Chương 44

     gày Chúa Nhứt 18 tháng Chạp, chúng tôi đề nghị cả gia đình đi picnic ở vùng quê ngoại ô thành phố Luân Đôn để ba má tôi có dịp thay đổi không khí. Nhưng tôi ngạc nhiên khi ba tôi từ chối. Ông đề nghị cứ đưa Lance đi chơi vui vẻ, ông thích ở nhà hơn.
Tôi không hiểu tại sao ba tôi lại từ chối cuộc đi chơi để cùng sinh hoạt chung với gia đình. Cuối cùng, má tôi kể tôi vô phòng riêng của bà để giải thích cho tôi biết. Buổi tối đi đón ba tôi ở phi trường, trên gia đình về, tôi đã nói giỡn với ba tôi là tôi “bắt cóc” ông nếu ông không chịu ở lại với má. Ông đã hốt hoảng, và từ hôm đó tới nay, ba tôi không biết tôi nói thật hay nói chơi. Bây giờ chúng tôi nói tới chuyện đi về miền đông quê, xa toà đại sứ Việt Nam, thì ông sự tôi làm thiệt.
Tôi hối hận vô cùng vì đã làm ba tôi bất an trong mấy ngày này. Nhưng tôi vẫn nuôi dưỡng cái ước mơng tách ba tôi khỏi nước Việt Nam. Mỗi lần nghĩ tới chuyện đó thì tâm tư tôi rộn radng, tim tôi đập tứ tung. Nhưng tôi không có ý đồ gì trong chuyến đi picnic này. Má tôi đã phải năn nỉ ba tôi nhiều lần như vậy; cuối cùng cũng thuyết phục được ông đi với chúng tôi.
Ba tôi miễn cưỡng đi, nhưng ông không thoải mái chút nào trong suốt buổi đi chơi. Khi chúng tôi ngưng lại bên một cánh đồng, ông không muốn ra khỏi xe, và có thể ông cũng không muốn nhúc nhích, nếu Lance không nắm tay ông năn nỉ:
- Ông ngoại. Lance muốn chơi với ông?
Mắt ông không ngừng ngó quanh cánh đồng suốt buổi picnic đó, như có ý đề phòng một nhóm người bất thình lình xuất hiện từ bờ cây bụi cỏ để bắt cóc ông. Phải chi tôi đừng nói tới hai chữ “bắt cóc”, rồi chờ khi có dịp thuận tiện ở một địa điểm tốt, sẽ thực hiện điều đó. Tôi tâm sự với má tôi thì bà la tôi liền:
- Con à, không bao giờ có dịp nào thuận tiện hay địa điểm nào tốt để làm chuyện đó với ba con nghe chưa.
Chúng tôi phải rút ngắn buổi đi chơi ngoài trời, vì ba tôi tỏ ra quá lo lắng. Sự căng thẳng tinh thần đã làm ông mệt mỏi, nên kín vừa về tới nhà, ông lên phòng Lance nằm nghỉ.
Tôi hối hận vô cùng. Không ngờ lời nói của tôi đã ảnh hưởng mạnh tới tinh thần ba tôi như vậy. Có thể suốt những ngày thăm viếng gia đình tôi, ông đã lo lắng, chứ không phải chỉ buổi picnic hôm nay. Tôi nói với má tôi là tôi biết mình có lỗi với ba nhiều quá. Bà khuyên tôi nên xin lỗi ba tôi.
Tôi bước vô phòng của Lance, thấy ba tôi năm bất động trên giường, nhìn tôi mà không nói gì. Tôi lên liếng:
- Ba à, tại con quá tuyệt vọng nên đã nói bậy. Có lẽ vì ngu mới nuôi ảo tưởng, mới xây nhà lầu trên cát; và cũng chỉ vì con thương ba má quá. Vậy con xin ba tha lỗi cho con. Con phát ngôn bừa bãi để ba phải lo lắng!
Ông nằm lấy tôi siết mạnh, rồi nói:
- Ba tha lỗi cho con rồi.
Ông không muốn nhắc lại chuyện cũ nữa, ông lật gối qua mặt kia, rồi nằm xuống lại, như muốn ngủ tiếp. Tôi ra khỏi phòng, nói với John, tôi cần đi bộ một lát.
Gió tháng Chạp thổi vô mặt tôi lạnh buốt khi tôi đứng trên cây cầu ở công viên Regent. Hai ông bà già người Anh nắm tay nhau đi qua cầu. Bà già phải chống gậy. Ông già nhắc nón lên chào, khi hai ông bà đi qua tôi. Tôi hình dung ba má tôi được sống bên nhau như hai ông bà này, nhưng tôi đã biết không còn hy vọng gì nữa. Tôi thèm thuồng nhìn theo họ cho tới lúc họ quẹo sang đường khác.
Trên đường về nhà, tôi dừng lại trước nhà thờ St. Marks, nhìn lên khung cửa kiếng nhiều mầu và cứ hỏi:
- Tại sao thương yêu mà đau quá vậy?
Khi tôi về tôi nhà, ba tôi đã dậy và đang đọc cuốn Solar Energy (Năng lượng mặt trời) của John. Thấy tôi, ông cười nhưng nụ cười không tươi như trước đó.
Có lần ba tôi tâm sự:
- Ba thèm địa vị của má, vì má may mắn được nuôi dậy con. Ba chỉ có được thấy các con lớn lên trong tưởng tượng mà thôi. Ba đã vẽ hình tất cả các con, tuyệt đẹp trong sự tưởng tượng của ba.
Nói gì bây giờ. Tốt hơn là nghe ba tôi tâm sự, để ông trút hết nỗi lòng hai chục năm này không thổ lộ được với ai.
Đêm hôm đó, khi tôi đưa ba về nhà, tôi nấn ná trong phòng ngủ của ông lâu hơn mọi khi. Tôi ước mong có một điều gì đó có thể khiến tôi làm, hoặc nói để ông đổi ý, hoặc có một phép lạ nào trong đêm Giáng Sinh làm việc đó thay tôi. Nhưng cuộc đời với ba tôi không có phép lạ, không có nhiệm mầu. Chỉ có tình yêu, chỉ có bổn phận, chỉ có tổ quốc, và chỉ có kẻ thù. Đời của ba tôi có chiến tranh, có hoà bình, hy vọng, đau thương, vui tươi và buồn phiền, nhưng không có nhiệm mầu. Tôi làm giường cho ông, lấy quần áo dơ mang về nhà giặt, và cứ lăng xăng bên cạnh ông mà không làm gì, nói gì hết. Cuối cùng ông hỏi:
- Con đang nghĩ gì vậy?
