Một chuyện ghê gớm (2)

     ấy giờ máu khắp mình tôi dồn cả xuống mặt. Đầu ù, mắt hoa, da mặt nóng như hơ lửa, cổ chân đau như bị tiện, mình mẩy nhức nhối vừa bởi lằn dây thắt, vừa bởi lằn roi. Hình như thằng khách có một thuật riêng về đòn vọt. Mỗi cái vút của nó tôi lại phải nghiến răng lại để khỏi kêu. Tôi cố giữ vững lòng khảng khái. Nét mặt không đổi, nhất quyết không lộ ra vẻ sợ hãi đau đớn. Mắt tôi lẳng lặng nhìn thằng khách cho nó thấy tôi khinh bỉ nó không biết ngần nào. Nó càng thêm tức tối. Nó tưởng rồi tôi phải van vỉ nó, có lẽ nó muốn xem tôi khổ sở kêu khóc cũng nên. Tính mệnh tôi ở trong tay nó, đã đành. Nhưng như thế chưa hẳn là tôi bị thua nó. Tôi còn một thứ để nó phải thấy là phần thắng ở tôi ấy là sự nhẫn nhục, sự thản nhiên, cái thái độ khinh sinh của người quân tử. Thành thực mà nói, tôi đã phải gắng sức kiên cường, phải tưởng nhớ đến các gương oanh liệt, mới cầm vững được can trường. Nó thấy tôi không thèm coi sự hành hạ của nó vào đâu, nó giận sôi lên. Nó rít răng lại mà đánh tôi như một thằng điên cuồng. Roi rát như đốt da thịt tôi, quất gấp trận đổ hồi lên cái thân trơ trơ sắt đá, mồ hôi đã thành giọt lăn trên mặt tôi. Tôi hết lòng mong nó tức giận nữa lên, đến phát khùng lên mà giết ngay tôi tức khắc.
Nó vẫn không quên người con gái. Vì thế ngừng được một lát, tiếng khóc của cô ta lại từng chặp nổi lên ảo não thê thảm bên tai tôi. Có gan chịu nổi thứ đòn thù dữ dội kia, tôi lại không nén được lòng thương con người tội nghiệp ấy. Thực đáng thương lắm. Trai trẻ như tôi bấy giờ mà còn phải trẹo hàm răng đi để cố nín thinh, huống chi một người con gái yếu ớt, thân thể lại bộc lộ. Thằng khách lúc đó trông hung bạo hơn cả loài ác thú. Tôi thù ghét nó đến cực độ. Sự phẫn nộ đã đến lúc khó nén được yên. Tôi đem hết khinh bỉ vào trong một câu rẽ rọt ghê gớm như một lời tuyên án, một lời nguyền. Tôi nhìn thẳng vào mặt nó mà nói: “Đồ phi nhân, chúng tao chết đi vong hồn sẽ báo oán sẽ theo đuổi mày không biết đến mấy mươi đời”. Thằng khách dừng tay lại nhìn tôi sừng sộ một lúc, rồi mặt đang trang nghiêm, nó bỗng nhăn tít lên mà cười. Nó vừa đưa đẩy gật gù cái đầu vừa cúi xuống gần mặt tôi, sì sồ nói như bảo cho tôi biết rằng: “Mày cứ đợi đó, ta cho mày biết một lối chết thực là hay hay”.
Nó đi lấy nến đốt nối vào bốn cây cháy gần hết, rồi nhăn nhở đi nhổ một con dao trên phiến gỗ, đưa qua mắt cho tôi xem. Nó nói gì tôi không hiểu nhưng vỡ nghĩa ngay, vì con dao kia nó đem chồng đằng chuôi xuống đất, mũi dao trổ thẳng lên chính đầu tôi. Tôi đoán lát nữa, dao cắm đã vững chặt, nó sẽ cắt đứt cái phần dây vẫn giữ tôi lửng lơ dưới trần hầm; tôi sẽ rơi tuột xuống, đầu tôi sẽ đâm xuống lưỡi dao, hay nói đúng hơn, lưỡi dao sẽ cắm ngập vào đầu tôi.
