Chương 3
LỜI TỰ TRÁCH MUỘN MÀNG

     ại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô kết thúc, Chu Đức - trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục đi thăm một số thành phố phía nam, Đàm Chấn Lâm ở lại Mạc Tư Khoa chữa bệnh, còn Đặng Tiểu Bình và Sư Triết lập tức bay về Bắc Kinh. Trên máy bay, nhiều lần Sư Triết muốn hỏi Đặng Tiểu Bình ý kiến nhận xét về Đại hội, nhưng ông không hề thổ lộ một lời nào. Khi nhận được bản tốc kí báo cáo của Khrusov đọc suốt đêm 24 rạng 25 tháng hai năm 1956 “Về sùng bái cá nhân và hậu quả của nó”, mà 55 đoàn đại biểu các đảng anh em đều không được mời dự phiên họp bí mật đó, các thành viên đoàn đại biểu Trung Quốc có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng nhanh chóng thống nhất là phải báo cáo về nước. Hội nghị mở rộng của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc họp thảo luận và thông qua bài đăng trên Nhân Dân nhật báo ngày 5 tháng tư năm 1956 “Về kinh nghiệm lịch sử của chuyên chính vô sản”, mở đầu một đường lối tả khuynh do Mao Trạch Đông khởi xướng kéo dài suốt 20 năm. Từ bài học của Liên Xô, những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc như Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình đã nhận thức được sự cần thiết phải phòng ngừa cách thống trị độc tài kiểu Stalin và phản đối việc sùng bái cá nhân. Còn Mao Trạch Đông bắt đầu chú ý “chống xét lại”, “chống giai cấp tư sản” ở Trung Quốc, và sau đây là bản dạo đầu.
Tháng 5 năm 1956, mùa xuân vội vàng ra đi, mùa hè lẹ làng ập tới, Bắc Kinh nóng vô cùng, nóng vì thời tiết, nóng vì chính trị với chủ trương của Đảng “bách hoa tề phong, bách gia tranh minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng). Ngày 26 tháng 5, Lục Định Nhất thay mặt Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nói chuyện trước giới trí thức thủ đô là Đảng chủ trương “trăm hoa đua nở” đối với công tác văn nghệ và “trăm nhà đua tiếng” đối với công tác khoa học, rằng chủ trương đó đã được Mao Trạch Đông tuyên bố tại hội nghị tối cao của Quốc vụ viện.
Tháng ba năm sau, tại hội nghị công tác tuyên truyền toàn quốc với sự tham dự của 800 cán bộ tư tưởng của đảng. Mao Trạch Đông đã trình bày sự đánh giá cao của trung ương đối với thành phần trí thức. Theo ông, tuyệt đại đa số tán thành chế độ xã hội chủ nghĩa, một thiểu số tuy không hoan nghênh lắm nhưng vẫn yêu nước, còn lại rất ít là thù địch, vì vậy cải tạo trí thức là cần thiết và trí thức phải kết hợp vói công, nông. Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng là phương châm lâu dài của Đảng, phải mạnh tay “phóng” cho mọi người dám phát biểu, dám phê bình, dám tranh luận. Tiếp đến, ngày 27 tháng tư năm 1957, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chính thức: ban bố “chỉ thị chỉnh phong”. Thế là trong chỉnh, ngoài phê, bao nhiêu cuộc toạ đàm, bao nhiêu buổi sinh hoạt tổ nhóm để nghe ý kiến của quần chúng được tổ chức, đâu đâu cũng thấy “tề phóng” đâu đâu cũng nghe “tranh minh”. Ngày 19 tháng 5 năm 1957, những tờ báo chữ to bắt đầu dán trong các trường đại học nặc danh phê bình cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền một cách táo bạo hơn. Trúng kế rồi, nhân đại phóng, đại minh, đại tự báo, đại tranh luận mà “cỏ dại”, mà “tiếng lạ” đã lộ hình, đã rõ âm, bị tóm gọn trong một rọ - phần tử hữu khuynh chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội.
Tháng sáu, cuộc phản kích hữu khuynh bắt đầu. Tháng bảy, tại Thanh Đảo, trước hội nghị bí thư các tỉnh thành, Mao Trạch Đông chỉ rõ quan hệ giữa chỉnh phong và chống hữu, ông mới tiết lộ kế hoạch bốn giai đoạn: giai đoạn đại minh đại phóng, giai đoạn phản kích, giai đoạn sửa đổi điều chỉnh, giai đoạn mỗi người tự nghiên cứu văn kiện, phê bình phản tỉnh và nâng cao. Ngày 29 tháng 6, bộ chỉ huy chống phái hữu quy định phải điểm danh, Bắc Kinh 400 người, cả nước 4000 người. Mười ngày sau, “chỉ tiêu” đó nâng lên 800, 8000. Đến tháng chín, báo cáo tại Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá 8, con số phần tử hữu khuynh là 6 vạn và cuối chiến dịch, vào mùa hè năm 1958 lên tới 55 vạn.
