Dịch giả: Cô Liêu
Tiểu sử tác giả
Nguyên tác tiếng Đức : Eine zeit zu leben und eine zu sterben

Tiếng Anh: A Time to Love and a Time to Die

Tiếng Pháp: Le temps d'aimer et le temps de mourir

    
rich Maria Remarque là nhà văn Đức kiệt xuất, tác giả của những cuốn tiểu thuyết được đánh giá là "hay nhất viết về hai cuộc đại chiến thế giới". Từng bị nhà cầm quyền ở chính quốc tiêu huỷ tác phẩm và truy đuổi, ngay từ năm 1933,  Remarque đã phải sống cuộc sống lưu vong.
Theo một thống kê sơ bộ, tại châu Âu, hơn chục triệu ấn bản tác phẩm của Remarque đã đến tay bạn đọc. Tiểu thuyết "Phía Tây không có gì lạ" của ông hiện đã được dịch ra 50 thứ tiếng. Người yêu mến Ramerque rất đa dạng. Tổng thống Nga Madvedev gần đây cũng tiết lộ là một fan hâm mộ của ông...
Ông tên thật là Erich Paul Remarque, sinh năm 1898 trong  một gia đình theo dòng Công giáo La Mã tại Onasbruck, một thành phố thuộc tỉnh Westphalia nằm ở miền Tây nước Đức. Từ nhỏ, Remarque luôn ngưỡng mộ người mẹ - bà Anna Maria, trong khi lại tỏ ra xa lánh người cha - ông Peter Remarque. Ông Peter Remarque bình sinh chỉ là một người thợ đóng sách nghèo. Sự vất vả, túng bấn của gia đình đã khiến cậu bé Remarque mới hơn mười tuổi phải tự kiếm sống bằng việc dạy kèm piano. Và cậu luôn phải làm việc cật lực để bù vào những khoản thù lao mà hầu như tháng nào cậu cũng phải xin ứng trước. Dấu ấn những năm tháng cơ cực sau này đã được nhà văn ghi lại trong nhiều tác phẩm của ông.
Vì gia đình thường xuyên thay đổi chỗ ở nên có thời kỳ, Remarque phải học một lúc hai trường cấp hai và sau đó là trường dự bị Công giáo Catholic Praparande.
 

Erich Maria Remarque
Tháng 11/1916, khi đang là sinh viên năm thứ ba của Trường Sư phạm Onasbruck's Lehresminar, Remarque bị gọi quân dịch để tham gia vào cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất. Tháng 6/1917, Remarque được điều động đến một đơn vị công binh ở mặt trận phía Tây. Tại đây, người lính trẻ đã chứng kiến nhiều cái chết thương tâm và vô nghĩa lý của đồng đội. Mặc dù rất dũng cảm và tích cực tham gia công tác cứu thương, song chính từ cái chết của người đồng đội Troske (bị thương vì dính mảnh lựu đạn, mặc dù đã được Remarque đưa về tuyến sau an toàn nhưng lại chết vì không được ai chăm sóc) đã khiến nhà văn tương lai thực sự bị sốc. Remarque tiếp tục ứng cứu đồng đội cho tới khi chính mình cũng bị thương vì mảnh đạn. Suốt hai năm 1917- 1918, Remarque phải nằm tại Bệnh viện St-Vincenz ở Duisburg để chữa vết thương. Tại đây, tin người mẹ hiền thục của mình qua đời càng khiến tâm trạng nhà văn tương lai thêm nặng nề.
Remarque chưa kịp trở lại mặt trận thì cuộc đại chiến kết thúc. Dù chưa trực tiếp đối mặt với quân đội đối phương song chiến tranh đã dạy cho người lính trẻ một bài học cay đắng về cái gọi là "chủ nghĩa yêu nước" ở một xã hội mà sinh mạng  con người hoàn toàn bị coi rẻ. Đây cũng là thời kỳ nước Đức lâm vào khủng hoảng  cả về kinh tế, chính trị, xã hội.