Tôi lắc đầu rồi vội hôn ba tôi, chào từ biệt.
Đường về nhà lúc sau nửa đêm trông như một cảnh trong một phim huyền bí. Sương mù bao phủ cây cối, và lác đác mấy ngọn đèn đường toả ánh sáng mờ ảo vô những toà nhà vách đá. Trong khi lái xe, tôi bỗng cảm thấy tức giận. Giận chính tôi, giận thế giới, giận hoàn cảnh đã đưa gia đình tôi vô thế kẹt này. Mấy tháng trước, má tôi hỏi tôi sẽ làm gì, nếu ba tôi từ chối trở về sống với gia đình? Tôi không thể trả lời câu hỏi đó. Tôi đã nói với bà như sau:
- Con không trả lời câu hỏi đó được đâu. Cũng như con không trả lời khi ai hỏi con sẽ có cảm giác gì, nếu con rớt từ từng lầu thứ 25 xuống đất.
Đáng lẽ tôi nên nói với má tôi: “Con xin phó thác mọi việc cho ông Trời”. Không biết lúc này tôi có được ở trong bàn tay yêu thương của ông Trời không nữa? Tôi muốn tin là có.
Về tới nhà, tôi ăn mấy cái bánh và uống ly sữa mà tôi và Lance đã để trên bàn mời ông già Noel rồi đi ngủ. Tôi nghĩ rằng nhiệm mầu của Giáng Sinh đã ban cho gia đình tôi được xum họp vui vẻ dưới một mái nhà ở Luân Đôn. Nhưng ước mơng khác có được thì tuỳ thuộc ở ba tôi, và cần thêm nhiều phép lạ bùa mê lắm mới khắc phục được lý tưởng mà ông đang theo, và sự trung thành tuyệt đối với sự nghiệp đó.

*

Một buổi trưa, tôi và má tôi ngồi nói chuyện, má nói:
- Ba thương con, ba thương hết tụi mình, đừng bao giờ nghi ngờ điều đó nhưng ông phải đeo đuổi sự nghiệp của ông.
- Má à, con muốn thử thời vận mình một lần nữa, xin ba nghĩ kỹ lại.
Má tôi nói:
- Ba con hãnh diện về việc cuộc đời của một người tiên phong đi làm cách mạng. Ba tin là người ta còn cần tới ông. Ở Mỹ sung sướng với ai kia, chớ không phải với ba. Ba sẽ khổ lắm, rồi ba sẽ chết héo chết mòn khi ông trở thành một người không có quê hương, xứ sở. Mình cũng như nhiều người khác, sống ở đâu cũng được. Còn ba con thì không làm sao sống xa cái khuôn khổ của ông. Thôi, để yên cho ba con.
Tối hôm đó, sau bữa ăn, ba tôi và tôi nói chuyện riêng rất lâu. Chúng tôi ngồi xếp bằng trên giường của Lance. Tôi nắm lấy hai bàn tay ba tôi như muốn trút hết tâm tư của mình. Tôi nói:
- Ba à, con muốn ba biết là ba đã đem tới cho chúng con cái lễ Giáng Sinh tuyệt vời chưa bao giờ có trong đời chúng con. Ba đã làm cho má con vui. Con cảm ơn ba đã chung vui với chúng con và cho Lance được cái diễm phúc được biết ông ngoại. Cám ơn ba chấp nhận thằng rể của ba vô trong gia đình mình!
Ba tôi lắng nghe rồi nói:
- Ba cũng cám ơn gia đình con cho ba có mặt ở đây. Ước gì cảnh xum họp này kéo dài vô tận để nghe má con cười, để má con vui.
Ba tôi nhìn ra một nơi xa xăm, rồi ông nói một câu ngắn gọn:
- Ba phải trở về nước của ba.
- Ba à, ba đã theo lý tưởng của ba quá lâu rồi; ba hiến đời ba cho đảng cộng sản, cho dân tộc và đất nước. Bây giờ ba không thể sống cho gia đình của ba được sao? Tình thương của ba cho má, ba phải giấu mấy chục năm nay, thì bây giờ ba đâu còn phải giấu nữa.
Ông nói bằng một giọng chắc nịch:
- Ba cũng muốn những điều như con muốn. Nhu cầu của chúng ta không khác nhau; của má con cũng vậy. Ba thương con, ba chung thuỷ với má con. Nhưng điều con đòi hỏi ba, thì ba không thể chiều con được.
Đôi mắt ông như có lửa giận, vì một lần nữa tôi nhắc lại chuyện hưu trí, ở lại với má tôi. Ông nói tiếp:
- Ba đã dậy con của ba phải trung thành, phải là người có tín nhiệm. Ba muốn làm gương cho những điều giáo huấn do.
Tôi ra giọng năn nỉ:
- Con đâu có đòi ba phải phản bội họ. Con chỉ muốn ba chia sẻ cuộc sống với tụi con, sống với má cho tới già, bỏ qua chính trị, bỏ qua đảng cộng sản luôn.
Ba tôi bình tĩnh nói:
- Con yêu cầu ba bỏ nước mình đi, rồi tới ở một nước đã từng là thù địch của ba. Con nghĩ lại coi như vậy có được không, con gái của ba?
Tôi đáp ngay:
- Ba à, con đã nghĩ về chuyện này lâu lắm rồi; con nghĩ kỹ lắm. Con đâu có đòi ba phải sống ở Mỹ. Ba lựa một nước nào khác. Một nước trung lập, hay bất cứ một nơi nào mà ba được quyền thương yêu gia đình của ba, nơi nào mà ba được tự chủ, tự do.
Ông ngắt lời tôi:
- Ba là người Việt Nam, sanh trưởng tại Việt Nam và ba sẽ chết ở Việt Nam với đồng bào của ba.
