôi mấy tháng này, không biết ba tôi đi tập kết, anh ta giận, rồi tôi không còn bận tâm nữa. Ba không có ở nhà, ông bà đã về với tổ tiên, vườn đất vào tay Việt Cộng, bạn bè có người chết trận, có kẻ trốn lính. Trốn không được, đã có cậu phải đi Quang Trung hoặc bị đi Thủ Đức. Bạn gái thì có đứa lấy chồng, có đứa lên Sài gòn học tiếp, có đứa ra bưng “chống Mỹ cứu nước”. Tôi hoàn toàn bơ vơ. Tôi nói với thiếu uý Nam cho tôi viết tin tức một thời gian nữa. Ông chấp thuận ngay.
Một thời gian ngắn sau khi tôi vào làm cho Phòng V quân đội, đại uý Thịnh được lên thiếu ta. Chúng tôi chưa kịp ăn mừng lên lon, đã nghe tin ông được đổi về Sài gòn. Đại uý Nguyễn Văn Chánh từ Sài gòn xuống thay thế.
Sau đó vài ngày, vào một buổi sáng, tôi vừa ngồi xuống bàn thì có tấm giấy mời lên phòng nhì “lập tức”.
Phòng II đối diện với Phòng V, chỉ qua con đường lót sỏi trong trại Lê Lợi. Trong khi đi tới phòng nhì dưới ánh nắng chói chang, tôi tự trấn an không việc gì phải sợ hay hoảng hốt, nhưng khi nhìn thấy hai chữ “Phóng II”, cô tôi khô và miệng tôi đắng ngắt. Nhưng tôi vẫn thầm tự nhủ: “Việt Cộng mình không sợ, sao lại sợ Phòng II”.
Tại đây, tôi được gặp trung uý Chương. Ông chỉ ghế cho tôi ngồi rồi tiếp tục đọc tập tài liệu dầy cộm trên bàn viết. Tôi ngồi đợi ông chừng hai mươi phút. Tôi nhớ lời má dậy phải kiên nhẫn để đạt tới điều mình mong muốn, và cũng để dằn sự lo sợ vừa nảy sinh trong lòng. Chị Yvonne đi tù năm năm vì chị theo Việt Cộng. Bây giờ phòng II gọi tôi tới để điều tra, nhưng tôi theo quốc gia. Đó là khác biệt giữa tôi và chị. Không biết trung uý Bắc kỳ này co hiểu được sự khác biệt đó không? Người Bắc kỳ có hiểu nổi tâm trạng của người Nam không?
Khi trung uý Chương ngẩng lên nhin tôi, mặt ông nghiêm trokng, nhung tôi nhận ra ngay cái vụng về của một người mới học diễn xuất. Ông bỗng cất tiếng hỏi một cách sống sượng:
"Này, cho tôi biết Đặng Văn Quang là ai?
Tôi bình tĩnh đáp:
- Ông Đặng Văn Quang là ba của tui.
- Cô chắc không?
- Tui hổng hiểu câu hỏi của ông.
Tôi đối đáp bằng một giọng nói nhà quê Nam kỳ để đối lại giọng Bắc kỳ của ông.
- Khai sanh của cô ghi là "Cha vô danh" - Ông gay gắt nói.
- Ông Đặng Văn Quang là ba của tui. - Tôi nhỏ nhẹ nhắc lại câu trả lời cũ.
- Đặng Văn Khôi la cai gì của cô?
- Là anh ruột tui.
Trung uý Chương đưa cho tôi một tờ giấy và một cây viết, rồi nói như ra lệnh:
- Cô ghi địa chi của mấy người này cho tôi.
Tôi liếc nhanh tờ giấy rồi trả lời:
- Tui hổng có địa chi của họ, thưa ông.
Trung uý Chương bỗng ngồi thẳng người lên rồi nạt tôi:
- Láo! Cô nói láo!"
- Tại sao ông dám nói tui nói láo?