Từ giường bệnh trở lại đời thường, Remaque làm đủ nghề để mưu sinh. Lúc thì biểu diễn đàn organ ở một nhà thương điên, khi thì lại trở thành nhân viên của một công ty sản xuất bia mộ. Rồi ông tham gia viết phê bình sân khấu, thậm chí viết quảng cáo cho một hãng sản xuất ôtô. Năm 1925, ông được tuyển vào làm biên tập cho tạp chí Sport im Bild ở Berlin.
Ramaque bắt đầu sự nghiệp viết lách với vai trò phóng viên thể thao. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông ra đời vào năm 1920, với tên tác giả là Erich Remark. Cuốn sách bị thiên hạ đón nhận một cách hết sức ghẻ lạnh khiến sau đó, tác giả phải xấu hổ bỏ cả bút danh - vốn là tên của cụ nội. Cuốn tiểu thuyết bị cho là văn phong báo chí khô khan, nội dung tầm thường và đầy định kiến.
Ngày 31/1/1929, ở tuổi 31, Remarque bất ngờ trở nên nổi tiếng khi Nhà xuất bản Propylaeen cho ra mắt một cuốn tiểu thuyết "Phía Tây không có gì lạ" - một cái tên sách khá lạnh lùng của ông. Ở cuốn tiểu thuyết này, tác giả chính thức ký bút danh Erich Maria Remarque (để tỏ lòng tưởng nhớ người mẹ thân thương, tác giả đổi tên kép Erich Paul của mình thành Erich Maria).
Giờ đây, cuốn tiểu thuyết đã được xếp trong danh sách những tác phẩm văn học Đức ăn khách nhất thế giới, với lượng phát hành đã lên tới 20 triệu cuốn, in bằng 50 thứ tiếng. Song không phải ai cũng biết rằng, ban đầu, cuốn sách từng bị một nhà xuất bản từ chối. Cuốn sách có nội dung phản chiến mạnh. Với việc để cho nhân vật chính của sách - anh lính trẻ Paul Baeumer, sau những ngày tháng hãi hùng trên chiến trường đã ngã xuống, kèm đó là lời cuối sách có vẻ "dửng dưng", "bình thản" của tác giả: "Anh ta chết tháng mười, năm 1918, trong một ngày khắp cả mặt trận yên tĩnh, đến nỗi bản báo cáo quân đội chỉ ghi vắn tắt một dòng: Phía Tây không có gì lạ", tác phẩm của Remarque đã có sức tố cáo mạnh mẽ sự vô nhân tính của chiến tranh.
Vừa ra đời, "Phía Tây không có gì lạ" đã gây chấn động nước Đức, một nước có hàng triệu người tham chiến hiện vẫn chịu di chứng cả tinh thần và thể xác từ cuộc  chiến tranh khủng khiếp. Nhiều người ca ngợi cuốn tiểu thuyết là "bản di chúc của tất cả những người đã ngã xuống trên chiến trường". Nhà văn Leonhard Frank quả quyết, một tác phẩm như vậy "trăm năm mới xuất hiện một lần". Còn Henry Louis Mencken - nhà phê bình nổi tiếng đương thời thì khẳng định: "Không nghi ngờ gì nữa, đây là cuốn tiểu thuyết hay nhất về cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất".
Ngay trong năm xuất bản đầu tiên, tiểu thuyết "Phía Tây không có gì lạ" đã phát hành được hơn triệu bản ở Đức. Tại Anh, Mỹ, sách còn bán chạy hơn. Cuốn tiểu thuyết càng trở nên phổ biến nhờ bộ phim do người Mỹ dựng (từng được giải Oscar) với Lew Ayres và Lewis Wolheim đóng vai chính. Trong lịch sử điện ảnh, đây là một trong những bộ phim nói đầu tiên (trước đó chỉ là phim câm) và hiện vẫn được xếp vào danh sách những phim kinh điển về đề tài chiến tranh. Tới năm 1932, "Phía Tây không có gì lạ" đã được dịch ra 29 thứ tiếng. Từ một anh nhà báo quèn không mấy người biết, Erich Maria Remaque đã trở thành nhà văn tên tuổi lừng lẫy khắp thế giới.