- Thưa ba, con đâu có nói tới chuyện chết chóc. Con chỉ nói tới chuyện sống, tới chuyện chia ngọt sẽ bùi với những người thân yêu của ba. Ai cũng muốn có ba bên cạnh, như đất cần mưa, như cá cần nước.
Ba tôi có vẻ dịu đi một chút, cúi xuống hôn lên tóc tôi, rồi nói:
- Được con của ba thương ba, là danh dự lắm.
- Ước gì trong một giây phút bá biến thành con, để ba có thể hiểu tại sao con mong mỏi ba trở về xum họp với gia đình.
- Ba không cần là con. ba cũng có thể hiểu tấm lòng của con. Có nhiều lần ba cần các con, cần má con lắm… Đó là những lúc ba ráng tưởng tượng các con khôn lớn như thế nào, các con đang làm gì, các con ra sao, đời có tử tế với con của ba không? Đó là những lúc khó khăn nhứt cho ba. Nhung bổn phận của ba đối với đất nước vẫn trên hết!
- Làm con của ba là niềm hãnh diện, nhưng làm con của ba khó quá, vì tụi con không sống nổi theo sự đòi hỏi của con nhà cách mạng. Con nghĩ chiến tranh đã a chấm dứt, đã trở thành dĩ vãng. Bây giờ chúng con có quyền đòi lại ba, đòi lại những gì của riêng chúng con đã bị mất.
Tôi vừa nói vừa cố gượng cười.
Ba tôi cũng mỉm cười, rồi nói:
- Mình có thể làm cho tình gia đình mình phong phú mạnh mẽ hơn với thái độ không vị kỷ. Hãy giúp đỡ nhau đối phó với hoàn cảnh hiện tại của gia đình, đi tiứi một sự hiểu biết rộng rãi hơn.
Chúng tôi ngồi trong im lặng một lát.
Ba tôi có vẻ đăm chiêu khi nhắc tới chuyện về miền Nam sau tháng 4-1975. Ông nói:
- Ba về nhà sau khi Sài gòn được giải phóng, không một người bạn nào cho ba biết vợ con ba đã di Mỹ. Rồi ba về Cần Thơ. Khi tới giữa chợ Bang Thạch, bạn hữu của gia đình ra chào mừng ba, nhung không một ai nhắc tới má con. Cuối cùng về của ông ngoại bà ngoại, dì Bảy mới cho biết má con đã đi Mỹ, các con đã yêu cầu má đi. Trong mấy ngày liền, ba đau đớn lắm. Ba rất hổ thẹn mà thú nhận rằng ba không đáp ứng sự mong mỏi của vợ con. Nhung rồi ba cũng mừng, là ba không mất hẳn gia đình của ba.
Nói tới đây thì má tôi bước vô phòng. Ba tôi ngồi xích một bên để nhường chỗ cho má. Rồi ông nói tiếp:
- Khi ba mười sáu tuổi, là một người trẻ trung làm cách mạng, ba đã hiểu rằng bảo vệ tổ quốc không phải là một việc làm hay một nghề nghiệp mà là một bổn phận và danh dự của người dân. Trong lúc đất nước lâm vào nguy biến, làm cách mạng là một điều quan trong hơn bất kỳ việc gì khác trong đời ba. Người làm cách mạng tin vào lý tưởng mình đang theo, tinh thần phải vững mạnh, vì vậy gia đình là chủ yếu cho người làm cách mạng. Người làm cách mạng cần có một gia đình vững chắc bên cạnh để yểm trợ cho mình về mọi phương diện.
Ba đã tin tưởng như vậy và ba quyết định rằng người vợ tương lai của ba cũng là một người bạn đời của ba, người có thể làm cho tinh thần mình lên cao và ý chí mình luôn luôn vững mạnh. Người vợ của ba sẽ sanh con cho ba và nuôi dưỡng chúng nên người, dạy con ba yêu nước, yêu dân tộc. Ba để tâm tìm kiếm người đàn bà đó. Ba đã tưởng ba sẽ phải sống cô đơn tới già. Nhưng rồi, năm hai mươi sáu tuổi ba gặp có em gái của một đồng chí. Ba yêu cố đó ngay. Và, như một phép lạ, cô có đủ mọi đức tánh của một người vợ mà ba mơ ước. Ba thưa với ông bà nội rằng với giòng giống của hai gia đình như vậy, ba tin rằng sau nay ba sẽ có những đứa con tuyệt vời. Ông nội bèn chánh thứ hỏi cô gái đó cho ba.
Tôi thấy niềm vui trong đôi mắt sáng long lanh của ba tôi khi người hồi tưởng lại thời trai trẻ của mình.
Ba tôi mỉm cười rồi tiếp tục kể:
- Hoàn cảnh đất nước chúng ta hồi đó không cho phép ba được sống bên cạnh má con, nhưng má con lúc nào, kể cả bây giờ cũng là người gần gũi với ba, hiểu ba nhứt. Ba có thể hiểu được tình yêu và lòng chung thuỷ của má con. Những năm xa nhà, ba nhìn ảnh phản chiếu của một giòng sông im lặng và biết rằng ba không cô đơn. Khi bọn Pháp bắt giam nhiều người làm cách mạng, mối lo sợ lớn nhứt của các đồng chí của ba là con cái sẽ bơ vơ và gia đình sẽ tan nát. Nhưng trong tận đáy lòng ba, ba biết gia đình ta vẫn yên lành và con của ba vẫn được má chăm lo, nuôi dạy. Như vậy, các con thấy rõ là các con rất may mắn mới có bà mẹ như má.
Buổi trưa đó má tôi rầy cho tôi một mẻ:
- Con đã làm ba buồn. má không thích như vậy. Mình không có giúp ích gì được cho bên nhà cũng như người ở lại bằng cách chửi cộng sản trước mặt ba mày. Đừng có hành hạ ba. Đừng có giận cá chém thớt. Cái chế độ đó ra đời không phải để đem hạnh phúc cho dân, mà họ làm giầu làm mạnh cho đảng thôi. Không còn ai cứu nước Việt Nam được, luôn thằng Mỹ cũng chịu thua.