Tôi là con gái mới lớn lên, chưa hề nạt nộ ai, mà cũng chưa bi một người đàn ông nạt nộ bao gờa. Nay ông trung uý này nạt nộ to tiếng, khiến mặt tôi nóng lên. Tôi cho rằng ông ta là người thô lỗ, thiếu lịch sự. Tôi không còn nể nang, sợ sệt nữa. Muốn lấy lại bình tĩnh, tôi thầm đếm ngược: "Mười, chín, tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai, một”.
Trung uý Chương đập mạnh tay lên bàn khiến cây viết nảy lên, rơi xuống đất, rồi la lớn:
- Trả lời câu hỏi của tôi lên giấy ngay!
Tôi bỗng nhớ lại một chuyện cũ từ hồi còn ở trong chiến khu chống Tây. Một nông dân bị tình nghi là Việt gian, ngồi trước mặt người làm việc dưới quyền ba tôi. Lúc đó, tôi mới năm tuổi, còn Hải Vân lên hai. Chi giữ em hối thúc chị em tôi ăn cho xong bữa để đi coi "Việt gian" đang bị điều tra. Thì ra, khi thì kiến ăn cá. khi thi cá ăn kiến. Trước kia, ba tôi là cá sống, bây giờ tội lại trở thành kiến rớt xuống sông, trước một con con cá mang lon trung uý. Đúng là cái nợ đồng Iần. Nghĩ vậy, tôi sửa soạn tinh thần để đối phó với ông trung uý này. Tôi bình tĩnh nói:
- Tui hổng có địa chỉ của ba tui, mà cũng hổng có địa chỉ của của anh tôi nữa.
- Họ có bảo cô nói láo nhà cầm quyền không? - Trung uý Chương gằn giọng hỏi. Tôi chưa kip trả lời, ông đã quát to:
- Trả lời tôi ngay!
Tôi bình tĩnh đáp:
- Hổng cô ai xúi biểu tôi điều gì hết.
- Láo! Cô đừng có nói láo với tôi! Lần chót cô được tin tức của ba cô và anh cô là hồi nào?
Tôi bấm đốt ngón tay, rồi đáp:
- Đã chín năm rồi, thưa trung uý.
- Cô nhận được mấy cái thư của họ?
- Dạ, không có một cái nào hết"
- Cô có chắc không?
- Chắc.
- Thế là bố cô hết thương mẹ cô và chị em cô kể từ ngày ông gia nhập đảng cộng sản?
Câu nói này tôi không bao giờ muốn nghe chút nào, vì tôi lo sợ cái ý nghĩ đó vô cùng. Không biết vô tình hay cố ý, trung uý Chương đã đụng chạm tới cái điều thiêng liêng nhất trong gia đình tôi. Thế là tôi nghe mặt nóng bừng vì giận. Tôi muốn đứng bật dậy để chửi thẳng vào mặt ông, nhưng tôi chợt nhận ra tình huống khó khăn của mình, của một con cá đang naằ trên thớt. Rủi người ta chặt tôi một nhát, rồi liệng tôi cho cả lớn ăn thì sao? Rồi tôi sẽ không bao giờ có thể gặp lại má tôi nữa thì sao? Tôi nắm chặt thành ghế để nén giận, cố gắng trả lời một cách bình tĩnh:
- Tui nghĩ là ba tui có viết thơ cho gia đình, nhưng thư không tới tay gia đình tui.
- Cô có thưong ba cô không?
Tôi mỉm cười. Lần đầu tiên tôi nhìn thẳng vào mắt viên sĩ quan, đáp:
- Dạ, tui thương ba tui nhiều lắm.
- Dù ông ấy không viết thư cho cô và cho má cô 9 năm trời. Những người có chống, có cha ở ngoài Hà Nội đã nhận được thư của người thân của họ, cô có biết vậy không?
- Họ may mắn hôm tui. - Tôi nói nhỏ.
Như một con chó săn, trung uý Chương giờ trò siết cổ con mồi:
- Theo hô sơ lý lịch này, thì bố cô mới có 55 tuổi, còn trẻ có quyền hành trong tay, chắc ông phải nổi tiếng ngoài ấy lắm. Nổi tiếng mà độc thân thì không biết bao đàn bà con gái sắp hàng chờ đợi. Cô có hiểu ý tôi nói không?