Nhưng nào nó đã cho tôi hưởng cái chết nhanh chóng ấy! Như thế chẳng khác nào thí ngay cho tôi một nhát rảnh đời sao? Cái phần dây rút tôi lên móc sắt trần hầm, vẫn buộc một quãng ở cái vòng sắt đầu phiến đá lớn: thằng khách quay mình tôi lại để tôi dễ nhìn thấy nó cởi nút buộc ra. Cởi xong, hai tay nó nắm chắc lại, rồi thả dần ra cho đầu tôi hạ xuống đất. Nghĩa là nó muốn làm một ác thần cầm giữ cái giờ tận số của tôi. Nó thả xuống, chỉ cho mũi dao chạm vào da tóc, là lại kéo người tôi lên ngay. Kéo hết mực lại thả xuống. Cứ thế tái tam tái tứ, lần nào tôi cũng tưởng là lần quyết liệt cuối cùng! Có lúc buông từ từ, để tôi thấy cái ghê buốt xuyên từ óc vào suốt sống lưng; rồi thoắt lúc lại buông mau. Tay nó điều khiển một cách khôn khéo rất tinh ma, vừa kéo tôi lên cao, bỗng nó để buột dây, đầu tôi vừa chấm mũi dao thì nó giữ lại kịp. Nó cười khoái trá lắm, trong lúc ấy thì tôi toát mồ hôi lạnh. Lối giả vờ quái gở ấy nhắc lại luôn mấy lần. Ví phỏng tôi giàu có mà nó dùng cách ấy để khảo của thì có dễ tôi đến phải xưng. Nhưng đòi lấy một lời năn nỉ bấy giờ thì có phương khủng khiếp hơn cũng vô ích. Tôi không dám nói là mình không sợ chết, nhất là cái chết theo kiểu độc địa kia. Lòng tôi lúc ấy chua xót vô cùng, tâm trí cũng dị kỳ lắm. Vẫn mong cho nó giết đấy, lúc tưởng phải chết lại mong nó khoan tay. Cái lòng muốn rút cho xong tức thì lại có lòng muốn sống thêm chút nữa đối ngay lại. Thằng khách có biết tâm sự tôi không mà nó làm khổ tôi đến thế? Tuy vậy tôi nhất định không để lộ một vẻ gì khiếp nhược ra bề ngoài, cả đến sắc mặt tôi cũng cố không để biến.
Thằng khách thấy tôi trơ trơ, không một tiếng kêu thốt nhiên, không một hơi thở mạnh, thì căm giận lắm. Cái lối hành hình của nó hóa ra nhàm, hóa ra nhụt trước sự kiên cường, khó chuyển của tôi. Trước nó còn hầm hầm phun ra những lời tức tối, sau nó như lấy làm lạ, nhìn tôi chăm chú lẩm bẩm nói như thách thức, như nạt nộ: “Được lắm được lắm, rồi mày biết tay ta!”. Rồi nó cột dây lại như cũ, ngồi nhìn quanh quẩn ra vẻ suy nghĩ nhiều lắm. Tôi biết nó đang nghĩ cách hiểm ác hơn để làm tôi đến điều khốn khổ. Nhưng tôi đã nhất quyết không để nó được vui sướng mà trông thấy cái chết trong lòng tôi lúc bấy giờ.
Người con gái rũ rượi lõa lồ kia vẫn không nhịn được rên khóc. Tiếng khóc nấc lên từng hồi. Tóc cô ta xõa thành nhiều món hỗn độn bết vào nước mắt nước mũi, với những vết máu rướm trên mình. Tôi bị treo cách bản gỗ dựng không xa, song dần dần mắt tôi hoa lên, lắm lúc chỉ trông thấy một hình thể mờ trắng, có những ánh lửa lấp lóe trên mấy lưỡi dao sát cạnh cô ta. Thằng khách chừng không để tâm đến cô ta nữa.
Nó đứng dậy quay đầu nhìn khắp hầm, dáng vẻ băn khoăn suy tính. Mắt nó gặp mắt tôi hai ba lần, hằn học, thâm hiểm. Bỗng nó phát tay lên dúi một cái reo lên chặng cười thích ý, nói lảm nhảm một thôi một hồi. Tôi chớp mắt, chăm chắm đợi, thì thấy nó ôm ở đâu ra một tảng đá lớn, rồi nhanh nhảu đi lôi cái nải gạo ở chân cầu thang vào để một bên. Trong hầm đất này, cái hình vóc to sù kia qua lại, cử động có một vẻ hoạt bát dị kỳ như một bóng ác quỷ trong một địa ngục lạnh lẽo.
