Chương 3
LẮM PHEN THOÁT HIỂM

     hu Ân Lai của chúng tôi đoan trang, văn nhã, tinh tế, luôn luôn xuất hiện trong phong thái đàng hoàng, lịch sự, ánh mắt ôn tồn, nụ cười hiền hậu và đầy ma lực khiến ngươi ta tưởng ông chỉ là một quan văn “trói gà không chặt”“, nào ngờ Chu còn có tính chất khá đặc trưng của viên quan võ - ưa khiêu chiến và thích hiểm nguy. Trong cuộc khởi nghĩa vũ trang lần thứ ba của công nhân Thượng Hải, cảnh sát phát hiện ngay ra Chu Ân Lai ở hàng đầu những người tham gia biểu tình thị uy, đạn nổ bên mình, nhưng Chu kịp nằm ẩn tránh và lại đứng dậy dẫn đoàn, đồng đội phải kêu lên: “Thủ lĩnh ở đây nguy hiểm quá!”, ông cười mà rằng: “Tôi thích như thế”. Hồi phong trào Ngũ Tứ, Chu xông lên gạt hàng rào quân cảnh, đấu tranh trực diện trước nha môn, công đường và đã qua cuộc sống sau song sắt nửa năm, “Tôi bắt đầu từ đó, và dần bước theo con đường của một nhà cách mạng chuyên nghiệp”, Chu Ân Lai từng hồi ức.
Những người có điều kiện gần gũi Thủ tướng, mấy năm trước đây đã gặp nhau, chúng tôi cũng nhớ lại và tính toán, đúng là Chu Ân Lai vào sinh ra tử phải đến 22 lần, phần lớn là quãng thời gian Chu đang đảm đương chức vụ quan trọng của Đảng và nhà nước. Có lẽ trong các nhân vật lãnh tụ của chúng tôi, Chu Ân Lai là người gặp hiểm nguy nhiều nhát và may sao đều thoát nạn. Ngay từ loạt đạn đầu tiên của quân cảnh Anh và Pháp trong vụ thảm sát Sa-cơ, hai người bên cạnh Chu đều gục ngã hy sinh, ông trời còn giữ lại cho nhân dân chúng tôi viên chủ nhiệm khoa chính trị trường quân sự Hoàng Phố Khi truy lùng hung thủ đã ám sát Liêu Trọng Khải - lãnh tụ của Quốc dân đảng, Tưởng Giới Thạch tự nhiên đổi khẩu lệnh, tuyên bố giới nghiêm thành Quảng Châu trước giờ quy định, khiến cho xe Chu Ân Lai trúng đạn của quân mình. Trong khoảnh khắc phát hiện ra phía trước lóe sáng, người tài xế quay vòng tay lái một cách rất bản năng, và những viên đạn dành cho Chu Ân Lai đã xuyên thẳng vào đầu anh, ông trời lần nữa giữ Chu cho chúng tôi. Lần thứ 4 Tưởng Giới Thạch chỉ huy vây tiễu Hồng quân - “phỉ đỏ”, Chu Ân Lai lãnh đạo phản công, thấy bộ binh không xong, Tưởng ra lệnh 6 phi cơ chiến đấu của Quốc dân đảng thả bom ngay trên đầu tổng chính ủy Cộng quân - Chu Ân Lai, người cán bộ chính trị ấy nhanh hơn cả Tổng Tư lệnh đã hô vang “tất cả nằm xuống”“ và kịp lấy thân mình đè lên chàng thanh niên 18 tuổi. Hồi ấy, ông trời cùng một lúc giữ lại Thủ tướng và Chủ nhiệm tổng cục chính trị quân đội - Tiêu Hoa cho Trung Quốc...
Trong lịch sử, nhiều nhân vật kiệt xuất từng lâm đại nạn mà vẫn thoát hiểm như không, khiến hậu thế chiêm ngưỡng họ như những bậc kỳ tài thần thông biến hóa và các giai thoại cũng được dệt nên từ ấy. Có người cho đó là vận khí, là ý trời, hẳn không phải như vậy vì nghe nói trong tính ngẫu nhiên đã ẩn tàng ít nhiều quy luật tất nhiên mà. Phải chăng trong những giờ phút nguy hiểm ấy, toàn bộ dũng khí, trí tuệ, lực lượng của các vị được huy dộng một cách tối đa và cực nhanh để ứng phó, thoát nạn. Có điều khiến người đời khâm phục, suy tôn các vị chính là thái độ xử sự ngay ở khoảnh khắc ngặt nghèo giữa cái sống và cái chết...