Tôi bèn lớn tiếng là:
- Ông đã xúc phạm tới danh dự gia đình tui!
Trung uý Chương làm ngơ trước lại phản đối của tôi, tiếp tục nói:
- Cô hãy trả lời câu hỏi của tôi. Cô có nghĩ là ba cô bây giờ đã có một người đàn bà khác không?
Tôi hậm hực hỏi lại:
- Ông muốn tui nói cái gì?
- Cô là con gái cưng của ba cô. Chắc cô sẽ ngoan ngoacn nối gót bố cô chớ gì?
- Tui hãnh diện vì ba tui lắm, nhưng tui không nối gót được.
- Như vậy cô là đứa con mất dậy.
Tôi thản nhiên chấp nhận:
- Việt Cộng chê tui là đứa con bất hiếu. Ông biểu tui là con mất dậy. Nhưng tui chỉ hành động theo lương tâm của chính tui thôi, thưa ông.
- Mà tại sao có không đi theo con đường của bố cô?
Tôi trả lời chậm rãi và rành rọt từng tiếng:
- Tôi có thể cho ba tui một cánh tay, một cái chân, một lá gan, một trái thận, hay cả cuộc đời tui, nhưng tui không bao giờ dâng cho cộng sản linh hồn của tui, dù người đó là ba tui.
Trung uý Chương cười nhạt:
- Cô nói láo giỏi đây. Nào, bấy giờ cô cho tôi biết ai đã giao công tác cho cô làm việc tại Phòng V?
Vừa nói ông vừa đi vòng quanh cái bàn tôi ngồi, nlur con thú dữ bao vây, doạ nạt con mồi. Khi ông đi sát tôi quá, mùi đâu thơm làm tôi bực mình. Cả cái cứ chỉ phách lối và cái giọng Bắc vẻ nhà quê cũng làm tôi khó chịu. Tôi đã ở trong rừng sâu nước độc với thợ củi, thợ làm than, với dân đánh cá, với những người nuoi gà vịt, với bộ đội của Việt Minh, và với những tù nhân, tôi chưa bao giờ gặp ai có những lời nói, cứ chỉ thô bỉ như ông trung ý này. Nhưng tôi vẫn phải bình tĩnh trả lời:
- Tôi không biết tuân lịnh, mà cũng chưa bao giờ học cách tuân lịnh ai.
Trung uý Chương trở lại bàn giấy của ông, rồi cầm một xấp ảnh thẩy lên mặt bàn trước mặt tôi, ra lệnh:
- Coi kỹ những bức ảnh này, rồi cho tôi biết họ là những ai?
Tôi thấy tự ái bị xúc phạm nặng nề, nhưng tôi vẫn phải cố nén giận, giữ bình tĩnh. Tôi liếc nhìn xấp hình, thấy ngay đó, hình tôi ngồi trên xe bus, hình trên xe Lambretta đi về Bang Thạch thăm ông bà ngoại. Có một tấm hình tôi đi Cái Răng mua bánh mì Lý Ngầu với một thằng nhỏ cùng trường; anh nó là một Hiến binh. Tôi cũng nhận ra hình vườn ổi với sáu đứa bạn chụp ngày bãi trường năm 1963. Tôi kể tên đứa bạn trong tấm hình này, nhưng trung uý Chương không chú ý tới tên của bạn tôi, mà ông muốn biết những hành khách trên xe Lam hay xe bus là những ai. Làm sao tôi biết họ được, vì họ là những hành khách xa lạ đối với tôi, chỉ tình cờ gặp trên xe mà thôi. Nhưng trung uý Chương không tin tôi. Người của ông theo dõi tôi và những người hành khách này.