Nó hạ tôi xuống. Lựa cho ngực với bụng tôi nằm áp mặt đất, bên cạnh con dao nhưng chân vẫn bị treo ngược. Tôi không rằng, không nói, không một mảy may chống cự vô ích cứ lẳng lặng mà xem nó làm. Nó cởi bỏ cái dây chão quấn bó người tôi ở lần ngoài cùng đi, rồi kéo hai tay trói kẻ sau lưng tôi mà buộc làm một với hai chân; gối tôi liền gấp lại. Tôi chẳng khác gì một con vật sắp bị đem làm thịt. Người tôi lủng lẳng sát đất, ngực ưỡn mũi dao sắc, búi tóc sổ rủ xuống hai bên thái dương.
Thằng khách lại rút tôi lên, rút lên giữa chừng cái khoảng từ trên hầm với mặt đất. Giữ như thế làm mực nhất định, nó bắt người tôi bị kéo lên hạ xuống mấy lượt nữa. Chỗ mỏ sắt dây thừng cọ đi cọ lại từ trước lúc đó đã nhẵn bóng, tay kéo đã thêm dễ mà tiếng dây siết đã êm hơn. Chán rồi nó mới đem buộc kỹ lưỡng đầu nải gạo với tảng đá lúc nãy vào với nhau, lại buộc phần dây thừng buông kéo tôi vừa rồi vào hai thứ ấy. Buộc xong, nó còn thử xem nải gạo với tảng đá có đủ nặng cho người tôi khỏi lôi bỗng lên được không. Thử đã vừa ý - sức nặng của tôi với hai vật kia vẫn thăng bằng, thằng khách liền buông tay ra. Người tôi lúc ấy lửng lơ, không rơi lên được lưỡi dao dưới đất. Thằng khách bèn lấy con dao khác, chọc một lỗ, ở đáy nải cho gạo chảy ra dần. Bấy giờ tôi mới hiểu cái độc kế của nó.
Nó khoanh tay ngắm cái công trình cơ xảo độc dữ của nó, vẻ đắc chí hớn hở trên mặt. Tôi lấy làm ảo não mà hiểu rằng lần này thế là hết, lần này thi cái phép tuyệt diệu của nó sẽ đưa thẳng tôi đến cái chết sau cùng. Nó đang ngồi chăm chú dò xem thần sắc của tôi, sực nhìn lên thấy người con gái nức nở. Nó đùng đùng nổi giận, vớ roi nhảy lên vừa quát tháo vừa thẳng cánh vụt. Người con gái lại gào khóc. Nó càng hăng đánh. Tiếng roi bay vun vút như quật đen đét vào trong những tiếng kêu thảm thê. Tôi nghe chừng người con gái đã nhược sức lắm. Trận đòn vẫn dư, mà tiếng khóc như yếu đi, nghe càng chua xót, càng não lòng thêm nhất là vì tôi biết cái số mệnh của tôi cũng không được bao lâu nữa.
Dòng gạo trắng bên cạnh tôi vẫn không ngừng chảy. Cái dây treo tôi bắt đầu cựa ở chỗ móc sắt, các thớ da thịt thân thể tôi gai sởn cả lên. Huyết mạch chuyển qua từng đợi sóng bàng hoàng. Người tôi chốc chốc lại tưởng tụt mau xuống một cái.
Nải gạo đã vơi đi chừng ba bốn đấu, hạt gạo rơi bắn tản mạn trên mặt đất đã thấy dần dần thành có chỏm, mà mỗi khắc một cao dần. Thằng khách chợt để ý. Nó vội lấy chân vun hết gạo hất thật xa. Từ lúc ấy nó vẫn coi chừng giữ cho cái khoảng đất xung quanh con dao bao giờ cũng quang phẳng.
Lưỡi dao loáng sắc yên lặng chĩa cái mũi nhọn lên ngực tôi, như đợi chờ ở đó đã lâu như một thứ khí giới yêu ma, chỗi mọc từ một cõi âm ty nào. Lưỡi dao đó chỉ lát nữa sẽ ngập vào tim phổi tôi, tôi sẽ giẫy giụa hấp hối biết bao lâu, rồi người sẽ cứng còng, chân tay co quặt trong một dáng thiểu não!