Tuy nhiên, tại Đức, Remarque đã phải hứng chịu sự công kích và các âm mưu bôi nhọ của phái Quốc xã. Đặc biệt, khi bộ phim "Phía Tây không có gì lạ" được chiếu ở Berlin, Goebbels, người phụ trách công tác tuyên truyền của Đức Quốc xã đã lệnh cho lực lượng "Thanh niên Hitler" xông thẳng vào rạp, ném những bình hơi thối cùng những con chuột bạch và hét lên: "Nước Đức hãy thức tỉnh". Bộ phim bị cấm năm 1931. Năm 1933, Hitler chính thức lên nắm quyền. Remaque bị buộc phải rời nước Đức và sách của ông bị thiêu rụi trong cuộc đốt sách đáng hổ thẹn diễn ra vào năm đó.
Năm 1933, chính quyền Quốc xã quyết định tịch thu tài khoản của Remarque ở Berlin với lý do "để bù vào tiền thuế". Tuy nhiên, trước đó Remarque đã bí mật chuyển hầu hết tiền và số tranh theo trường phái Ấn tượng của mình sang Thuỵ Sĩ.
Đầu mùa hè 1935, Remarque tham dự hội nghị những nhà văn lưu vong tổ chức tại thủ đô nước Pháp, và ông chọn đây là nơi định cư. Tại Paris, Remarque đã làm quen và có mối tình nổi đình đám với minh tinh màn bạc Marlène Dietrich.
Khi cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai sắp nổ ra, Remarque quyết định chuyển sang sống ở New York (Mỹ). Từ năm 1939 đến 1942, Remarque sống tại kinh đô điện ảnh Hollywood. Trong thời gian Remaque bị tước quyền công dân Đức, 3 cuốn sách của ông lần lượt được dựng thành phim ở Mỹ và có lúc, người ta gọi ông là "Vua của Hollywood". Bạn bè của ông rất nhiều người là đạo diễn, diễn viên. Ngoài  Marlene Dietrich còn có Greta Garbo, Charles Chaplin...
Mệt mỏi vì những "phù hoa giả tạo" của Hollywood, một thời gian sau, Remarque lại chuyển về sống ở New York. Tên tuổi ông càng trở nên nổi tiếng khi - vào năm 1957, bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết "Thời gian để sống và thời gian để chết"  (được coi là cuốn sách hay nhất viết về cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai) của ông được công chiếu.
Những năm cuối đời, Remarque sống tại Porto Ronco, Thuỵ Sĩ, trong ngôi biệt thự cạnh hồ Magiore với nhiều cổ vật quý giá mà ông mua được.
Về đời tư, đầu những năm 1920, Ramerque gặp gỡ và kết hôn với Jutta Zambona - "một phụ nữ cao ráo, thon thả, xinh đẹp và sành điệu như người mẫu". Năm năm sau, cuộc sống vợ chồng đổ vỡ do cả hai đều có tình ý riêng ngoài hôn nhân. Năm 1938, họ bất ngờ tái hôn để rồi sau đó sống ly thân và tới năm 1951 thì vĩnh viễn chia tay.
Năm 1958, ở tuổi 60, Remarque kết hôn với diễn viên Paulette Goddard, vợ cũ của Vua hề Charles Chaplin sau 18 năm quan hệ không chính thức. Họ sống bên nhau tới ngày Remarque qua đời (25/9/1970) tại Locarno, Thuỵ Sĩ
* Tác phẩm:
- Flotsam (1941)
- Arch of Triumph (1946)
- The Black Obelisk (1957)
- The Night in Lisbon (1962)
- Im Westen nichts Neues
- All Quiet on the Western Front
- Der Weg Zurück