Bấy giờ tôi mới biết, tôi bị cả Quốc gia lẫn Việt Cộng theo dõi. Tôi thầm nghĩ, mình có làm gì quan trọng đâu mà sao người ta tốn công chú ý tới mình như vậy? Lúc học ở trưởng tiểu học Cần Thơ tôi chỉ là chân sai vặt của bà hiệu trưởng, đến các lớp đọc chỉ thị của bà cho học trò nghe. Lên trường trung học Phan Thanh Giản, tôi được thầy Trần Ngọc Nhung cho làm trưởng ban thể thao. Trong khi đó, chị Hiệp, trưởng lớp, bắt tôi làm trưởng ban quét lớp. Sau đó, tôi được “thăng quan tiến chức” lên làm trưởng ban trật tự. Những “chức” này tôi giữ không lâu vì hay nói chuyện trong lớp, bị mấy thầy cho đi “công-xin” nhiều lần, nên phải trở lại làm học sinh quèn. Vậy mà cả một bầy cá mập lội theo tôi hoài?
Tôi đang suy nghĩ trong im lặng, một sự im lặng nặng nề, thì trung uý Chương bất ngờ cho tôi về Phòng V để làm việc. Tôi biết ông rình, nên tôi đi thằng về văn phòng của mình. Rồi buổi trưa hôm ấy, tôi như con mèo mắc mưa, ngồi nghe tim mình đập trong lòng ngực, mà không sao tập trung tư tưởng được. Đến đêm, tôi không ngủ được, vừa lo lắng vừa nghĩ ngợi, đầu óc rối beng. Tôi biết rằng buổi gặp gỡ sáng này giữa tôi và trung uý Chương chỉ mới bắt đầu; rồi sẽ còn có nhiều buổi nữa.
Đúng như tôi đoán, sáng hôm sau, phòng nhì lại kêu tôi nữa. Lại cũng như hôm qua, trung uý Chương thẩy xấp hình lên bàn. Nhưng hôm nay, xấp hình không cột dây thung, nên hình văng đầy mặt bàn. Rồi ông tằng hắng, hạ thấp giọng, bắt đầu hỏi những câu hỏi mà tôi nghĩ ông đã biết câu trả lời qua điều tra của sở Bốn.
Cuộc thẩm vấn sáng này kéo dài hơn ba tiếng đồng hồ. Tôi vừa hồi hộp vừa lo sợ lại thêm cái bụng đói vì từ sáng chưa có miếng nào dằn bụng. Đến gần trưa, tôi bắt đầu buồn nôn. Trong thâm tâm, tôi muốn mửa ngay trong văn phòng, trước mặt trung uý Chương cho đã giận. Nhưng tôi chơi nghĩ đến Hải Vân, em của tôi. Nếu biết được cử chỉ thiếu lịch sự này, em sẽ trách tôi không biết chịu đựng. Tiếng giầy của ông trung uý vang lên trên sàn gạh trong căn phòng im lặng, làm tôi càng hồi hộp thêm, rồi thình lình ông đứng khựng lại ngay cạnh tôi, nói bằng giọng đe doạ:
- Tôi xẽ gọi cô trở lại đây, nhưng chưa biết ngày nào. Thôi, cô về đi!
Tôi nửa muốn chạy ra khỏi cái văn phòng hắc ám đó ngay, nhưng nữa muốn ông tiếp tục thẩm vấn tôi cho đến hết, dài và lâu cũng được. Tôi muốn cho xong đi, vì mỗi lần bị phòng II gọi là mỗi lần tôi bị nhân viên trong phòng V chú ý. Mấy chị xù xì với nhau. Tôi coi chuyện này như một món nợ phải trả. Rồi khi thấy trung uý Chương không có ý giữ tôi thêm nữa, tôi đành trở về Phòng V để làm việc. Nhưng từ phút đố tôi tưởng tượng ra những chuyện thật kinh khủng có thể xảy ra cho tôi. Biết đâu có một ngày nào đó tôi sẽ bị trung uý Chương treo ngược tôi lên nóc nhà, rồi đổ nước vô mũi tôi để biết nhận hết cả những điều tôi không biết hay không nói. Nếu tôi không khai (vì có biết gì đâu mà khai!) ông bắn vô đầu tôi, để mặc cho máu chảy ra hết. Một con bạn học cũ của tôi làm việc cho Ty Công an trên đường Ngô Quyền thường kể cho tôi nghe những đòn tra tấn khủng khiếp của các công an đối với các cán bộ Việt Cộng, nhất là các nữ cán bộ. Nghe nói họ treo ngược mấy cô lên, rồi nhét nước đá. Không một ai chịu nổi, nên phải khai hết. Không lẽ trung uý Chương sẽ dùng biện pháp đó với tôi?