Gạo cứ chảy. Tôi cảm thấy từng mẩu dây chậm chạp tuột qua vòng móc. Chẳng mấy chốc nữa đồng cân bên gạo rút đi, mà người tôi sẽ gấp mau sức nặng thêm.
Tôi thực là trông rõ thấy mình chết.
Mặt tôi nóng như tức máu, những vết trói, dấu đòn không biết đau nữa, trống ngực đập đến tức thở, hai tai nghe ào muôn nghìn tiếng rất lạ lùng. Ồ! Cái chết phi thường, cái chết tai quái! Nải gạo kia tức là một thứ đồng hồ, mà gạo trong nải tức là những giọt nước vô cùng thảm khốc, vô cùng khắc nghiệt, mà mau chóng làm sao! Gạo tuy cứ đều đều từ từ mà rơi, nhưng thoát ra lẻ nào vực nào là cái chết nghiêm khẩn, khắt khe lại gần chừng ấy! Cái thời khắc vừa quá ngắn, lại vừa dài ghê!
Tôi bắt đầu nghĩ đến thân thế tôi, đến quê hương tôi, nghĩ đến tất cả các bằng hữu thân thích tôi, đến cuộc đời của tôi đáng lẽ còn dài, còn nhiều bước hạnh ngộ tốt đẹp, còn bao nhiêu hứng vị sẽ được hưởng ở bao nhiêu độ tiến của tuổi trời. Đột nhiên đến bây giờ là đoạn tuyệt! Tôi phải chết. Mà chết bởi một kẻ thâm độc ở đâu chợt đến, chết vì một việc kỳ quái, vô nghĩa lý, chết thầm kín, chậm chạp, giữa lúc khỏe mạnh, tỉnh táo: trong giờ bi đát không được xuôi ruỗi, không ai phủ khăn vuốt mắt; chịu để cho một lưỡi dao bình yên giết hại; chết trong lúc làm trò vui mắt cho một con quái vật nó lấy câu nguyền rủa để làm lời tiễn tống mình. Bao nhiêu ý nghĩ chua xót thấm thìa!
Người tôi hạ xuống một gang rồi hai gang.
Nhưng tôi biết trước rằng chẳng mấy chốc, khi nải gạo vơi quá nửa, nhẹ bổng đi thì tôi sẽ rơi xuống thẳng một mạch, chứ không dần dà được mãi như lúc này. Ý nghĩ cay đắng ấy chói buốt tâm can. Chẳng biết tôi làm thế nào mà giữ được thần sắc lạnh lùng chứ thực tôi thấy lòng tôi thảm hại quá, thiểu não quá. Mắt tôi đến lúc lóa thêm rồi, nhìn cái chân quét gạo của thằng khách chỉ thấy một hình thù sẫm xanh cử động, nhưng lưỡi dao như sáng thêm, dài thêm. Cái dây chão kia thực là dây treo tính mệnh tôi, mà thực cũng mảnh hơn sợi tóc.
Dòng gạo trắng đổ xuống một vệt thẳng mơ hồ, cái thăng bằng đã thiên lệch nhiều. Nải gạo với tảng đá không ở tầm nhìn của tôi nữa. Càng khắc tôi càng thấy người thêm nặng giá tôi quẫy mạnh lên một cái thì xong nợ tức thì. Nhưng tại sao lại không? Tôi cứ ở yên, cố sức lặng yên. Cứ y như là vẫn trông mong một sự gì đây: nhưng bấy giờ thì trông mong gì được! Nải gạo nhẹ lắm rồi. Dây chuyển qua chỗ móc sắt cấp thiết thêm. Tôi nín thở lại mà gạo vẫn cứ chảy. Chẳng biết vì cớ gì người con gái gần tôi vẫn khóc: thằng khách đã nghỉ tay đánh từ lâu. Tôi phảng phất thấy một khuôn mặt tròn, nhăn nhở cười, nhe trắng một mảnh răng. Nó áp mặt rất gần để xem tôi hấp hối. Miệng nó thổ ra những tiếng như gầm ghè, hục hặc. Rồi lại hề hề cười. Vừa cười, vừa hô, vừa lấy tay đánh nhịp để thúc giục cho gạo chảy mau hơn nữa, cho tôi thêm mau rơi xuống, cho mũi dao cắm ngay vào ngực tôi.