... Chiếc xe nhà binh mui trần xuất phát từ cửa Nam thành Diên An trườn bò trên con đường gập ghềnh của cao nguyên hoàng thổ, hướng về Tây An, hướng về thành phố đàm phán. Đó là thời kỳ Quốc - Cộng hợp tác lần thứ hai, chuẩn bị đi vào cuộc kháng chiến tám năm chống Nhật, Chu Ân Lai - Phó chủ tịch trung ương Trung Cộng đi Tây An dự đàm phán với Cố Chúc Đồng - đại diện Quốc dân đảng, một hoạt động có tính dọn đường cho cuộc gặp Tưởng - Chu ở Lư Sơn sau này. Trước khi lên đường, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đã dành cả một ngày để trao đổi thống nhất chủ trương. Sứ mạng đặt lên vai Chu, tuy bên trong là rất quan trọng, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn luôn bị tiễu phạt, vây ráp, Mao cũng chỉ có ngần ấy vật chất cung cấp cho Chu. Chúng tôi 25 người - đều là những chiến sĩ trường chinh năm xưa, từng leo núi tuyết, vượt thảo nguyên, qua vạn lý, hành trình từ Hoa Nam lên đây lập chỗ đứng chân cho Hồng quân, cho Trung Cộng - có nhiệm vụ tháp tùng Chu Phó chủ tịch đi Tây An thực hiện sứ mạng lịch sử. Trong chuyến đi ấy có các danh tướng như Trương Vân Dật, Khổng Thạch Tuyển, có phó quân của Chu là Trần Hữu Tài - anh vận đồ Tây và đội mũ phớt y hệt như một nhà buôn nhiều vốn, có Trần Quốc Kiều - trung đội phó đặc công hộ tống Chu, và cảnh vệ, ký giả, thông dịch v.v... Vòng “luân tử” lúc bon bon, lúc lăn trườn nhẫn nại đưa chúng tôi về cố đô Tây An, ai nấy đều hãnh diện vì chuyến đi lịch sử trong đời của mình, nói cười như pháo nổ, át cả tiếng động cơ.
Nhưng chúng tôi nào ngờ quân thám báo của thổ phỉ Phùng Trường Đấu ẩn nấp ở Diên An đã phát hiện chiếc xe khởi hành, chở “ông chủ” vận đồ Tây dương và lính tráng “tiền hô hậu ủng”. Sau này khi giảng bài cho Hồng quân, Mao Trạch Đông thường lấy ví dụ này để phê bình lối cảnh vệ khoa trương, hình thức, thiếu cảnh giác. Hồi ấy ở vùng Diên An có hàng ngàn thổ phỉ, ban ngày phân tán cày ruộng, đêm lại mới tụ tập cướp phá, cầm dao cầm súng là trở nên tướng cướp, mà cất vũ khí nắm cuốc nắm liềm thì hoàn nguyên nông dân, rất khó truy quét, tiêu diệt. Lý Thanh Ngũ là một đầu lĩnh, y người Hà Nam theo cha mẹ lang bạt lên đây, từ nhỏ đã ham trò súng ống, lớn lên không an phận làm ăn và nhanh chóng trở thành thổ phỉ. Năm 1935, Hồng quân chiếm lĩnh Cam Tuyền đã thu phục đội ngũ của Lý cho thành lập một tiểu đoàn độc lập do y làm “giáo đạo viên” (tiểu đoàn trưởng). Viên quan họ Lý này không hiểu chủ nghĩa cộng sản và cũng không hiểu chủ nghĩa tam dân, nhưng rất tinh thông ăn nhậu, cờ bạc, ghiền hút và gái đĩ, thừa cơ quân Đông Bắc vây ráp tiễu khử Hồng quân, Lý Thanh Ngũ làm “binh biến”đã giết chết chủ tịch chính quyền xô-viết huyện Cam Tuyền - Thiểm Bắc, câu kết với Quốc dân đảng, về sau trở lại nguyên hình thổ phỉ, Cộng sản cũng đánh mà Quốc dân đảng cũng chẳng