Tôi cũng còn nhớ lời khuyên của bà ngoại: “Tuỳ cơ mà ứng biến”. Hoàn cảnh hiện tại, tôi biết ứng biến ra sao đây? Từ đố tôi ăn ngủ không yên. Lúc nào tôi cũng hồi hộp lo sợ. Vậy mà tôi không dám hở môi cho ai biết, tôi giấu luôn cả má tôi, vì không muốn bà lo sợ lây; bà đã có cả hàng trăm hàng ngàn mối lo, ông bà ngoại tôi qua đời, nguồn tiếp tế chánh đó bị dì Bảy chia cho các cán bộ Việt Cộng hết. Ngoài ra, má còn lo ăn học cho bốn đứa con và hai đứa cháu nữa. Hàng ngày má tôi phải làm việc tới khuya mới đi ngủ. Hậu quae của sự làm việc vất vả và lo nghĩ nhiều là bịnh đau bao tử. Bác sĩ cho biết má tôi đã mắc bịnh này. Vì vậy, tôi không thể cho bà biết chuyện khó khăn của tôi ở sở.
Tôi đành tự gồng mình lên để chịu đựng. Tôi tin là tôi có đủ nghị lực làm việc này. Không ai có thể hiểu tôi bằng tôi; mà cũng không ai dám tin tôi bằng tôi tự tin. Nghĩ như vậy, tôi cảm thấy yên tâm hơn. Tôi bèn ghi vào nhật ký của tôi như sau: “Mảnh đất này thuộc quyền sở hữu của tôi và của tất cả những người yêu nước, cũng như mặt trời là của những mảnh đất phì nhiêu và của những bàn tay nông dân. Không ai có thể phủ nhận được điều này.
Mấy ngày sau đó, tôi lại phải ngồi trước mặt trung uý Chương. Lần này ông có vẻ bồn chồn và nghiêm túc hơm, tôi ngạc nhiên khi nghe ông giở lại giọng Bắc ra nói chuyện với tôi, dù lần trước ông nói giọng Nam. Nhưng, với giọng nào ông không bẻ gẫy được cây tre ốm yếu này, ông bắt đầu:
- Sao, có đã nói với mẹ cô vẻ cuộc gặp gỡ giữa tôi và cô chưa?
Tôi nhún vai, đáp bằng một giọng phách lối, như để tự trấn an:
- Tôi thấy không cần phải nói cho má tôi biết. Tôi không có thói quen kể lại những chuyện xảy ra ở ngoài đường cho gia đình biết.
Ông trung uý chớp mắ như đang suy nghĩ một điều gì, rồi nói:
- Tất cả đàn ông trong gia đình cô theo cộng sản. Trong nhà bây giờ chỉ có đàn bà và con nít thôi, phải không?
Tôi mỉm cười, đáp:
- Sẽ có một người đàn ông trong gia đình tôi khi em tôi lớn.
Tôi cũng ngạc nhiên về giọng hãnh diện của tôi khi tôi nhắc đến Hải Vân. Trong khi đó, trung uý Chương có giọng nghi ngờ:
- Làm sao có dám nói chắc như vậy? Nó là trẻ con?
Tôi bình tĩnh đáp:
- Bởi vì tôi biết chúng tôi là ai. Chỉ có ông là người không muốn biết về gia đình tôi thôi. Cộng sản thường nghĩ rằng đứa con của các cán bộ cộng sản sẽ trở thành cộng sản như cha mẹ nó. Nhưng rồi họ sẽ thất vọng đối với chị em chúng tôi.