Con không được lớn lên với ba, nên cứ tưởng ba còn trẻ. Trong trí nhớ của con, ba trẻ trung, ba là Việt Minh chống Pháp những bây giờ ba con không còn trẻ nữa. Thôi, để ba về Việt Nam cho ông đem theo những kỷ niệm vui của cuộc viếng thăm này. Đây là lần cuối cùng mình gặp ba. Má yêu cầu con lên xin lỗi ba.
Trong gia đình, ai cũng biết tôi là đứa bướng bỉnh, cứng đầu; vậy mà sau khi má tôi dứt lời, tôi ngồi xuống đất khóc. Má tôi khóc.
Má tôi nhìn ra cửa sổ rồi nói thêm:
- Mà biết con đau đớn lắm, nhưng con còn trẻ, thời gian sẽ làm cho con khuây khoả. Trong khi đó, ba con già rồi, ba không có thời gian để hàn gắn vết thương nào. Đừng để ba mày khổ, tội nghiệp ba.
Trong phòng của Lance, ba tôi nằm nghiêng, lưng quay ra cửa. Tôi ngắm kỹ ông, thấy rõ xương vai dưới lớp áo trắng mỏng. Tôi nghĩ rằng má tôi nói đúng về cảm nghĩ của chúng tôi với ông. Tôi chưa bao giờ trông thấy ba tôi già như lúc này. Đối với tôi, ông luôn luôn là một người Việt Minh cương nghị, đầy nhiệt huyết của một nhà cách mạng chống Pháp. Bây giờ ba tôi già ốm yếu, với mái tóc hoa râm. Đây là lần đầu tiên tôi thấy ba tôi già. Nhưng tuổi già của ông lại khiến tôi không đồng ý với má tôi, là để ông trở về Việt Nam: tôi càng muốn giữ ông ở lại với chúng tôi.
Hồi còn nhỏ, tôi thường nghe má tôi ao ước sớm được sưn sóc ba tôi, muốn làm những món ăn ngon cho ông, muốn may quần áo, muốn nâng khăn sửa túi cho ba. Bà muốn cùng ông hưởng những giây phút sung sướng khi Hải Vân được khen thưởng mỗi cuối năm học. Ba muốn ông đi gặp ông hay bà hiệu trưởng khi ba nhận được giấy khiển trách về tội Hải Vân nghịch phá trong trường. Tôi thì lúc nào cũng chỉ mong ba tôi trở về gia đình, để tôi không bị mang tiếng là đứa con không có cha. Khi lớn lên, tôi vẫn cần có ba tôi. Những lúc này, khi bước vô phòng, tôi chỉ muốn săn sóc ông.
Tôi bỗng cảm thấy bầu không khí bao bọc chung quanh ba tôi và tôi trở nên mong manh quá, chỉ một bước hụt là tất cả sẽ đổ vỡ tan tành.
Tôi rụt rè để nhẹ tay lên cánh tay ông. Ông quay lại ngay. Ông nhìn tôi bằng đôi mắt hiền lành, bao dung như giữa chúng tôi chưa hề tranh luận gây gổ. Ông bình tĩnh, trìu mến nhìn tôi.
- Ba ơi, con xin lỗi đã làm ba buồn.
Ông trả lời ngay:
- Ba đã tha thứ cho con rồi, nhưng từ nay con đừng nhắc lại chuyện đó trước mặt mà nữa. Con chỉ làm má buồn thôi.
Ngưng một chút, ông tiếp:
- Con à, mình chỉ nên nói chuyện vui với nhau thôi. Trước khi thay đổi đề tài, ba muốn con biết rằng ba rất hãnh diện về cách giáo dục của má trong việc nuôi dậy con của ba, dầu rằng ba đã từng mong mỏi các con hiểu cho lý tưởng của ba.
Ba tôi đổi đề tài:
- Thôi, mình xuống nhà xem đồ chơi mới của Lance đi. Không biết ông già Noel đêm hôm qua cho nó cái gì.
Ông sửa lại quần áo cho ngay ngắn, rồi đi xuống phòng khách ở dưới nhà để gặp mọi người trong gia đình.
Tôi còn nán lại trong phòng và nằm lên đúng chỗ ba tôi vừa nằm lúc nãy để nghe hồi âm của ba tôi. Rồi tôi thầm hỏi:
- Không được gần ba hai mươi lăm năm trước, mà bây giờ cũng không; vậy lúc nào, hả ba? Ba ra đi khi con quá nhỏ để hiểu tại so”, mà bây giờ con già rồi, con vẫn còn mập mờ về mục đích và sứ mệnh ngày ra đi của ba.
Lần đầu tiên tôi muốn buông xuôi hết mối thù, và không hiểu sao ý nghĩ này làm tâm hồn tôi nhẹ như bay. Kệ FBI, CIA, Bộ tư pháp. Kệ luôn ông Griffin Bell bộ trưởng Bộ tư pháp, dù ông đã trông cậy tôi làm nhân chứng trong vụ án Trương Đình Hùng. Tôi mệt mỏi làm người đáng tin cậy. Tôi cảm thấy cô đơn trong sự lựa chọn này. Tôi cũng mệt mỏi, chán nản chuyện nài nỉ, thuyết phục ba tôi làm nhiệm vụ của ông với vợ con và gia đình.
Trên vách tường trong căn phòng tôi đang nằm, má tôi có treo một bức tranh của Đức Mẹ Maria bồng chúa hài đồng. Đức Mẹ nhìn tôi. Tôi vội ngoảnh đi chỗ khác để tránh đôi mắt nhắc nhở của ba, trong khi vẫn nhớ lời hứa của tôi mấy tháng trước. Đó là lời hứa với hai người đại diện của FBI và CIA ngay tại nhà tôi:
- Tôi sẽ ra toà làm chứng, nếu và khi nào Bộ tư pháp cần tới tôi, nhưng chỉ khi việc làm của tôi không phương hại tới địa vị và sự an ninh của ba tôi và anh tôi thôi. Tôi xin long trọng hứa với hai anh như vậy. Đó là bổn phận công dân của tôi. Tôi đã nêu ra kế hoạch này, và tôi sẽ chấm dứt nó một cách trọn vẹn.