chừa, miễn là cướp được súng ống, tiền bạc và của cải. Nhận được mật báo của Phùng Trường Đấu, Lý Thanh Ngũ đang đêm thống lĩnh 100 thổ phỉ vượt núi Long Bàn Sơn lên mai phục tại đèo Lao Sơn. Lao Sơn chạy dài theo hướng đông tây, chắn ngang hai huyện Diên An và Cam Tuyền, tuy không cao lắm, nhưng là tuyến độc đạo Diên - Cam, địa hình hiểm trở nên chúng tôi bị lâm nạn trong vòng vây của Lý Thanh Ngũ. Chu Ân Lai trí dũng song toàn, vừa chỉ huy chống đỡ vừa chỉ huy phá vòng vây rút vào rừng chờ kỵ binh của Hồng quân ứng viện. “Ông chủ” vận đồ Tây, đội mũ phớt chủ động thu hút hỏa lực của địch và anh đã hy sinh, Lý Thanh Ngũ lục soát túi áo Trần Hữu Tài và chắc mẩm sẽ có vàng bạc châu báu, nào ngờ chỉ vẻn vẹn một tấm danh thiếp với ba chữ “Chu Ân Lai”, y thét lên: - Chết ta rồi, trốn mau! Sau đó không lâu, Hồng quân bắt được Lý, y bị trừng phạt và thổ phỉ tan rã.
Lần ấy trở lại Diên An, chúng tôi chỉ còn 14 người, trong đó có Lưu Cửu Châu - cận vệ của Chu phải nằm trên cáng, anh khóc: Thưa Phó chủ tịch, tôi đã không hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ đồng chí đi Tây An...
Tháng 6 năm 1973, Chu Ân Lai về thăm đèo Lao Sơn, ông đi tảo mộ thắp hương cho Trần Hữu Tài và 10 liệt sĩ khác đã hy sinh trong trận chiến đấu ngày 25.4.1937, theo Chu, đây là lần hiểm nguy nhất trong đời...
Chu Ân Lai bình sinh bận rộn, cái mà ông thiếu thốn nhất là thời gian, chúng ta có thể nhận thấy Chu quý thời gian biết nhường nào, ông không đi thì thôi, chứ đã động chân là bước nhanh thoăn thoắt. Chụ Ân Lai không đồng ý bố trí để Mao Trạch Đông đi công tác bằng máy bay vì hồi ấy hệ số an toàn hàng không rất mong manh, nhưng bản thân ông lại cứ khăng khăng đáp phi cơ mỗi lần có công việc và giải thích rằng: “Tiết kiệm được nhiều thời gian, dù có mạo hiểm một chút cũng chẳng hề gì”. Những người già chúng tôi từng làm việc bên cạnh Thủ tướng ngồi lại với nhau và ngẫm ra một điều, hiểm nguy thường đến với Chu Ân Lai trong các chuyến bay. Lần bay từ Tây An về Diên An, phi cơ lạc đường, rất may không đâm vào vách núi như vụ không nạn “4 - 8”. Lần đi thăm A Rập, trong đêm tối mịt mù, chuyên cơ của Thủ tướng hạ cánh với những sự dẫn đường tồi tệ nhất. Lần đi dự hội nghị Bandung, chiếc máy bay có tên gọi “Công chúa Kát-sơ-mia” dự kiến chở Chu Ân Lai đã nổ tung sau khi rời khỏi không phận Hương Cảng v.v...
Đối với tôi, ấn tượng hãi hùng nhất vẫn là chuyến bay ngày 3 tháng 10 năm 1946 đưa Chu Ân Lai đi Trùng Khánh. Đó là thời kỳ tám năm kháng chiến chống Nhật vừa thu được thắng lợi, hội nghị chính trị hiệp thương sắp bế mạc, Chu Ân Lai phải trở về Diên An cùng Mao Trạch Đông và Trung ương bàn thảo sẽ phải nhượng bộ như thế nào nữa đối với Quốc dân đảng để đi đến một hiệp nghị. Ngày mai hội nghị sẽ đi vào phiên kết thúc, bằng mọi giá phải cất cánh hôm nay.
