Trại Bồ Tùng Linh (I)

     rại Bồ ngày... tháng 9 năm 1930
Anh Bình,
Chỗ tôi đến ở là Trại Bồ. Tôi gọi đùa là Trại Bồ Tùng Linh. Cái tên đặt trong lúc cợt tính đó không ngờ lại hợp với cái cảnh biệt tịch này đến thế (nhất là từ bữa xảy ra ở đây những việc có thể gọi là rất dị thường).
Anh thử tưởng tượng một cái trại rộng ngót hai mẫu và rậm như một khu rừng. Cây toàn là cây cỗi. Gần hết là nhãn, mười gốc mít và mấy thứ cây ăn quả mà người ta không nghĩ đến sự lấy hoa lợi; lại thêm hai gốc đa cổ kính, buông từng súc rễ chằng chịt xuống lối đi. Trên là bóng lá rườm rà. Dưới là cổ và hoa. Những thứ cây bụi không biết tên là gì và thường thường chỉ mọc ở những cánh đồng hoang, cũng tìm đến sống ở đây, chen lẫn với những khóm hoa không được chăm bón. Một vài khoảng đất vuông vắn trên đó cỏ lau đâm lên tự do, có lẽ đã là những thửa vườn cũ. Trên con đường rộng nhất trở vào từ cái cổng xây đã đổ nát và mất cánh cửa, một đoạn còn thấy dấu gạch lát, nhưng gạch chỗ thì lún, chỗ thì bị bẩy chồi lên vì những rễ ngầm. Một cái ao lớn, bèo tấm xanh lè kín gần khắp mặt chắc là một chỗ trước kia rất đẹp: vì trên một phía bờ ao, một rặng liễu già rũ lá xuống tận nước xen lẫn với mây khóm trúc lá mập và mình vàng. Thêm vào đó một ít cây ngọc lan hoàng lan và từng vầng lớn mẫu đơn cao um tùm. Lớp nhà ngói tôi ở, ẩn khuất trong những cây đẹp và quý ấy.
Nhà kiểu cũ, tuy làm trên nền đá nhưng vẫn thấp; hiên trước rộng; bên trong, hai hàng cột lớn chia thành ba gian. Gian giữa cửa bức bàn. Gian hai bên tường bưng, có cửa sổ nhìn ra cảnh trước hiên; cửa sổ chấn song con tiện, nhưng long mất gần hết. Một nơi phảng phất mùi phong lưu và... chứa chất mùi ẩm mốc. Ngay từ sáng hôm đến, tôi để ra cả một nửa ngày bảo quét tước sửa chữa, sắp đặt và làm cho bọn khách bình yên trong ấy - lũ dơi và lũ chuột - phải một bữa hoảng hồn.
Tôi phân ra từng căn riêng (nhưng là những căn tưởng tượng lấy cột làm địa giới). Một cái giường cầu mua lại, một cái va ly đứng và một cái treo áo: đó là phòng ngủ. Ở giữa, một cái án thư cũ và một cái bàn mây: đó là “phòng khách” có tên mà không có thực, vì nhất định sẽ không bao giờ có ai đến chơi. Một cái bàn kê áp cửa sổ căn thứ ba, một ngăn sách, một va ly đựng cũng toàn sách và một cái ghế mây dài dùng để nằm nghỉ: đó là “phòng” làm việc và thư viện, chỗ lịch sự và quan trọng nhất nhà. Cũng nên kể thêm một vài bức tranh mang theo, một bình hoa. Thế là chỗ ở của tôi thành một biệt thự cũng khá tươm tất.
Tôi muốn trốn Hà Nội với sự náo động và bao nhiêu cái bận rộn vội vã, tìm thuê một chỗ tĩnh mịch để làm việc thong thả trong yên lặng; gặp được cái trại bỏ không những tưởng không cần phải mong đâu hơn. Có thể nói cái ý muốn của mình được tô điểm thêm lên nữa. Cảnh tĩnh mịch của tôi lại là một cảnh kỳ thú, giữa một màu cổ kính, bí mật trong bóng những cây cối gần như hoang dại. Tôi đã nghĩ đến một vài chuyện và một vài cảnh tả trong truyện Liêu Trai. Thằng Dần thằng nhỏ tôi đem theo tuy rất ít mồm miệng mà ngay hôm đầu cũng nói lên một ý nghĩ tương tự như của tôi:
- Cậu ạ, trại này trông như một trại có ma ấy.
Nó ngạc nhiên và có vẻ lo sợ khi tôi bảo:
- Có ma thì càng hay chứ sao!
Tôi phải tìm lời an ủi nó ngay, vì xem ra anh chàng chỉ chực những xin trở về. Tuy vậy, nó không phải là một đứa yếu bóng vía.