Tôi chịu sự khốn khổ đến mức cùng tột mất rồi, phải nhắm mắt lại để đợi, mà cũng là để thôi nhìn cái mặt ác thú kia. Tôi buông sức cố gắng ra, tâm thần hồ thành mê loạn. Chỉ trong khoảng hai hơi thở, hai nhịp trống ngực mà tôi thoáng nghĩ đến trăm nghìn muôn ức hình ảnh kỳ quặc, thoáng nghe thấy hỗn hòa những tiếng ồn ào. Mà bên tai vẫn nhận rõ tiếng người con gái vẫn thút thít, với lại tiếng thằng khách hô nhịp không ngơi mồm. Rồi như xôn xao tiếng người thưa thưa gọi gọi, lại như huỳnh huych những tiếng tấp nập chen chúc ở đâu đây. Người tôi như ngã từ trên mây, rơi tuột xuống rất nhanh. Nhưng không có một chút gì là đau đớn hết. Có tiếng gọi ôn tồn ngay bên cạnh.
- Anh Triệu à, anh còn tỉnh chứ?
Tôi thấy tôi hẫng lên, rồi hạ nằm nghiêng dưới đất. Tiếng vừa rồi tưởng như nói trong thế giới nào. Tôi mở mắt, thấy toàn là người quen cả: không biết xuống đây từ bao giờ? Bạn săn của tôi đã lấy dao gỡ hết dây trói, chân tay tôi đã thoát nhưng vẫn tê dại, họ phải xốc đỡ tôi ngồi lên. Tôi vẫn mơ màng chưa hiểu ra sao. Bao nhiêu miệng cùng thăm hỏi mà mình vẫn cứ ừ ào chưa nói lên được. Trông đến người con gái thì mặt xám ngắt như chàm đổ, bấy giờ bất tỉnh, vẫn bị giằng trói, vẫn trần truồng. Tôi cũng không phân giải được câu nào, chỉ lấy tay ra hiệu cho họ nhổ dao quanh mình rồi cởi trói cho cô ta. Còn thằng khách thì đã bị năm sáu người đè xuống, đang lấy dây quấn chịt từ đầu đến chân.
Bấy giờ tôi biết là thoát nạn rồi, nhưng phải nghĩ mới dám tin là chắc chắn.
Một lúc lâu nữa tôi mới thực hoàn hồn. Người con gái hơi thở đã mạnh, mắt đã lại sắc dần, họ đã lấy quần áo của tôi mặc cho, đặt nằm một nơi đợi cô hồi tỉnh. Tôi bèn đem việc ở dưới hầm sơ lược kể cho họ nghe nhân lại hỏi sao họ biết được tôi bị khốn ở đây mà xuống cứu.
Người Nùng đêm ấy bàn nhau nghỉ săn sớm, cuối canh ba đã gọi nhau trở về khác hẳn lệ thường cứ đến gần sáng mới nổi hiệu mãn cuộc. Họ định trưa mai đem da cọp đi trình ông châu Lùng Sa. Vào đến miếu, họ không thấy tôi đâu, điểm xem thì lại thấy mất một nải gạo. Họ còn chưa hiểu duyên cớ thì bỗng văng vẳng nghe tiếng rên khóc cùng với tiếng quát tháo. Họ ngạc nhiên lắm, lẳng lặng tìm sục các nơi xem. Không thấy gì cả, nhưng tiếng khóc tiếng mắng vẫn còn. Trước họ còn tưởng là chính ông thần miếu này đang nạt nộ sau mới chợt tìm ra lối xuống hầm. Thì ra lúc tôi chực trốn lên, tôi đã hé mở được phiến gạch mà thằng khách vô tình không đậy lại. Tiếng dưới hầm do đấy vẳng lên, người Nùng mới vì thế biết được lối xuống. Cũng may, họ không làm ồn. Còn thằng khách thì phần vì đang mải, phần không ngờ, nên không nghe thấy gì hết. Họ mở nắp hầm lên, trước hết trông ngay thấy người con gái trước phiến gỗ, thấy tôi đang bị treo, rồi thấy thằng khách quay lưng ra, tay đang khoa, miệng hò hét. Họ máy nhau rón rén xuống cả nấp sau bóng cột rồi cùng một lượt ồ lại bắt thằng khách. Hai bên xung đột một lúc thằng khách mới chịu thua. Trong khi đó, hai người đến cứu tôi. Họ vừa kịp đón lấy tôi chính giữa lúc tôi tuột thẳng xuống. Trước hết lấy chân xéo đổ con dao dưới đất, một người bế nâng tôi lên cho người kia cắt dây.