Đó là lời hứa của mấy tháng trước, con bây giờ thì sao? Dường như cũng chẳng có gì quan trọng hết. Nếu ngay đêm nay tôi kêu điện thoại cho Rob và Bill để cho hai ông biết rằng tôi đã thay đổi ý kiến, thì lịch sử có gì khác không? Có ai quan tâm không? Tôi thầm nghĩ như vậy, khi tôi nằm trên giường.
Tôi nhìn tôi trong kiếng treo trên vách tường một hồi lâu. Đó là khuôn mặt của một người đàn bà đang tự thuyết phục mình nên bỏ cuộc. Tôi chống cự với người đàn bà trong kiếng, vì tôi biết tôi phải sống với sự quyết định này, từ đây cho đến ngày tôi nhắm mắt.

*

Đêm hôm đó, đêm 25 tháng Chạp, tôi lái xe đưa ba tôi về cư xá của toà đại sứ. Về nhà thì John và Lance đã lên giường nhưng chưa ngủ. Tôi nghe hai cha con kèn cựa với nhau về chuyện gãi lưng. Lance đề nghị:
- Nếu Daddy viết chữ từ A đến Z trên lưng con, tôi mới con sẽ đi trên lưng ba hai phút.
John đáp lại ngay:
- Không, con đi lên lưng ba trước, ba sẽ viết chữ sau.
- Nhưng Daddy luôn luôn ngủ mất tiêu khi con đi lên lưng, rồi Mommy nói “Để Daddy ngủ đi, Lance“. Lance nhại giọng của tôi.
John nài nỉ:
- Đi lên lưng ba đi, con.
Lance hỏi:
- Daddy muốn con đi lên lưng bao lâu?
- Càng lâu càng tốt.
- OK. Xong rồi đó.
Tiếng cười của hai cha con từ trên lầu vọng xuống nhắc cho biết tôi may mắn vô cùng. Từ ngày Lance ra đời, tôi ao ước sao tôi có thể đem niềm vui lại cho ba má tôi như niềm vui Lance mang tới cho vợ chồng tôi. Chúng tôi có nhiều chị em quá, nên má tôi quá vất vả mới nuôi nổi chúng tôi. Bà đã cố gắng không ngừng, đầu tắt mặt tối để lo cho chúng tôi nên người.
Má tôi ngồi trên giường nhìn ra cửa sổ, phía đường Regent Park; ánh sáng từ Camden Town chiếu lên mái những toà nhà xưa bên kia đường. Bà cầm trong tay một tấm hình nhỏ, đó là hình mới nhứt của anh Khôi, ba tôi mới đem qua. Anh tôi mặc áo sơ mi dài tay và quần mầu xám. Ảnh chụp tại phi trường Tân Sơn Nhứt; anh đứng trước một máy bay lớn của Mỹ C-130. Trông anh khoẻ mạnh và đẹp trai như thuở nào.
- Má không biết thằng Khôi nó sống ra làm sao? Mình có còn quan trọng đối với nó không? Hay nó là con bác, con đảng rồi? - Má tôi lau nước mắt bằng tay áo bà ba - Má thắc mắc về anh Khôi quá. Không biết tụi cộng sản có làm gì nó không? Họ có hại gì tới tinh thần nó không?
Tôi an ủi má tôi:
- Má à, anh sống với mình mười bảy năm trời, anh là người tốt. Con nghĩ cộng sản không thể huỷ hoại con cái trong gia đình mình được đâu, trừ khi người đó muốn như vậy.
Má tôi ăn tỏ vẻ lo lắng:
- Muốn sống còn, con người ta phải ngả theo trào lưu của xã hội, rồi quên hết phải quấy con ơi.
Má tôi nhìn hình ảnh Khôi một lần nữa, rồi luồn vô cái khuôn hình nhỏ.
Căn phòng nhỏ bé trở nên im lặng một cách khó chịu. Tôi nghe như trận bão trong lòng tôi bắt đầu trở lại. Ước gì đêm nay tôi nằm chiêm bao thấy được ông ngoại, để ông chỉ cho tôi gỡ cái rắc rồi này.
Tôi tin rằng nếu tình thương của ba tôi dành cho chúng tôi không tăng thêm thì cũng không tàn lui. Tình yêu của cha mẹ là bất diệt và vô điều kiến. Tôi đã từng nói với tôi rằng, làm con của ba má tôi không phải dễ, vì mọi người phải thấy rõ sự phức tạp trong mối liên hệ của mọi người trong gia đình. Chúng tôi phải hiểu và chấp nhận tình trạng hiện tại, nếu không, mình sẽ tự xây những bức tường ngăn cách giữa a mình với những người ruột thịt, máu mủ.
Đêm hôm đó, sau khi hai cha con John ngủ, má và tôi xuống dưới nhà để tiếp tục nói chuyện. Tôi ngạc nhiên, thấy thái độ của má tôi đã thay đổi. Ba đứng về phe ba tôi và yêu cầu tôi đừng nói gì làm ông buồn.
Suy nghĩ một lát, rồi, lần đầu tiên, kể từ ngày ba tôi tới Luân Đôn, tôi nói tới chuyện tôi làm việc cho hai cơ quan tình báo và phản gián:
- CIA sẵn sàng đưa ba sang Mỹ ngay nếu mình bằng lòng. Rob nói với con như vậy.
Má tôi liền cảnh cáo:
- Ba con sẽ tự tử, nếu con làm như vậy.
Tôi lại nói ngay:
- Con nghĩ con nên nói cho ba biết con đang hoạt động cho CIA.
Má tôi lắc đầu, khoát tay hốt hoảng.
Tôi giải thích:
- Con thì nghĩ, ba nên biết như vậy trước khi ba trở về Việt Nam. Con không muốn giấu ba một điều gì. Mà ba cũng cần biết để đề phòng.
Má tôi chậm rãi nói:
- Con cứ làm điều gì mà con thấy cần phải làm, cũng như ba con vậy. Con đừng có nghĩ con có tội vì con chồng cái đảng của ba. Con dính líu với CIA cũng không làm mất uy tín của ba con đâu, nhưng liên hệ giữa ba con và con sẽ chấm dứt kể từ đây.
