Dịch giả: Nguyễn Xuân Minh
PHẦN III

     iều khó quên nhất trong chuyến về quê đó là tôi đã nhìn thấy chim ưng. Vì trời quá nóng nên chim ưng không thể bay quá cao. Ông nội nói, đến mùa thu, bầu trời trong mát, chim ưng sẽ đến rất nhiều, bay cao thật là cao. Có điều, tôi cũng không dám có tham vọng trở lại đây vào mùa thu để ngắm nhìn những chú chim ưng tự do bay lượn trên bầu trời cao xanh bát ngát. Tôi đặc biệt thích bài dân ca Bài Ca Chim Ưng của vùng núi Ande – Mỹ La Tinh. Bởi vì tôi chỉ được nghe bài hát này bằng tiếng Anh, không biết đã có ai dịch nói sang tiếng Trung Hoa chưa, cho nên tôi chỉ có thể hát cho các bạn nghe bằng tiếng Anh, để chúng ta ôn lại điệu múa tuyệt vời trên mây cao kia:
I’d rather be a sparrow than a snail
Yes, I would
If I could, I surely would
I’d rather be a hammer than a nail
Yes I would
If I could, I surely would
Away, I’d rather sail away like a swan tha’t here and gone
A man gets tied up to the ground
He gives the world its saddest sound, its saddest sound
I’d rather be a forest than a street
Yes I would
If I could, I surely would
I’d rather feel the earth beneath my feet
Yes I would
If I only could, I surely would
Tôi còn thích một bài hát của một ca sì người Chile, đại ý là:
“Anh khai đường mở lối trong rừng sâu núi thẳm
Anh để lại bóng mình giữa gió ngút ngàn khơi
Chim ưng mang anh bay lượn
Sự lặng lẽ đem giấu anh đi…”
Tôi đã lấy cái đĩa nhạc La Tinh này trong thư phòng của cha, có lẽ là ông đã mua nó. Có lần cha nói với tôi ông rất thích một ca sĩ người Argentina tên là Atahualpa Yparnqui, bởi vì ông rất thích một khúc samba Argentina mà ca sĩ này hát.
Cha tôi là người rất yêu quê hương, về đến quê, ông liền trở lại giống như một thanh niên, thậm chí có lúc còn giống một thiếu niên nữa. Về quê, cha không còn cái dáng vẻ đạo mạo chỉnh tề nữa, đầu tóc thì rối bù, ngồi xổm trên bờ ruộng hay sân phơi nói chuyện này, chuyện kia với những người bạn thời thơ ấu, có lúc còn khoanh chân ngồi bệt luôn xuống đất. Ông đã không còn biết làm việc nhà nông nữa nhưng nhiều lần ông nói với tôi, trong lòng ông luôn có một ham muốn mãnh liệt, đó là được lao xuống ruộng cuốc đất. Tôi từng đọc trong một bài tản văn của ông viết rằng, ông thích về nhà vào lúc trời chạng vạng tối, chân trần, dính đầy bùn đất, bị mẹ lúc đó đang ở trong bếp – tức là bà nội tôi nhìn thấy, vừa mắng mỏ vừa phủi bụi trên mình cho, sau đó bắt ra ngoài rửa sạch bùn đất ở chân. Dòng suối nhỏ trước cổng nhà chảy róc rách, róc rách, cha tôi đi ra, ngồi trên bờ suối ẩm ướt, vừa ngắm nhìn những làn khói bếp lan tỏa khắp nơi, vừa chậm rãi thả chân xuống nước. Một bầy dê đi tới tranh nhau uống nước bên cạnh ông, hoàn toàn không coi ông ra gì. Đợi đàn dê đi khỏi, tất cả lại trở nên yên bình. Ánh đèn hắt ra từ cánh cổng mở toang chiếu sáng nửa người ông, làm cho cả dòng suối cũng sáng lấp lánh. Đến khi nội tâm cha hoàn toàn tĩnh lặng thì cũng là lúc mẹ ông gọi vào ăn cơm. Ông vẫn xắn quần, cầm đôi dép lê đi vào trong. Sau một ngày lao động mệt nhọc, được ăn một bát canh chua do chính tay mẹ nấu, bao nhiêu mệt nhọc theo mồ hôi chảy hết ra ngoài, thử hỏi trên đời còn gì hạnh phúc hơn thế nữa? sau đó, ông lại ngồi trước cửa, đợi cho gió thổi khô mồ hôi trên mình. Trong bài tản văn đó, tôi như nhìn thấy chính bản thân mình. Tình yêu của tôi với thế giới tự nhiên, có lẽ đã được chảy sẵn trong dòng máu của ông, cả sự tĩnh lặng và chất thơ trong sâu thẳm tâm hồn tôi nữa, có lẽ cũng là do ông truyền lại cho.