Thực hú vía! Muôn phần tôi không ngờ được một là còn được sống ở đời. Trong bụng vui mừng mà tôi vẫn trơ trợn bàng hoàng, tâm thần như chưa thực hẳn.
Chúng tôi bàn định ngay hôm ấy sáng rõ thì dẫn người con gái với thằng khách lên châu Lùng Sa, để quan châu tra vấn. Tôi bảo bạn săn hãy vực người con gái lên trên miếu để khi tỉnh dậy khỏi phải trông thấy quang cảnh khủng khiếp dưới hầm.
Bỗng từ chỗ thằng khách nằm, mấy chặng cười rống lên. Tiếng cười nghe thực ghê rợn, không ra tiếng cười ròn, không ra tiếng khúc khích mà cũng không hẳn tiếng cười nữa. Cứ thấy khê nặc lên từng hồi những tiếng “hô hô” “hệch hệch” rất lớn, vang âm quái gở, nghe gần tựa như tiếng ễnh ương hay ếch trâu nó ỳ òa ỳ oặc liên thanh sau những trận mưa rào. Ai nấy kinh ngạc đứng phỗng ra. Lúc đến gần, soi đuốc xem thì trên mình thằng khách máu trào ra như chan, đổ ngòm hai tay nó lại vũng cả một khoảng mặt đất. Thì ra tay bị trói đè lên bụng nó đã cố lần lách vào lần áo trong móc ruột ra mà tự tử! Ngăn cản thì đã quá muộn. Thằng khách không giãy giụa, chỉ co giật mấy cái rồi đờ người, nằm im. Nó chết mà hai mắt vẫn trừng trừng còn mở, nhìn trao tráo vào mắt tôi. Tôi rùng mình bất giác lại tưởng đến hai mắt tôi bất chợt hôm nào, rồi lại nhớ đến hai mắt con trăn... Mắt người đã chết rồi mà sao vẫn có cái sức yêu ma đến thế! Suốt đời tôi khó mà quên đi được, mà mỗi thốt nhiên nghĩ tới thì vẻ nhìn quái gở lúc đó vẫn còn xiên qua khắp tâm hồn tôi. Lại còn tiếng cười kia nữa, tiếng cười kỳ quặc, khủng khiếp! Tôi tưởng như đó là những câu đe dọa ghê gớm: trước khi nó chết, hình như thằng khách hẹn với tôi rằng nó sẽ không quên tôi, nó còn tìm được mưu độc hại cho bằng được tôi để báo oán. Trong cuộc đời tôi sau này, mỗi khi bị hiểm trở, mỗi lần mắc phải tai ương nào, tôi lại nghĩ là do vong hồn con ác quỷ kia xui nên. Cả trong yên vui tôi cũng thường chột dạ. Oan khí như không bao giờ tiêu tan hết, bao nhiêu căm hờn, bao giờ cũng theo đuổi bước đời của tôi ám ảnh sự thái bình của tôi: không có cách nào trừ đi được.
Cả bọn người Nùng đều lắc đầu lè lưỡi trước cái chết đột nhiên mà phi thường này. Còn tôi thì như đã quen, đã dạn những điều quái đản từ trước, tôi không lấy sự thằng khách cấu rốn tự tử làm quá đỗi lạ lùng. Chỉ ngấm ngầm lo sợ không dám nhìn đôi mắt mở của thằng khách, tôi nín thinh, vừa rờ tay thăm lại những dấu đòn trên người, vừa đi xem xét khắp hầm vừa ngẫm nghĩ.