- Con không biết xử sự làm sao má à? - Tôi nói yếu xỉu.
- Má biết. Cái gì ba không biết thì không ai hại được. Má biết, má không thể cấm con làm việc cho CIA, cũng như mà không thể đòi ba con bỏ cộng sản được. Con hiểu lòng trung thành nó ảnh hưởng con người đến mức độ nào rồi.
Má tôi nhìn tôi trách móc. Bà chỉ tay vô mặt tôi, nói tiếp:
- Con là người hiểu điều đó hơn ai hết.
Tôi biết má tôi phiền tôi làm về việc hợp tác với CIA và Bộ tư pháp.
- Con cảm ơn sự tháng thắn của má, những mà con vẫn nghĩ con phải cho ba biết việc làm của con.
- Biết sự thật?
- Dạ.
Ba nghiêm giọng nói với tôi:
- Con đã ráng hết sức của con. Con đổ mồ hôi, nước mắt vô việc này với họ. Còn con muốn tự tay con bắt hai thằng gián điệp, bây giờ sắp thành công. Con không muốn để nó lọt lưới, phải không?
- Dạ phải.
- Vậy thì con đừng nói gì với ba hết. Ông không kiếm cách cứu thằng Hùng, nhưng ba mày phải cứu chú Thi. Ông sẽ cố gắng che chở, báo về cho Bộ ngoại giao khỏi bị mất mặt, ông cũng sẽ bảo vệ quyền lợi của chánh phủ Việt Nam. Như vậy thì con với mấy người bạn FBI, CIA của con chỉ còn nước nhìn nhau mà khóc thôi!
Má tôi nói câu nào rõ câu đó.
Tôi cái bướng:
- Con nghĩ nếu con cho ba biết sự thật, có thể ba thay đổi ý, rồi ba ở lại đây luôn.
Trong khi nói, tôi phải giữ vẻ mặt bình tĩnh, vì chính tôi cũng nghĩ “ngu ơi là ngu”. Má tôi khuyên:
- Con phải giữ kín chuyện của con, tránh cho ba con khỏi che đậy, khỏi nói láo với đảng của ông về con gái cưng của ông. Ba con phải ở trong địa vị của một người vô tư, vô tội, một người bị con gạt, không biết gì hết, để yên thân ba. Con hiểu không?
Ba nghiêm giọng nói tiếp:
- Con không thấy ba con cẩn thận sao con? Ông không bao giờ hỏi mấy thằng rể làm gì, không bao giờ muốn biết cấp bậc của thằng John. Ba có hỏi má về chồng của chị Kim, chồng của chị Cương, nhưng bà chỉ muốn biết hai người đó có tốt với con gái của ông không thôi? Ba con không bao giờ hỏi tụi nó làm nghề gì hoặc giầu hay nghèo. Như một người tù binh, tốt hơn hết ba chỉ cần biết tên của con, tuổi của con, ngoài ra ba không nên biết gì về con hết.
Má tôi nhìn tôi một hồi lâu rồi cười, nụ cười vị tha, trìu mến. Bà có vẻ hài lòng. Tôi phục má tôi, trong hoàn cảnh này mà bà vẫn giữ được tính hài hước. Tôi nhìn bà, rồi hứa:
- Dạ, con nghe lời má. Con hy vọng má đúng.
Bà tỏ vẻ bằng lòng, tin tưởng lời hứa của tôi, rồi đi ngủ.

*

Ba tôi sẽ rời Luân Đôn ngày thứ Ba, hai mươi bảy. Vì vậy, ngày cuối cùng, ông muốn tôi đưa ông tới toà đại sứ Việt Nam. Ông muốn cám ơn các nhân viên toà đại sứ đã tiếp đãi ông tử tế. Nhưng ông cũng muốn tôi đi theo để gặp những người đã từng làm việc dưới quyền ông khi ông là đại sứ lưu đông ở các nước vùng Bắc Ây những năm 1970.
Toà đại sứ chưa có đại sứ chánh thức. Ông Trần Hoàn mỗi được chỉ định, những theo lời “đồng chí Chiểu” thì Bộ ngoại giao sẽ cử ông ta làm đại sứ.
Khi chúng tôi tới toà đại sứ, ba tôi gặp riêng ông Thi bốn mươi lăm phút để thảo luận về chuyện hành chánh. Ông Thi là người tạm thời lãnh đạo toà đại sứ, chờ Bộ ngoại giao chính thức bổ nhiệm một đại sứ.
Trong bữa ăn điểm tâm, hai vị còn nói tới thời gian cùng làm việc ở Oslo và Copenhagen, nhắc lại những đồng chí cũ hiện này giữ chức vụ gì và ở đâu, ở Việt Nam hay hải ngoại. Tôi mừng là ông Thi đã không hỏi nhiều về tình trạng sức khoẻ của má tôi, chắc chắn ông cũng được thông báo là má tôi “bịnh nặng”.
Cả ông Thi lẫn ba tôi đều khuyến khích tôi nên liên lạc thường xuyên với toà đại sứ để quen biết các nhân viên sau khi ba tôi đã về nước, ông Thi vui vẻ nói:
- Chúng tôi là gia đình của chị.
Gần trưa, ba tôi và tôi rời toà đại sứ để các nhân viên có thể về chung cư ăn cơm trưa. Chúng tôi vừa bắt đầu đi bộ dưới bầu trời xám ngắt của Luân Đôn, thì mưa lác đác rồi với những cơn gió lạnh buốt. Chúng tôi phải kiếm taxi để đi. Trong khi đứng chờ ở một góc đường, nhìn những xe taxi có khách chạy vụt qua, tôi nắm tay ba tôi. Vì tôi siết mạnh quá, ba tôi bị đau ngón lấy cái; đó là ngón tay bị gẫy khi mật thám Tây tra tấn ba tôi mấy chục năm về trước. Để thử lòng ba tôi một lần nữa, tôi nói:
- Ba à, con chưa bao giờ nói với ai chuyện này: năm con mười hai tuổi, con hay nghĩ tới Thượng đế, rồi con coi ba như Thượng đế của con. Nhiều lần con tự trấn an rằng “dù ba không ở gần con, nhưng ba vẫn ở bên con, như Thượng đế luôn luôn ở bên cạnh mọi người”. Con khắc phục được con sông Bến Hải, 1.600 cây số cũng không làm cho ba xa con được.