Chắc anh muốn biết tôi lần mò thế nào tìm được chỗ này. Tôi không phải tìm lâu. Nói là gặp có lẽ đúng hơn. Và do một sự tình cờ kể cũng hơi lạ. Tôi đến thăm một người có họ xa ở Hà Nội, một tin trong báo nói về vụ kiện ở một đồn điền, câu chuyện dây dưa từ đó đến những ấp, những trại và đến một khu trại bỏ không ở Thái Bình. Tôi chú ý liền. Hỏi rõ thêm. Và tức khắc đi tìm chủ nhân trại Bồ hiện vẫn ở Hà Nội. Tôi hỏi thuê ngay từ trước khi đến thăm và người ta rất vui vẻ cho tôi thuê trước khi biết tôi là người thế nào và đến ở đó để làm gì. Giá trả hàng năm và rẻ một cách không thể ngờ được. Hôm tôi tới xem trại, người gác ở đây cũng tỏ ra vẻ mừng rỡ như người chủ mấy hôm trước. Trong câu chuyện qua lại, tôi đoán thấy một vài điều hơi có vẻ bí mật khi người ta muốn tìm cách cắt nghĩa vẻ hoang phế của trại Bồ. “Trại Bồ bỏ không vì không hợp với cụ cố chúng tôi... vì mợ cả đau yếu luôn...” Tôi cũng không gặng hỏi kỹ càng hơn, vì điều quan trọng nhất đối với tôi là có một chỗ ở yên lặng và biệt tịch. Hôm “dọn nhà xuống” - tất cả đồ đạc là hai cái va ly lớn và những thứ ứng biến mới sắm thêm ngay ở đây - tôi cũng có nghe thấy mấy người tôi thuê đến quét dọn nói bóng nói gió đến sự “bỏ không” của trại này. Hình như trong gia đình “cụ lớn” có người chết oan, hoặc tự tử hoặc hóa điên, không rõ lắm; và hình như từ đấy, nhà “cụ lớn” không được phong túc như xưa. Tôi còn thoáng bắt chợt được những tiếng “oan hồn”, “con ma gốc đề” - (cây đề mọc lẻ loi ở cuối trại) - và những câu trả lời lúng túng của họ khi tôi hỏi rõ thêm. Tôi không muốn có một điều gì đến làm vướng bận cái vui của tôi nên không để tai đến chuyện của họ nữa. Tôi lại tự nhủ: cảnh như ở đây tất nhiên gây nên những ý huyền hoặc trong óc người quê mùa... Còn mình chỉ nên để tâm đến vẻ đẹp của cảnh với sự tiện lợi của nơi ở. Vả lại, dù cho có ma nữa, thì đã sao chưa?
Trước sự lo ngại của thằng Dần, tôi cũng vẫn giữ vững cái ý nghĩ vừa rồi: Tôi thành thực tin rằng dù có những việc hiển hiện lên trước mắt, tôi cũng không khiếp sợ - có lẽ lại coi là một dịp tốt cho cái tính tò mò của mình.
Ngày thứ hai ở trại Bồ tôi đã bắt đầu nghĩ đến cái công việc sung sướng tôi định làm ở đây: là khoan thai viết tập tiểu thuyết tôi nghĩ đã lâu, một tác phẩm thân yêu mà tôi vuốt ve từ trước cái hình ảnh mang trong trí. Thực ra không phải là “làm việc” nữa, tôi thấy tôi say mê khoái trá khi nghĩ đến, khi dàn xếp những ý tưởng, khi cầm bút sắp viết, và khi những hàng chữ hiện lần lần trên giấy với tất cả sự rung động của tâm hồn mình
Lúc nghỉ viết lại là những lúc vui thú khác: hoặc đọc sách hoặc thức dậy giữa cái thế giới nhỏ của khu cảnh trong trại Bồ. Những cây cỏ rất nhiều hình sắc ở đây hiện trong vẻ đẹp riêng của sự kích thích tinh thần. Phạm vi của một vùng xanh tươi như rộng rãi thêm; có những trường hợp trùng nhau của cảnh tưởng tượng với cảnh bên ngoài, khi đó thì nhân vật tạo tác thường như hoạt động trong lúc thực hiện.
Cái thói quen làm việc ban đêm để tránh sự náo động ban ngày khi còn ở thành phố khiến cho những lúc viết của tôi thường lẩn xa vào những giờ khuya. Và ban đêm ở đây có một sự yên lặng lạ thường, đầy những tiếng rộng lớn của gió cây rì rào và tiếng giun dế dưới chân hoa cỏ.