Cha tôi cũng rất thích chim ưng, có điều ông không kích động như tôi. Ông đã nhìn thấy chim ưng đích thực, chim ưng bay lượn giữa bầu trời bao la. Trong một thiên tản văn khác, ông đã kể lại cảm giác của mình khi ấy. Ông nói, chính chim ưng đã mang ông rời xa quê hương, vì thế từ đó ông mới có cảm giác phiêu lãng. Ông còn nói, sau bốn mươi tuổi mới nhận ra, chim ưng, trong lòng ông, thực ra giống như một kẻ lang bạt, một đứa con của bầu trời. Tôi rất thích kiểu hình dung này. Mọi người đều nói chim ưng thích bay lượn trên bầu trời là vì chim ưng có lý tưởng cao xa vời vợi, còn tôi thì không nghĩ vậy. Tôi cho rằng vì tự do, vì được sở hữu một bầu trời rộng lớn nên chim ưng mới tự mãn, vì tự mãn nên mới khoái lạc, khoái lạc nên chim ưng mới trở nên tản mạn, ản mạn giống như một kẻ lang thang tục thế, không ngại điều gì mà cũng chẳng sợ bất cứ ai.
Hôm đó là một ngày âm u, nhưng bầu trời không đến nỗi tối quá, mây che mặt trời, nhưng gió cũng bay lượn khắp nơi trên đầu mình. Tôi là người từ nơi khác đến vì thế chỉ có mình tôi hay quan sát tự biến hóa của bầu trời. Lúc đó là khoảng ba giờ chiều, tôi nhìn mây trôi lững lờ trên cao mà thầm nhủ, người ở quê, đặc biệt là những người già thường tin rằng ngoại trừ thế giới của con người còn có một thế giới vĩnh hằng khác nữa, thế giới này có tồn tại hay không? cha tôi cũng nói, hồi nhỏ ông thường nhìn những rặng núi xa xa, thắc mắc không biết trên núi có thần tiên sống không? ông cũng thường hay ngắm những ngôi sao trên trời mà tự hỏi không biết mình là ngôi sao nào trên đó? Người sống ở thành phố, chắc chắn sẽ không bao giờ có những suy nghĩ ấy, nhưng sống ở đây, bạn sẽ nghĩ đến những điều này một cách hết sức tự nhiên, tự nhiên như là hơi thở vậy. Người ở đây không sùng bái khoa học mà hết sức kính ngưỡng tự nhiên. Tôi đang nghĩ vẩn vơ như thế, thì chợt thấy trên bầu trời xuất hiện một điểm đen.
 - Chim ưng! Có phải chim ưng không ông?
 - Ừ, đúng là chim ưng đấy!
Ông nội ngẩng đầu lên, nheo nheo mắt nhìn theo cánh tay tôi chỉ.
  -  Có phải là con chim ưng mà hồi nhỏ cháu đã thấy không ông?
Tôi kích động đến nỗi nói ra những lời thật ngớ ngẩn. Nói xong mới cảm thấy xấu hổ, đỏ bừng mặt.
Ông không nói gì, vẫn nheo mắt nhìn. Tôi nghĩ lại, thấy mình cũng thật buồn cười, bèn nói:
- À, làm sao lại là con chim ưng đó được cơ chứ?