- Em trai của cô bấy giờ ở đâu?
- Nó ở với chị tôi trên Sài gòn để được yên tâm học hành.
Tôi trở về Phòng V làm việc trước những cặp mắt tò mò đang nhìn tôi. Tôi cảm thấy khó chịu, và nghe như có khoảng cách giữa họ và tôi rộng thêm chút nữa.
Một hôm, trung uý Phước, người bạn duy nhất của tôi ở phòng V, mời tôi xuống câu lạc bộ uống café. Trong khi nói chuyện, tôi cho ông biết tôi đang gặp khó khăn với phòng II. Ông tỏ ý muốn giúp tôi giải quyết những khó khăn đó, nhưng tôi dứt khoát từ chối. Ông đã giúp tôi xin được việc làm ở đây, thì tôi có bổn phận phải bảo vệ việc đó. Trung uý Phước khuyên tôi:
- Đừng có thọc tay vô miệng cọp.
Tôi chỉ cười và im lặng. Nhưng trong bụng tôi thầm nghĩ trung uý Chương chỉ là một con mèo rừng, chưa đủ khả năng trở thành cọp. Tuy nhiên, ngay lúc này, mèo rừng cũng có thể làm đời tôi điêu đứng.
Một đêm, không ngủ được, tôi xuống bếp lục nồi tìm đồ ăn, khi má tôi còn đang ngồi may. Trong một giây phút yếu lòng, tôi cho bà biết việc tôi đang bị phòng II điều tra. Má tôi chăm chú nghe tôi kể, rồi bà bình tĩnh nói:
- Con nên kiếm người người nào sẵn sàng tin con, chớ đừng có bảo đảm với người chú tâm buộc tội mình. Con phải tìm gặp ông nào lớn nhứt của ông trung uý đó. Thằng trung uý nó muốn ăn hiếp con của Việt Cộng để lên đại uý.
Tôi chợt thấy con đường mới hiện ra trước mặt. Lời khuyên của má tôi thật hợp lý. Từ lâu tôi giấu bà vì không muốn làm bà buồn lòng, lo lắng, trong lúc bà có quá nhiều việc phải lo. Nhưng tôi quên rằng má tôi là một người can đảm và tháo vát, với bản tánh rất cương nghị. Một mình bà vừa làm mẹ, vừa làm cha trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn của đất nước. Tôi muốn bảo vệ má, trong khi tôi kg một khí giới nào trong tay.
Lời khuyên của má tôi làm cho tinh thần tôi lên cao như diều gặp gió. Từ ngày gặp trung uý Chương, chưa bao giờ tôi vui như đêm hôm đó. Tôi ngủ một giấc ngon lành tới sáng,
Sáng hôm sau, với tâm hồn thanh thản, tôi đi làm sớm để tìm gặp trung uý Phước. Nhờ ông, tôi biết giám đốc Sở Bốn An ninh quân đội là đại uý Trần Duy Bính, ông là người Bắc di cư, theo Thiên Chúa giáo. Tôi vội xin gặp ông ngay. Nhưng muốn gặp một ông giám đốc, nhất là giám đốc an ninh quân đội, đâu phải chuyện dễ. Tôi phải ghi tên tuổi và lý do. Cái tên Trần Ngọc Dung không nói lên được điều gì hết. Muốn cho ông giám đốc đặc biệt chủ ý, tôi phải ghi vào mục lý do: “Con gái của Đặng Văn Quang”. Tôi còn nói với nhân viên văn phòng, là tôi có tin mật muốn nói riêng với đại uý giám đốc. Quả nhiên, tôi đi được mời vào văn phòng ông giám đốc.