Một tối về thượng tuần trăng, tôi mải ngồi ngắm cảnh ở ngoài hiên cho đến lúc trăng lặn đã lâu và trời đã trở lại tối đặc. Hàng liễu trước nhà là hình ảnh đẹp mắt và đáng yêu nhất trong cả buổi. Đến lúc trăng khuất hẳn, những nét mảnh dẻ, mềm mại vẫn như còn in trên những vầng đen nặng, vẫn như còn nhuộm rất huyền ảo một ánh sáng mà trí tưởng vẫn thấy còn sót lại riêng trên những mình óng mượt của lá tơ... Những hình ảnh tưởng tượng nhè nhẹ cử động theo hơi gió đùa qua, phơ phất, lả lướt, chập chờn... Những cảm giác rất mong manh cũng phảng phất qua, gợn trong tâm hồn, gợn trên da thịt... Tôi được hưởng một thú say sưa hiếm có và chóng biến nhưng vẫn để cho tình cảm còn rung mãi một điệu rất êm nhẹ và ngọt ngào.
Khi tôi chợt nhớ đến đoạn văn sẽ viết tiếp trên bàn, tôi trở vào, ngồi ở cái bàn áp cửa sổ rồi cầm bút lên, nhưng trong trí vẫn còn những nét liễu se sẽ động, xiêu xiêu như theo một chiều nghĩ ngợi. Hình ảnh ấy gợi ra những tà áo mỏng manh và những dáng điệu biến hiện trong mờ ảo... Tâm hồn có một ý bâng khuâng, lưỡng lự, hình như sắp định một điều chưa rõ rệt, chơi vơi một chút rồi lại buông xuôi vào một cõi bất định, không biết đâu là bến bờ. Cứ thế, tôi ngồi trên bàn viết, đầu ngả dựa trên một tay chống đỡ, chiếc đèn cây chụp hắt ánh sáng xuống vòng quanh. Tiếng giun dế dóng dả run lên khi tai lắng nghe và dần dần chìm đi, lùi xa vào trong lãng quên để rồi lại giục giã thêm và nài gọi sự chú ý. Tiếng gió hình như vẫn reo hoài và vừa mới ngừng lại. Một luồng nhẹ mát thoáng ùa qua cửa sổ như đem gửi vào một phần đêm bên ngoài.
Tại sao tôi lại rờn rợn người lên? Tôi biết tâm trí vẫn nghĩ bình thường - đang cố nhận lấy từng chút chi ly đổi thay của cảm xúc. Mắt tôi lúc đó đang nhìn hàng chữ cuối cùng trên tờ giấy viết dở chừng.
Không, không có gì khác thường.
Nhưng tôi vẫn thấy một cảm giác lạ. Một cảm giác đột ngột, không liên lạc, hình như vừa chợt đến: gờn gợn, lạnh lẽo, rõ rệt và mạnh mẽ. Tôi nghĩ bụng: “Hừ! Vô lý thực?” Nhưng vẫn cảm thấy như một sức gì, một sự gì... một vật gì đang chú ý đến tôi. Ở đâu? Ở rất gần mình, ở trước mặt mình - từ cái khung đêm tối đen ngòm kia - ở cái chỗ tôi không trông thấy gì, nhưng đối với “nó” tôi hiện ra rành mạch trước ánh đèn sáng.
Chỉ ngẩng lên là tôi sẽ trông thấy - sẽ biết, hoặc sẽ yên lòng là đã nghĩ lầm. Nhưng không, tôi không lầm. Sự ấy tôi có nghĩ ra đâu. Nó đến và bắt tôi nghĩ, và tôi vẫn không nhúc nhích, mắt vẫn đọc hàng chữ viết, cố tình chậm cái lúc nhìn ra, tuy đó là sự rất vô lý... Sau cùng, lấy hết can đảm, tôi ngẩng mặt lên.
Cửa sổ - cái huyệt đen, sâu thẳm và vô cùng - cửa sổ vẫn không có gì khác.
Nhưng ngay lúc ấy, tôi tái hẳn người đi một lượt. Một tiếng động nhẹ - nhưng rành rẽ - một tiếng nhẹ và nhanh do một cử chỉ nào của cái vật đứng bên ngoài. Đứng bên ngoài tường. Và cũng nghe ngóng. Tôi “cảm thấy” - không thể mơ hồ được - rõ ràng nó có ở đây, nó đứng đây...
Tôi tính nhẩm: sẽ gọi thằng Dần dậy - nó vẫn nằm ở cái ghế dài cạnh ngăn sách, và rất tỉnh ngủ - cùng chạy ra cửa, rồi chia hai ngả đuổi (nếu nó chạy): Dù là vật gì cũng không để thế được. Tôi nhẹ nhàng với lấy cái đèn bấm trong ngăn kéo rồi ngẩng lên, và kinh ngạc dị thường.
Giữa khung cửa sổ, một khuôn mặt lặng lẽ, trắng một cách lạ, một khuôn mặt đàn bà rất trẻ, đẹp, một vẻ đẹp tuyệt mỹ, đẹp đến lạnh mình...
Hiện lên như ở đó đã từ bao giờ và thoáng biến ngay, như không bao giờ có...