Phi trường Tây An lộng gió, ngoài trời lạnh thấu xương, cái lạnh lục địa trên cao nguyên hoàng thổ như thể mũi dao cắt từng mảng thịt... Đoàn chúng tôi gồm 10 người lớn và một cháu gái, ngoài những nhân viên tùy tùng, cảnh vệ của Chu Ân Lai, còn có Lục Đình Nhất, Đặng Phát, Giang Thanh và con gái Diệp Đình là Dương Mi. Giang Thanh quá giang đi Trùng Khánh để chữa răng tại phòng bệnh của nha sĩ trứ danh, người đã chữa trị cho Tưởng Giới Thạch lành chứng đau răng, nay được Chu Ân Lai giới thiệu với Chủ tịch phu nhân. Đây là chuyên cơ của Marshall, viên thượng tướng quân Mỹ trong tổ quân sự 3 người, phái cử phục vụ Chu Ân Lai. Tốp lái toàn là người Mỹ đứng nghiêm cùng hô “chào thượng tướng” khi Chu Ân Lai bước chân lên cầu thang.
Từ phi trường Tây An, máy bay phải theo đường xoắn ốc nâng lên độ cao khoảng 5000 mét, vượt qua đỉnh Tần Lĩnh thì mới hướng về Trùng Khánh được. Thời ấy máy bay cánh quạt còn thô thiển và cả đoàn chúng tôi như bị rang cà phê nhào lộn, rơi xuống và chịu cái lạnh trong không phần Tần Lĩnh. Đường bay từ Tây An đi Trùng Khánh chỉ cần 1 giờ, máy bay của chúng tôi cất cánh từ lâu, nhưng xem đồng hồ chỉ mới 10 phút, tròi ơi, Tần Lĩnh vẫn còn án ngự, và chúng tôi có cảm giác như diều đứt dây lượn lờ mất phương hướng...
Viên phụ tá phi công người Mỹ mặt mày rầu rĩ lễ phép mời Chu Ân Lai vào buồng lái, họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh. Thủ tướng của chúng tôi thông thạo 4 loại ngoại ngữ: Anh, Pháp, Đức, Nhật và am hiểu tiếng Nga, đó là điều làm tôi rất tự hào về vị lãnh tụ mà mình được vinh dự phục vụ. Chu Ân Lai gọi tôi, anh Lý Toàn Đức và giao nhiệm vụ, giọng ông rất nghiêm nghị:
- Tổ lái yêu cầu giảm trọng lượng, các đồng chí đem tất cả hành lý và hàng hóa nhanh chóng vứt ra ngoài, nhớ đừng nhầm các tài liệu.
Chúng tôi đang lâm nạn, sinh mạng ngàn cân treo đầu sợi tóc, tôi và anh Lý theo sự hướng dẫn của người lính Mỹ quăng hết các dụng cụ bằng kim loại của máy bay, hành lý của tổ lái, rồi đến đồ đạc của đoàn, kể cả quần áo của Giang Thanh và thùng tiền 20 vạn quan định lên Trùng Khánh mua thuốc cho y tế cơ quan. Những gì quăng được chúng tôi đều đã vứt, nghĩ thật đau xót, trong khi một điếu thuốc còn phải chuyền cho nhau rít từng hơi ấm, mà nay đành lòng ném tiền của, chung quy cũng vì mạng sống. Trọng lượng của máy bay giảm bớt chẳng được bao nhiêu, ngoài trời nhiệt độ không khí càng lúc càng giảm, hai cánh phi cơ băng đã đóng dày, tiếng động cơ vẫn nặng nề khó nhọc và viên phụ tá lại xin ý kiến Chu Ân Lai, chắc đến lúc phải quẳng người, Chu nhíu lông mày và im lặng gật đầu. Quẳng ai bây giờ? Đoàn người chỉ có 4 chúng tôi là không phải thủ trưởng: Qua Mao - nhà văn, thư ký Lý Toàn Đức, tham mưu quân sự Đồng Lục Sinh và tôi, hẳn là những người phải “vứt” đầu tiên. Nhưng không! Chu Ân Lai ra lệnh mọi người đều mang dù, sẵn sàng đợi sự chỉ huy của tổ lái và nhảy ra ngoài. Viên phụ tá hướng dẫn cách sử dụng dù, cửa máy bay đã mở, lạnh đến cùng cực, mọi người nhìn nhau không một lời qua lại, bỗng có tiếng khóc của Dương Mi: “Cháu chưa có dù”. Thật là vội vã dẫn đến sai