Đại uý Bính trạc ngoài 30 tuổi. Tóc ông chải brillantine đen mượt. Bộ quân phục của ông được ủi thẳng nếp, ngay ngắn, không nhàu nát như bộ quân phục của thiếu uý Nam, ông xếp tôi. Tôi nghe thoáng mùi nước hoa cologne đặc biệt và mùi thuốc thơrn. Một tay cầm ống điếu, một tay ông đưa ra bắt tay khi tôi vừa bước vào phòng. Cặp mắt sáng của ông làm tôi hơi bối rối. Nhưng ông cười nói cởi mở, làm cho bầu không khí bớt căng thẳng ngay. Sau mấy câu xã giao, tôi đi thẳng vào vấn đề ngay:
- Thưa đại uý, tôi tin là đại uý biết tôi đang bị điều tra.
Ông trả lời:
- Tôi chưa được báo cáo kết quả.
Giọng Bắc của ông nghe hay hơn giọng Bắc của trung uý Chương. Là dân Nam kỳ nên tôi không biết ai ở tỉnh nào xứ Bắc.
Tôi có hết sức bình tĩnh nói:
- Thưa đại uý, theo ý tôi, cuộc điều tra này không giông như những cuộc điều tra lý lịch nhân viên khác trong phòng V.
Thật ra, tôi cũng không nghe nói có nhân viên nào cùng làm việc với tôi bị điều tra cả, những cứ nói liều để chứng tỏ tôi bị đối xử khác biệt.
Đại uý Bính chậm rãi trả lời:
- Trung uý Chương cho tôi biết là ông ta sẽ hỏi cô về ba cô.
- Thưa đại uý, ông ấy biết về ba tôi nhiều hơn tôi biết về ba tôi, nhưng thật sự ông không điều tra ba tôi, mà có ý buộc tôi về cái tội nằm vùng! Điều đó rõ ràng cố tìm cách vu cáo và doạ nạt.
Tôi nói bằng một giọng trách móc, giận hờn, khiến đại uý Bính có vẻ khó chịu. Nhưng tôi nghĩ rằng có thể ông hiểu người Nam chúng tôi là những người thật thà, chất phác và ngay thẳng, nghĩ gì cứ nói toạc ra hết. Vì vậy, tôi nói tiếp:
- Thua đại uý, đây là xứ sở của chúng tôi, nơi chôn nhau cắt rún của người miền Nam. Tôi là con dân của đất Cần Thơ, Chánh phủ quốc gia có bổn phận phải tôn trọng quyền làm dân của tôi chứ. Vì vậy, không nên khơi khơi két tội mà không có một bằng chứng cụ thể nào, như trung uý Chương đang làm. Đó là một hành động ăn hiếp dân hiền lành vô tội như tôi trong mấy hôm nay.
- Trần Thị Tố Loan có phải bà con của cô không? - Bất ngờ đại uý Bính hỏi, tôi bình tĩnh trả lời:
- Dạ, chị ấy là bà con cô cậu của tôi.
- Tôi có gặp cô ấy sau khi cổ bị bắt. Một người con gái quá lì lợm! - đại uý Bính lắc đầu.
- Chị tôi bị kêu ăn 5 năm tù!
Tôi nhìn thẳng vào mặt ông, rồi chậm rãi nói:
- Thưa đại uý, tôi tin rằng qua các cuộc điều tra và các hồ sơ An ninh đang có, đại uý đủ biết hết về gia đình, bà con của tôi. Tôi xin cam đoan với đại uý là tôi vô tội. Tôi không phải Việt Cộng mà tôi cũng không phải là tay sai của cộng sản. Vậy, xin đại uý giúp tôi.
Tôi nói vừa thầm khấn Trời, Phật phù hộ cho tôi.
Đại uý Bính yên lặng nghe tôi nói, rồi chợt hỏi:
- Cô có thích việc làm của cô ở Phòng V không?
Tôi không dám nói thật dù thích muốn chết, sợ người ta nghi ngờ, mà sợn nói một tiếng “dạ” không thôi thì lại sợ không đủ, rủi họ đề nghị làm việc khác thì sao? Nhưng tôi biết nói gì bấy giờ? Tôi còn nhỏ quá, mà hành trang vào đời của tôi lại nhẹ tâng, chỉ có mấy lời giáo huấn của ông bà tôi, ba má tôi… Nào là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, nào là lòng ái quốc, nào là cách cư xử với bà con trong làng Bang Thạch…
- Cô có còn tin tưởng ở Quốc gia sau khi chị cô bị bắt không? - Đại uý Bính hỏi.