Tôi bụng bảo dạ: những việc xảy ra dưới hầm này đêm hôm đó, tất thằng khách đã rắp tâm từ lâu, mà chừng làm quen tay lắm, cho nên mới sẵn những hình cụ như bản gỗ, những móc xích với những dây thừng. Các thứ ấy đã cũ đã rỉ ra cả. Công việc hắn làm có lẽ không hề ai biết, không từng có ai cản trở. Bỗng đến nay, thấy một bọn người từ đâu đâu kéo đến làm cho hắn kinh lạ. Hắn phải để mắt dò xét cẩn thận: những lúc thốt nhiên thấy cái bóng áo chàm xanh trong rừng, có lẽ chính là những lúc thằng khách lẩn lút quanh quất đó mà dòm dỏ chúng tôi. Cả bận hắn lẻn vào trong nhà lều, hẳn cũng là một phen trốn tránh những lúc bí thế; không chừng thằng khách nhân dịp ấy còn muốn gây cho cái thói mê tín của người Nùng thêm vững, để cho họ đừng chú ý đến các tính cách công việc riêng của hắn cũng nên. Hay ngoài ra, lẻn vào lều hắn còn chú ý gì khác nữa, thì tôi không đoán ra được. Lúc hắn lẻn vào trong miếu, chỉ có tôi trông thấy hút; nhưng dù cho cả mọi người trông thấy nữa, hắn cũng biến mất tích như một bóng ma. Lúc ấy thì nào ai ngờ đâu đến cái hầm dưới đất? Thằng khách chỉ việc lật cái phiến gạch, nhảy xuống, đậy lại như cũ, thế là đủ cho bọn người sẵn lòng tin chuyện biến ảo, yên trí là vừa gặp vía quỷ thần. Trốn ở dưới hầm, giá thằng khách biết rằng trên miếu người ta đang lửa hương cầu cúng hắn, chắc cũng phải lấy làm buồn cười. Rình mò nghe ngóng mấy hôm, thằng khách dò biết chắc chắn rằng chúng tôi là bọn đi săn, mà chỉ ban đêm mới kéo ra khỏi miếu, hắn mới đem tội nhân của hắn xuống. Hắn không ngờ là trong miếu đêm ấy lại có tôi, sự tình cờ đã khiến tôi biết được những “chuyện kín” ghê gớm dị thường kia, lại cũng khiến tôi phải một phen kinh khủng hút chết.
Song thằng khách là người thế nào? Vì những lý do gì mà lại đến tận chốn này mà thi hành những việc độc ác như thế? Trong mình nó không có qua một thứ giấy má nào để người ta có thể biết được tên tuổi, lai lịch của nó.
Thằng khách đã chết thì bao nhiêu ẩn tình về chuyện này họa chăng chỉ có người con gái Tàu kia là biết được ngành ngọn. Từ hôm đưa cô ta đi trình Ông châu thì cô ta bị một cơn sốt kịch liệt rồi cứ mê mê mẩn mẩn, khi cười khi khóc như người hóa điên. Ông quan châu biết chưa thể tra vấn được, nên cắt người săn sóc thuốc thang đợi cô ta hoàn lại tính người. Trong khi đó, thổ dân ở những thôn gần đó, không mấy ngày là không nói đến việc xảy ra trong rừng lớn Lùng Sa. Người thì cho rằng người con gái kia là một vật hy sinh đem đến cho con yêu trong miếu ăn thịt, người thì lại bảo là thằng khách cưới vợ cho Thần Rừng. Vì thế có kẻ lo sợ rằng vị thần Lùng Sa sẽ oán bọn người Nùng đi săn, rồi oán lây cả đấn dân làng, vì bọn đi săn đã làm chết mất thằng khách là người hằng năm vào trong hầm cúng tế. Nhiều người kể cho tôi nghe rằng, mấy năm trước đây, họ trông thấy một người khách to béo thường vào trong rừng hoang, khi đi một mình, khi dắt theo một người con gái; cứ gặp thấy người làng là ù té chạy, rồi không biết biến đằng nào mất.