Hồi nhỏ, có lần về quê, đúng vào giữa mùa thu, tôi đã nhì nty chim ưng bay lượn. Cũng chính là ông nội đã chỉ cho tôi và nói đó là chim ưng. Thực ra, nó luôn bay lượn trong lòng tôi, chẳng qua là tôi không nhận thấy, thậm chí là quên hẳn nó nữa. Cho tới hôm nay tôi mới thấy lại nó.
 - À, cái thứ này bây giờ cũng hiếm lắm rồi, cả quạ giờ cũng chẳng thấy đâu nữa. Nghe nói chim sẻ đều bay hết đến Tân Cương rồi…
Ông nội nói tiếng được, tiếng mất, không ngớt thở dài. Đúng vậy, chim sẻ càng lúc càng ít đi. Hồi nhỏ về đây, sáng nào tôi cũng nghe thấy lũ chim sẻ lích cha lích chích cãi nhau trong các tán cây.
Tôi chìm vào trong thương cảm. Có điều, sự xuất hiện của chim ưng rốt cuộc cũng làm tôi kích động suốt mấy ngày. Tôi nhìn nó đảo lượn trên đầu mấy vòng, rồi đột nhiên bay về phương Bắc, trong lòng chợt cảm thấy hơi thất vọng. Lệnh Huy hình như cũng hiểu tâm tư của tôi bèn nói:
 - Anh! đi nào! chúng ta đuổi theo.
Thế là nó và tôi lấy xe phóng về hướng Bắc. Ông nội ở phía sau hoảng hốt gọi với theo:
 - Chậm thôi! chú ý an toàn đấy!
Nhưng chúng tôi đã phóng xa tít mù tắp rồi. Tôi và Lệnh Huy đuổi được nửa tiếng đồng hồ thì chim ưng đột nhiên chuyển hướng bay về phía Tây rồi biến mất trong hư không. Tìm kiếm một lúc mà không thấy bóng dáng nó đâu, chúng tôi mới quay xe trở về nhà ông nội. Cả chiều hôm ấy, tôi cứ lẩm bẩm hát đi hát lại bài dân ca Bài ca chim ưng của vùng Andes. Mấy ngày sau đó, tôi đều ngồi đợi vị sứ giả của thần linh đó trở lại, nhưng không còn thấy nó xuất hiện nữa.
Tôi ở quê hơn hai mươi ngày trời. Trong những ngày ấy, hầu như tôi đã quên hết mọi phiền não trước đây, ngày nào cũng cảm thấy rất vui vẻ. Cha không còn quản lý tôi nữa, mà tôi cũng không tranh cãi với ông lần nào. Thậm chí, tôi còn không muốn về thành phố nữa. Cha cũng không muốn về. Ông thường nói với những người bạn của mình, ông rất muốn sống ở đây để sáng tác, để chăm sóc ông bà nội, ngồi nhà và hai thửa ruộng. Tôi biết đó là những lời chân thực từ tận đáy lòng ông, nhưng chúng tôi vẫn phải về thành phố. Ngày nào mẹ cũng gọi điện thúc giục hai cha con trở về.
Trước lúc đi, ông nội đã luộc cho cha con tôi một nồi đậu xanh và ngô thật to. Ông không nỡ để tôi đi, cứ đòi tiễn tôi ra tận đường quốc lộ. Bà nội thì chỉ đứng xa xa nhìn theo, mắt ngân ngấn lệ. Tôi không hiểu tại sao họ lại như vậy, có lẽ đến lúc già, tôi mới có thể cảm nhận được điều này.
Thế nhưng xe vừa mới vào đến thành phố là tôi cảm thấy mệt mỏi và buồn chán. Chưa bao giờ tôi thấy chán ghét phồn hoa và sự náo nhiệt ở đây như thế. Thậm chí tôi còn ghét cả cái kiểu sính mốt ở đây nữa, trước đây, ở trường, tôi là đại biểu của những mốt mới, còn giờ thì, vừa nhìn thấy những thứ ấy là tôi đã chán ghét hoàn toàn, chán kinh khủng. Mọi thứ ở đô thị diễn ra quá nhanh, nhanh đến mức làm người ta cảm thấy tất cả đều rất dễ biến mất, đều không đáng tin. Tôi chợt cảm thấy yêu thích những gì cũ kỹ, cổ xưa.