Tôi đáp ngay:
- Thưa đại uý, tôi thương chị tôi lắm, nhưng lời biết, thời gian trong tù chỉ là một trở ngại nhỏ cho bước đi lớn của chị. Đối với tôi, chị là chị Tố Loan, mà tôi vẫn là tôi, người tin ở Quốc gia.
Ông đứng dậy trong khi tôi vẫn ngồi yên trên ghế, rồi nói:
- Được rồi, tôi sẽ nói chuyện với trung uý Chương.
Đại uý Bính tiễn tôi ra cửa. Ra khỏi sở An ninh quân đội II tôi thấy đời thật đáng yêu, đáng sống; lòng tôi nhẹ như được cất cánh. Tôi vội vàng về nhà báo tin mừng cho má hay. Trước khi gặp đại uý Trần Duy Bính, tôi cứ tưởng ông công an nào cũng có nanh, có vuốt. Ngược lại, đại uý Bính có hàm răng trắng thật đẹp và nụ cười thật hiền.
Sáng hôm sau, khi tôi vừa bước chân vô sở, đã thấy thiếu uý Nam có mặt trước mọi người như thường lệ. Sự có mặt rất sớm của ông khiến tôi đôi khi thắc mắc, không biết ông có về nhà ngủ, hay ông ngủ luôn trong văn phòng vì có máy lạnh.
Vừa thấy mặt tôi, thiếu uý Nam đưa cho tôi một tờ giấy hồng. Khỏi nói, tôi cũng biết cái gì đang chờ đợi tôi từ sáng tới giờ. Đó là lệnh “trình diện tại văn phòng trung uý Chương ngay lập tức!”. Chữ viết tay của đại uý Chánh. Buổi gặp đại uý Bính khiến tôi bạo dạn ngồi xếp tờ giấy mầu hồng thành chiếc máy bay, rồi cho bay vô thùng rác. Thiếu uý Nam trợn mắt nhìn tôi, nói:
- Con trai của Chúa Jesus đòi gặp cô mà!
Tôi dí dỏm đáp:
- Nhưng con gái của Chúa Jesus hôm nay bận việc.
Tôi vừa nói vừa nhìn vào chồng tin tức mà thiếu uý Nam lấy từ bên trung tâm hành quân về, rồi tiếp:
- Con trai của Chúa đành phải chờ bữa khác vậy.
Thiếu uý Nam ngạc nhiên nhìn tôi một lát, rồi lắc đầu, trở về bàn làm việc của ông.
Những ai trong văn phòng biết chuyện tôi đang bị điều tra hồi hộp chờ xem tôi lăn lóc trong bão tố, rồi sẽ trôi giát đến đâu. Còn tôi, tôi cũng mệt lả người, nên suốt ngày hôm đó tôi không tập trung được tư tưởng. Ngoài mặt tôi giả bộ bình thản, nhưng ý tưởng bụng, tôi cũng hồi hộp chờ chiếc xe thùng mầu đen đến hốt tôi đi. Nhưng ngày đi qua, đi qua một cách êm ả như tỉ nhỏ Cần Thơ. Rồi tới những ngày sau cũng không có chuyện gì xảy ra.
Cuộc sống trở lại bình thường; trung uý Chương vẫn mang lon trung uý.
Một hôm, tôi cùng trung uý Phước tới câu lạc bộ, thay trung uý Chương đang ngồi ở đó. Nhưng vừa thấy tôi, ông liền bỏ đi ngay. Tôi nhớ câu nói của Hải Vân: “Sau cơn mưa, trời lại sáng”.
Mà trờ sáng thật. Mỗi khi đi ngang qua phòng nhì, tim tôi không còn đập như trống lảng nữa. Rồi hình ảnh trung uý Chương cũng mờ dần. “Con ma” Chương không còn theo ám ảnh tôi nữa.