lầm, Chu Ân Lai nhanh chóng cởi dù của mình mang vào lưng Dương Mi. Sự tích nhường dù này của Chu được người đời ca tụng và đưa vào sách giáo khoa dạy cho bao thế hệ sau này. Ông tình nguyện cùng tổ lái sống mái trên máy bay. Hồi chiến tranh thế giới lần thứ hai, quân đội Mỹ có quy định, phi công lái máy bay hành khách không trang bị dù, ràng buộc trách nhiệm của họ với mạng sống của người khác. Mọi cố gắng đã đến điểm cực đại, nhưng ngọn Tần Lĩnh vẫn ngạo nghễ sừng sững, cơ trưởng toát mồ hôi, xin Chu Ân Lai cho máy bay quay về Tây An. Chúng tôi hạ cánh trở lại Tây An và sau đó không lâu phải mạo hiểm lần nữa cho kịp vào hội nghị Trùng Khánh. Nhưng tiếc thay, chúng tôi càng nhân nhượng, Tưởng Giới Thạch càng lấn tới và cuối cùng “đánh đã thay cho đàm”, cuộc nội chiến một lần nữa lại xảy ra, mãi đến năm 1949 mới yên tiếng súng, nước Trung Hoa mới ra đời, Chu Ân Lai trở thành thủ tướng và ra sức hoạt động ngoại giao nhằm xác lập chỗ đứng của Trung Quốc trên trường quốc tế.
Năm 1960, tôi đã là thư ký cơ yếu của Thủ tướng, được cùng ông đi thăm các nước. Khi tới Việt Nam, đoàn được tin Quốc vương Campuchia vừa tạ thế, Chu Ân Lai chỉ thị chúng tôi chuẩn bị com-lê màu trắng vì sang đến Phnôm Pênh vẫn trong những ngày quốc tang của bạn. Hoàng thân Sihanouk vô cùng cảm động trước cử chỉ lễ nghĩa đó của đoàn và đưa chúng tôi về hoàng cung ăn ở trong những ngày viếng thăm Campuchia. Chu Ân Lai dặn chúng tôi hai câu “nhập gia tùy tục” và “khách tùy chủ biện”, nghĩa là khách phải nghe theo sự sắp xếp của chủ. Ngày đầu tiên Sihanouk bố trí chương trình để cả đoàn cùng đi với nhau, nhưng hôm sau thì hoàng thân tháp tùng Chu Ân Lai, còn ngoại trưởng Campuchia đi riêng với Trần Nghị. Sihanouk đưa Thủ tướng của chúng tôi ra phi trường và tuyên bố: “Hôm nay tôi xin thân hành lái máy bay phục vụ Thủ tướng Chu Ân Lai”.
Trời ơi! Hoàng thân Campuchia không đùa đấy chứ? Hồi ấy Sihanouk còn rất trẻ, đang độ hăng hái của một chàng trai, nhưng Thủ tướng của chúng tôi là ông cụ 62 tuổi, giá như Sihanouk cũng 60 tuổi thì chắc ông không hành động như vậy. Tôi phải thừa nhận là Sihanouk rất thông minh, đã vào chuyện là y như đủ khắp mọi lĩnh vực, hoàng thân còn làm thơ, vẽ tranh, sáng tác nhạc, biểu diễn văn nghệ, biết lái xe ô tô, nhưng còn máy bay thì thật bất ngờ, hôm nay mới rõ “lý lịch” và cũng lần đầu tiên vào những năm 60 nghe tin một nguyên thủ quốc gia lái được cả phi cơ. Lúc này có nguyên soái Trần Nghị thì nhất định ông sẽ ngăn cản, nhưng Sihanouk thông minh đã “tách” ông đi nơi khác và bây giờ Chu Ân Lai hoàn toàn “khách tùy chủ biện”. Chu gật đầu mỉm cười, còn tôi thì hồn vía lên tận mây xanh. Sihanouk lái máy bay đưa Chu Ân Lai đến một hòn đảo mà lúc bấy giờ luôn bị quân Mỹ và quân đội Sài Gòn uy hiếp, hoàng thân giới thiệu với dân chúng “Đây là Thủ tướng của nước Trung Hoa”, mọi người hò reo cám ơn Trung Quốc đã đến với họ. Về phương diện chính trị, Sihanouk cũng thật khôn ngoan, mặc dù hồi ấy ông còn rất trẻ, đang độ hăng hái của một chàng trai. Tôi hú vía sau chuyến bay lịch sử ấy, âu cũng là một lần thoát hiểm về mặt tâm lý.