Cuộc chiến đấu chống hữu khuynh mở rộng đến các huyện, khu, nhà máy, hầm mỏ.
Nội bộ nhân dân bị phân chia thành ba phái hữu khuynh, trung lập và tả khuynh. Trong phần tử hữu khuynh lại vạch rõ loại cực hữu, xếp họ về phía bên kia giới tuyến - thù địch chính trị với nhân dân, nâng thành mâu thuẫn đối kháng địch ta. Từ số lượng, tính chất cuộc vận động chống hữu khuynh đã toả lan, cộng thêm phương pháp đấu tranh lại là “tứ đại” (đại minh, đại phóng, đại biện luận, đại tự báo) nên mức độ và kết quả càng nghiêm trọng. Nhiều đồng chí trung trinh, nhiều bạn bè hợp tác đã lâu dài với Đảng, nhiều trí thức tài năng, thanh niên nhiệt huyết v.v... bỗng nhiên trở thành kẻ thù làm cho nhà nước tổn thất không biết là nhường nào. Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá 8 đã đi đến một kết luận khác hẳn với Hội nghị lần thứ nhất và cho rằng mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Trung Quốc là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa đường lối xã hội chủ nghĩa và đường lối tư bản chủ nghĩa, quy định hai giai cấp bóc lột và hai giai cấp lao động: địa chủ mại bản, phần tử hữu khuynh bị đánh đổ cùng bè lũ phản động và tư sản dân tộc đang tiếp thu cải tạo xã hội chủ nghĩa với phần tử trí thức của họ đều thuộc về bóc lột, chỉ có công nông là lao động.
Cuộc vận động chống hữu khuynh tuy đã im ắng nhưng việc tranh luận về quan điểm vẫn còn âm ỉ. Trước cơn lốc chính trị vừa kể, nhân vật chính của cuốn sách này - ông Đặng Tiểu Bình - đã chống chọi ra sao? Theo “Đặng Tiểu Bình truyện” do một kí giả người Đức ghi lại và nhà xuất bản Cam Túc ấn hành năm 1989 thì: khi nghe tin “đại dân chủ” ông nghĩ đến chủ nghĩa vô chính phủ, cho nên lần đầu tiên đứng trước người đã từng hợp tác trong suốt 24 năm, Đặng Tiểu Bình phản đối quyết định của Chủ tịch Mao Trạch Đông, ông sợ “trăm nhà đua tiếng” sẽ dấy lên phong trào quần chúng chống lại Đảng Cộng sản, ông không tin tưởng nhân tố tự phát, nhân tố vô tổ chức, ông cho rằng nới lỏng quản lí của Đảng sẽ xuất hiện hỗn loạn không thể nào điều khiển nổi.
Tác giả người Đức hình như thiếu cân cứ khi đi đến kết luận nêu trên, vì tháng ba năm 1979, khi nói chuyện với hội nghị công tác lí luận của Đảng, Đặng Tiểu Bình đã kể lại rằng: “kiên trì chấp hành phương châm trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Rồi tháng mười năm đó, trong lời chúc Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ 4, ông lại phát biểu: “Chúng ta phải tiếp tục ủng hộ phương châm văn nghệ phục vụ quần chúng nhân dân mà trước hết là công nông binh do đồng chí Mao Trạch Đông đề xướng, ủng hộ phương châm trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng, ôn cố tri tân, học tập tinh hoa của nước ngoài, của vốn cổ. Về nghệ thuật, chúng ta chủ trương tự do phát triển phong cách và hình thức khác nhau trong sáng tác, tự do thảo luận quan điểm và trường phái khác nhau trong lí luận”.
Đó là lời nói của ông khi Mao Trạch Đông đã qua đời đúng 3 năm 1 tháng, và còn đây là sự tự phê bình muộn màng sau 23 năm mà ông Đặng Tiểu Bình đã trình bày tại Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ 5 khoá 11, năm 1980: “Trong phong trào chống hữu khuynh năm 1957, chúng ta là phần tử tích cực. Tôi có trách nhiệm về việc mở rộng phong trào vì lúc ấy tôi là Tổng bí thư”.
Nhưng, Đặng Tiểu Bình lại bổ sung; “Đấu tranh chống hữu khuynh năm 1957 là tất yếu và đúng đắn. Nói một cách đơn giản; đấu tranh tự nó không có gì là sai, vấn đề ở chỗ mở ra quá rộng”.
Có lẽ phải đợi nhiều chương hồi nữa mới rõ được suy nghĩ của ông Đặng Tiểu Bình mà kế sau đấy lại là một cơn lốc: đại nhảy vọt.