Ba tôi mỉm cười và tỏ vẻ bằng lòng.
- Ba muốn con hiểu điều này - ông nói - Ba con có trách nhiệm với nhiều người ở Việt Nam, trong đó có anh Khôi của con. Nếu con giữ ba ở lại đây, ba sẽ chết dần, chết mòn. Như vậy, ba cũng không ích lợi gì cho con của ba nữa.
Một lần nữa, trong khi nói với tôi, mắt ông nhìn về một nơi xa vắng.
Tôi giận ba tôi, vì ông một mực từ chối tôi. Bỗng tôi có ý định xúc phạm ông cho đã nư, đã giận. Tôi nói:
- Có thể ba không bao giờ muốn sống gần tụi con; sao ba không nói thẳng cho rồi!
Ba tôi cãi lại liền:
- Ba không nói vì điều đó không dùng sự thắt. Con hãy nhìn thẳng mắt ba để nghe ba nói, rồi ghi nhớ suốt doi. Con cũng nên nói lại cho chị em con và con cháu con cũng biết. Ba của con rất yêu con, yêu má con và các anh chị em con. Ba đã yêu như vậy trong quá khứ, và ba còn yêu mãi mãi trong tương lai. Ba đã phục vụ đất nước hơn bốn mươi sáu năm; ba vẫn tiếp tục phục vụ cho tới ngày đất nước không còn cần ba nữa. Nếu ba không trở về Việt Nam, ba sẽ chỉ là một người bỏ cuộc, một người đào ngũ. Lúc đó con có còn hãnh diện về ba nữa không?
Ba tôi nhìn tôi chằm chặp để chờ câu trả lời của tôi. Tôi mạnh dạn đáp:
- Con đâu có xúi ba đào ngũ. Con chỉ muốn ba về hưu để ở với gia đình. Để cho những người khác làm chánh trị trên sân khấu của Việt Nam.
- Bây giờ ba hỏi ngược lại con. Ba đã nghĩ vợ chồng con và Lance về sống ở Việt Nam. Ba sẽ không ép các con vô đảng cộng sản. Ba muốn các con về làm việc cho chánh phủ Việt Nam thôi. Chuyên môn của John về năng lượng mặt trời rất cần cho nước ta ngày nay. John sẽ được trả lương cao, và các con sẽ có một biệt thự riêng để ở, có kẻ hầu người hạ. Con nghĩ sao?
Tôi ớn lạnh vì đề nghị khủng bố khiếp của ba tôi, và ông biết ông đã thầng cuộc. Ông nói:
- Nào, bây giờ thì con hiểu tâm can của ba rồi. Minh đâu có khác gì nhau. Mình là con nhà họ Đặng, và mình sống theo nguyên tắc đạo đức riêng của từng người.
Ông nhìn tôi, nét giận hờn biến mất rồi nói tiếp:
- Con hãy cười vui khi ba trở về Việt Nam, và tin rằng ba của con lúc nào cũng xứng đáng với sự tin cậy của con. Ba sẽ hết lòng phục vụ dân tộc của chúng ta.
Tôi vùi mặt tôi vô vai ông để chùi nước mặt bắt đầu chảy xuống má. Tôi nghẹn ngào nói:
- Những hy vọng, những lo sợ kinh hoàng, những tuyệt vọng của người dân miền Nam Việt Nam là những hy vọng, những lo sợ kinh hoàng và những tuyệt vọng của chính con, ba à.
Trời lạnh run, tôi vừa nói vừa đánh bò cạp.
Ba tôi đã quen cái lạnh ở Liên Xô, cho nên cái lạnh của Luân Đôn không làm cho ba tôi khó chịu. Ông bình tĩnh nói:
- Ba hiểu ý con.
Đúng lúc đó, khi mưa chiến dịch nặng hạt, một xe taxi trống trờ tới. Chúng tôi vội vàng vô xe để về nhà. Ba tôi lau những hạt nước mưa đóng trên tóc bằng cái khăn tay má tôi mới tặng ba trong ngày Giáng Sinh.

*

Trong buổi họp mặt gia đình tôi hôm đó, má tôi bắt tôi không được nói tới chuyện chánh trị, Việt Nam, cộng sản, từ bản… hay bất cứ vấn đề gì có thể gây tranh luận. Suốt buổi chiều, tôi nấu nướng những món ba tôi thích. Trong khi đó, ba tôi chơi với Lance ở phòng khách, gần lò sưởi. Ông dậy cháu ông vẽ, rồi ông còn ngồi cho cháu vẽ chân dung ông. Khi Lance vẽ xong, John nhìn bức hình, nói:
- Con có hoa tay như ông ngoại.
Ba tôi có ý định ở chơi lâu với gia đình buổi tối cuối cùng, nên đã kêu cho người quản gia để báo tin ông sẽ về trễ. Ông đã vui với chúng tôi tới quá nửa đêm. Tôi nghĩ rằng “lệnh cấm” của má tôi đã khiến cho bầu không khí của buổi tối đó êm ấm. Ba và John nói chuyện về nhiên liệu mặt trời sẽ được sử dụng nhiều trong tương lai; ba tôi cũng hiểu rất nhiều về địa hạt này.
Tuy nhiên, đêm hôm đó cũng có một chút buồn, khi ba tôi kể lại chuyện gặp cô tôi, em ruột của ba. Sau ngày “giải phóng”, ba tôi tạm trú trong khách sạn Majestic ở Sài gòn. Một hôm, nhân viên trục ở quầy phía trước báo cho ba tôi biết có người muốn gặp ba tôi. Ông xuống ngay và thấy một người đàn bà là hoắc, ông tự hỏi: “Bà già này là ai đây?”
Vừa thấy ba tôi, người đàn bà đứng dậy đưa hai tay chờ ôm lấy ông. Ông giựt mình hỏi:
- Xin lỗi, chị là ai?
Người đàn bà oà tên khóc, ôm lấy ông, sụt sùi nói:
- Anh ơi, em, em là em… của anh đây!