Chu Ân Lai vào sinh ra tử, lắm phen thoát hiểm giữa mưa bom bão đạn hoặc nhiều lúc hồn vía treo chín tầng mây. Thủ tướng của chúng tôi còn kinh qua không biết bao lần giao tranh chính trị và nhờ đại trí đại dũng mà chuyển bại thành thắng, biến nguy nan thành an toàn. Tôi nhớ, vào mùa hè năm 1931, những ngày u ám của Trung Cộng, Cố Thuận Chương - cán bộ của Cục Đặc vụ Trung ương đưa Trương Quốc Đào về căn cứ địa Ngạc Dự Hoản (3 tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, An Huy), không ai ngờ hai con người này lại là hai dòng tai họa đổ xuống đầu những người cộng sản chúng tôi. Lợi dụng chủ trương “túc phản”, thanh lọc, tại căn cứ địa này Trương Quốc Đào đã cơ hồ diệt sạch hàng ngũ tướng lĩnh ưu tú của Hồng quân, mức độ tàn khốc và đen tối của cụộc thảm sát cho đến nav sau hơn 60 năm mà vẫn chưa vạch trần ra hết. Sau đó Trương phát triển tới mức phân liệt đảng, lập riêng một cơ quan trung ương, tội ác của y dân chúng tôi đều đã rõ, hà tất phải tốn nhiều lời kể lể. Còn Cố Thuận Chương tuy thời gian tác oai của hắn cực ngắn, nhưng đã gây nên sự uy hiếp cực lớn đối với an toàn của trung ương Trung Cộng mà từ trước chưa hề có.
Cố Thuận Chương là công nhân Thượng Hải, sau khi gia nhập Trung Cộng, y đã leo lên vị trí ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, lãnh đạo công tác đặc vụ, bảo vệ, nắm hết mọi địa chỉ bí mật của Đảng và những người đứng đầu lúc bấy giờ. Hộ tống Trương Quốc Đào đến căn cứ địa Ngạc Dư Hoản xong, trên đường về y bị Quốc dân đảng bắt ở Vũ Hán và đầu hàng ngay từ những đòn tra tấn mở màn. Cố Thuận Chương rắp tâm hiến kế cho Quốc dân đảng một mẻ tóm gọn đầu não của Trung Cộng. Chu Ân Lai là người chỉ huy trận phản kích này, cùng với Trần Vân, Nhiếp Vinh Trăn, Lý Khắc Nông, Lý Cường v.v... ông cho sơ tán toàn bộ địa chỉ của trung ương Trung Cộng tại Thượng Hải, nhanh chóng cắt đứt các hòm thư liên lạc với Cố Thuận Chương mà trước đây đã thiết lập. Thủ tướng của chúng tôi lúc bấy giờ thật là một con người có mưu lược, bình tĩnh nhưng rất quả cảm, nhanh nhẹn nhưng rất chín chắn.
Đặng Dĩnh Siêu - vợ của Thủ tướng, người mà chúng tôi thường gọi với cái tên yêu “chị cả Đặng”, đã kể lại câu chuyện xảy ra năm 1928, lúc chị và Chu Ân Lai cùng đi sang Mạc Tư Khoa dự đại hội đại biểu toàn Quốc lần thứ 6 của Trung Cộng, Chu là đại biểu chính thức còn chị là đại biểu dự thính. Đầu tháng 5, hai vợ chồng đáp tàu biển của Nhật rời Thượng Hải. Đến Thanh Đảo, tàu cập bến cho khách lên bờ ăn cơm, Chu Ân Lai mua đủ các loại báo bán ở thành phố đem xuống tàu ngồi đọc say sưa. Lúc bấy giờ ở Tế Nam tỉnh Sơn Đông, quân Nhật vừa gây nên vụ thảm sát mồng 3 tháng 5, giết và làm bị thương hàng ngàn người Trung Quốc, và hôm nay sự kiện bị các báo vạch mặt. Cảnh sát Nhật chăm chú theo dõi hành vi đọc báo của Chu Ân Lai, một hành khách đặc biệt, cho nên khi tàu cập bến Đại Liên, bọn chúng ngăn hai vợ chồng lại.