Những điều ức đoán với cách giảng nghĩa của họ cũng như của bọn người Nùng bạn săn với tôi, đều mơ hồ lắm. Lòng tin tưởng của họ ngây ngô, đơn giản nhưng là vững mạnh. Tôi cũng không muốn biện bạch với họ làm gì. Tuy vậy, cũng có điều khiến tôi suy nghĩ, là thấy họ nói đã từng gặp thằng khách một vài lần. Về điều này nhiều người cam đoan là không sai, vì đã có nhiều người trông thấy. Thế thì có lẽ cái cảnh tượng tôi được “thực mục sở thị” đêm hôm xưa, quả như điều tôi đã đoán trước, không hẳn chỉ mới diễn ra lần đầu. Mà nếu thằng khách không bị bại lộ thì chưa biết chừng nó còn ngấm ngầm tác ác đến bao nhiêu phen nữa.
Ông châu Lùng Sa cùng những người có trách vụ hoặc chú ý đến chuyện này, trong khi đợi người con gái bình phục, đều băn khoăn như tôi. Thằng khách là hạng người nào? Cái hầm đất kia với nó có những quan hệ gì? Những việc nó hành động là do những căn nguyên nào? Khó lòng phân giải được cho xuôi ổn.
Khám xét trong hầm cũng không thấy ngách ngả nào thêm nữa. Hầm đào chừng lâu lắm, cách chống đỡ rất kiên cố, mà xem ra đào cùng thời dựng tòa miếu. Không thể nào đoán được miếu ấy thờ ai. Có lẽ miếu dựng lên chỉ để làm nơi đánh dấu, hoặc để người ra vào hầm đó không bị nghi ngờ gì. Cửa hầm thì ở một góc miếu phía tay tả (kể lúc mình ngoảnh mặt vào trong), nhưng hầm lại đào ở hẳn khu ngoài. Tìm kỹ lưỡng, thì thoạt tiên ngoài những cái tôi trông thấy ngay đêm bị nạn, chỉ thấy thêm được ít lương khô cùng với mấy nén bạc thằng khách đem theo. Mãi sau vì cái mùi thối nát khác thường, không thể ngờ là do xác chết của thằng khách xông ra được, người ta mới đào một vài chỗ lên xem thì thấy những xương người đen sì; thịt chưa rữa hết, có đến hai ba bộ. Những sự kỳ bí chỉ tối tăm dày đặc thêm lên.
Người con gái Tàu thì ngày càng kiệt lực. Cô ta không mê hoảng như mấy hôm đầu nữa, song bệnh tình trầm trọng như thế, xem chừng cũng không đậu được bao lâu. Một hôm tôi ở bản Khau đến thăm cô ta bên châu, cô ta ứa nước mắt không nói gì cả. Tôi lấy giọng ôn tồn dịu ngọt yên ủi cô ta. Tuy không hiểu tiếng, nhưng cũng biết là lời ân cần khuyên nhủ mình, cô ta nhè nhẹ mỉm cười, đầu khe khẽ gật.
Cách đó ít bữa, tôi lại đến châu Lùng Sa thì được tin người con gái Tàu đã chết. Tôi bùi ngùi lắm, toan trở ra về thì ông châu cho người lưu lại, mời tôi vào nói chuyện. Ông ta lấy trong tráp, đưa ra cho tôi một phong thư dày, nói là của người con gái Tàu để lại, dặn gửi riêng cho tôi. Bức thư dài lắm, nét bút ẻo lả, viết lối hành khải, nhiều dòng chữ líu ríu chi chít nhưng cũng đủ rõ ràng. Ông châu nói rằng trước hôm cô ta tắt nghỉ, lại thấy tươi tỉnh, ra hiệu mượn bút giấy, nhờ người đỡ ngồi dậy để viết bức thư này. Trong thư, người con gái Tàu kể rõ tên tuổi, lai lịch mình, với cái duyên cớ vì đâu cô ta bị thằng khách hành hạ. Nhờ đó tôi biết được phần lớn câu chuyện. Mãi mấy năm về sau, được gặp một viên quan Tàu trong sứ bộ Trung Quốc sang giao thiệp với triều đình ta, ngẫu nhiên tôi nhắc đến việc xưa thì thấy ông phó sứ ấy nói là đồng quận với thân nhân người con gái Tàu. Hợp với lời trần bạch trong thư của cô ta, câu chuyện ông quan Tàu thuật lại với tôi đã khiến tôi biết được hết đầu cuối những điều mà tự mình suy tầm, tưởng khó lòng thấu rõ được.