Lúc đó ba tôi mới nhận ra có Sáu Trong, em của ba, từ Ba Càng lên Sài gòn tìm anh. Ba tôi thứ Năm, cô thứ sáu, cô nhỏ hơn ba tôi khoảng mười tuổi.
Lúc tôi rửa chén, ba đi theo nói chuyện. Đây là lên đầu tiên ba tôi nhắc tới những vấn đề rắc rồi của anh Khôi với chính quyền Hà Nội mấy năm về trước.
Ba tôi lúc nào cũng quan tâm tới anh, nhưng chính anh lại gây cho ba tôi nhiều chuyện khó khăn, phiền phức. Khi ở Hà Nội, theo lời ba tôi kể, anh quan hệ với nhiều phụ nữ, khiến các đồng chí cao cấp của ba tôi chau mày. Có người đã cố gắng thuyết phục anh sửa đổi, học tập để trở thành một người có hạnh kiếm tốt, ngõ hầu có thể được thu nhận vô đảng cộng sản, nhưng anh làm ngơ. Điều này đưa ba tôi vô cái thế rất khó xứ.
Trong thời còn chiến tranh, một nữ mật vụ của công an ngầm được lịnh điều tra anh Khôi, giả bộ làm người tình của anh. Một đêm, sau khi anh ngủ thiếp đi, cô mật vụ gắn máy nghe lén dưới giường và bàn viết của anh. Bất chợt anh thức giấc, bắt quả tang nên nổi nóng đánh cô ta. Anh bị đưa ra toà về tôi “nhục mạ một nhân viên nhà nước”. May mắn cho anh, ông chánh án lại là bận của ba tôi và ông tin lời của anh Khôi, khai không biết tình nhân là “nhân viên nhà nước”. Nhờ vậy, anh không bị kết tội về hành vi chánh trị.
Ba tôi tiếp tục:
- Anh của con đã lớn, ba không thể bắt buộc nó phải nghe lời ba. Nó có làm gì, thì vẫn là con của ba; ba không thể giận nó lâu được.
Ba tôi thương anh Khôi quá, nên đã tha thứ mọi lỗi lầm của anh dù những lỗi lầm ấy làm ông mắc cỡ. Tôi lại phân tách rằng, cũng có thể trong tâm thức của ba, anh Khôi là hiện thân của một người dân muốn sống tự do; anh như một luồng gió sạch, lành mạnh trong đời sống của ông. Anh Khôi là cái gì thật, rất bình thường, trong cái thế giới giả tạo của xã hội chủ nghĩa. Anh như con cá cần nước, con hổ nhà rừng; nếu mất anh Khôi, ai nhắc nhở ba ngoài kia người dân cũng muốn sống.
Đêm hôm đó, chúng tôi không khóc khi ba tôi từ biệt. Ba má tôi đã nói chuyện riêng với nhau thật lâu trước khi ba tôi ra đi. Ba tôi ôm chặt từng người từ trong bếp, rồi ra phòng khách ông còn ôm má tôi lần nữa, ông hơn Lance và ôm ghì thằng cháu của ông lâu thật là lâu. Ông bắt tay John, rồi ôm anh và nói:
- Cám ơn con của ba. Khi nào tình thế giữa hai nước thuận tiện hơn, ba sẽ mời con về thăm Việt Nam.
- Anh ráng kiếm cách cho Khôi qua đây nhen! - Má tôi câu cuối cùng.
Ba tôi im lặng, đội nón lên, rồi cầm lấy cái túi xách từ tay bà, đi ra cửa mà không ngoảnh lại nhìn.
Tôi lái xe chầm chậm về nhà trọ của toà đại sứ, mà muốn đường dài hơn chút nữa.
Đường xa vắng vẻ và yên lặng trong đêm khuya. Lúc đó gần một giờ sáng. Cái túi xách để dưới chân ông. Trong túi có hai bộ quần áo ngủ mới, hai áo sơ mi và mấy cái quần xà lỏn má tôi mới may cho ông. Ngoài ra con hai cái sơ mi mới của anh Khôi nữa.
Chúng tôi đánh thức ông quản gia dậy, ông mở cửa cho chúng tôi vào, rồi lặng lẽ đi ngủ lại ngay. Tôi muốn giúp ba tôi thu xếp hành trang, nhưng ông từ chối và nói:
- Ba quen xếp hành lý một mình, vì xếp lấy ba mới dễ tìm đồ ba cần.
Cuộc sống của ông đã khiến ông quen làm như vậy. Mọi thứ phải theo khuôn khổ, hạn chế trong một giới hạn nào đó. Cái trật tự ấy khiến ông thoải mái trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tôi thắc mắc, ba tôi sống với những thôi quen và trật tự đó quá lâu, không biết ba tôi còn có thể hoạt động bình thường không, nếu được tự do. Ông có sẵn sàng tìm tự do nếu không bị cộng sản kiềm chế không? Tôi cần tìm hiểu ba tôi một chút nữa. Tôi ngồi xuống mép giường rồi nắm lấy tay ông, hỏi:
- Ba, bây giờ không đúng lúc, cũng không đúng chỗ, nhưng con muốn hỏi ba một điều.
- Cứ hỏi đi.
Tôi hít vô một hơi dài, rồi đánh liều như người chơi thể thao phóng từ đỉnh núi xuống một giòng sông. Hên thì sống, mống thì chết, tôi hỏi:
- Nếu con công khai chống lại chánh phủ của ba thì ba có bị ảnh hưởng gì không?
Ông có vẻ bực mình, nuốt nước miếng, rồi đáp:
- Ba là một thành phần của Chánh phủ mà con vừa nói tới.
Tôi nhấn mạnh:
- Con chống Chánh phủ, chớ không phải chồng ba!
Ông nói bằng một giọng lạnh lùng:
- Con là con, ba là ba. Ba không chịu trách nhiệm những hành động của con.
- Nói một cách khác, nếu con công khai chống Hà Nội, ba có bị khiển trách gì không? Con muốn biết rõ điều này.
Ông có vẻ giận dữ, lắc đầu, nói sang chuyện khác:
- Bây giờ trễ rồi, sáng mai ba phải dậy sớm vì ba phải tham dự một buổi họp ở toà đại sứ.