Chu Ân Lai bình tĩnh hỏi:
- Chuyện gì thế này, thưa các ông?
- Anh làm nghề gì? - cảnh sát Nhật chất vấn.
- Mua bán đồ cổ - Chu Ân Lai không ngập ngừng trả lời, mặc dù trong va li của ông chẳng có lấy một mẫu vật cổ nào, nhưng từ lúc nhỏ Chu đã thành thạo, am tường về món hàng này nên có lẽ vì thế mà ông nhanh chóng đối đáp trôi chảy.
- Thế anh mua báo làm gì mà nhiều vậy?
- Trên tàu chẳng có việc gì làm, mua báo đọc tiêu khiển.
- Anh chị đi đâu?
- Cát Lâm?
- Lên Đông Bắc có việc gì?
- Thăm người cậu!
- Anh đi theo chúng tôi - viên cảnh sát trưởng hạ lệnh.
- Đi đâu?
- Về đồn cảnh sát!
Đặng Dĩnh Siêu hốt hoảng:
- Cho em đi với.
Chu Ân Lai quắc mắt quyền uy như bao đức ông chồng lúc bấy giờ, quay sang quát “Tiểu Siêu”:
- Nhà nó chẳng phải đi đâu cả, đến đó để làm gì? - Đoạn, ông trình bày lại với cảnh sát:
- Tôi sẽ đi theo các ông, nhưng trước tiên xin các ông thuê giùm cho chúng tôi phòng trọ, nhà tôi sẽ tạm trú ở đó, xong việc tôi còn biết chỗ mà tìm cô ta.
Ba tên cảnh sát nhìn nhau, khá khen cho con người khôn ngoan và tự tin này, chúng đành thuê phòng trọ cho Đặng Dĩnh Siêu, rồi mới đưa Chu Ân Lai về đồn.
- Cậu anh họ gì?
- Họ Chu.
- Tên gì?
- Mạn Thanh.
- Làm gì?
- Chuyên viên sở tài chính của tỉnh.
Chu Ân Lai trả lời lưu loát, dứt khoát, nhưng viên cảnh sát vẫn giảo hoạt khiêu khích:
- Chắc bây giờ anh đã quên mất họ tên của mình rồi?
- Tôi họ Vương như đã trình bày ông lúc nãy.
- Cậu anh họ Chu, sao anh lại là họ Vương?
Chu Ân Lai cười to:
- Thưa tiên sinh, ngài vẫn chưa phân biệt được cậu và chú ở nước chúng tôi hay sao, chú là em cha, cậu là em mẹ, nên họ hàng khác nhau bên Vương bên Chu, không giống như người Tây dương đều xưng mình là “uncle”.
- Nhưng tôi xem anh không phải là họ Vương mà là Chu, không phải đi buôn đồ cổ mà làm lính.
- Ông trông đôi bàn tay tôi, có đúng là lính không?
Viên cảnh sát rút hộc bàn nhìn vào một tấm cạc và lẩm bẩm ba chữ: Chu Ân Lai, rồi quát lớn:
- Anh là Chu Ân Lai!
- Tôi không rõ ông nói gì, tôi họ Vương, người Hoài An, các ông có căn cứ gì bảo tôi là Chu Ân Lai.
Viên cảnh sát im lặng, và dùng thủ đoạn tra hỏi lần nữa, nhưng Chu Ân Lai trả lời không sai một chữ, khớp với ban đầu. Cuối cùng hắn đành thả Chu:
- Xin lỗi tiên sinh, chúng tôi nhầm.
Chu Ân Lai bình tĩnh xem đồng hồ:
- Trễ của chúng tôi gần hai giờ rồi, dám phiền ông mua giúp cho hai vé xe lửa đi Trường Xuân.
- Vâng, làm ông bà vất vả quá.
- Cám ơn, chúng tôi chờ vé ở phòng trọ.
Lần ấy, Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu an toàn rời khỏi Đại Liên, tiếp tục hành trình sang Mạc Tư Khoa dự đại hội 6 của Trung Cộng.