Nhóm dịch thuật Song Ngư
Chương 20
Vết khói vàng

     gày hôm trước khi hạm đội phải tới đảo Kwajalein, thì Willie đang đi ca đêm từ tám giờ đến mười hai giờ khuya. Anh để ý thấy trên đài chỉ huy các thủy thủ có vẻ căng thẳng. Kể cả lúc không có mặt hạm trưởng, vẻ yên lặng nặng nề bao phủ cả phòng lái. Các cuộc thảo luận bất tận về đàn bà trong phòng radar vẫn tiếp nối không ngừng như giữa các bóng ma thấp thoáng qua ánh sáng mờ ảo của các mặt kính dạ quang, thế nhưng những câu chuyện này dần dần thiếu hào hứng nên cuối cùng chỉ giới hạn loanh quanh trên những đề tài về các chứng bệnh phong tình. Mấy người giám lộ đứng ngồi lao xao trên các thùng cờ, uống những ly cà phê đắng chát, thì thầm chuyện vãn.
Không có một tin chính thức nào nói rằng sáng ngày mai chiến hạm phải có mặt tại Kwajelein, nhưng trong thủy thủ đoàn có một nhân viên tình báo ở cấp bậc trung sĩ nhất giám lộ, anh này mỗi tối lại đến gặp Maryk để giải các bài toán định vị trí bằng thiên văn. Như thế họ vẫn có thể biết được khoảng cách tới điểm hẹn còn bao xa, không khác gì hạm trưởng.
Willie không bi quan như tất cả mọi người. Anh tỏ ra vui vẻ và lém lỉnh. Trong mười hai tiếng đồng hồ nữa anh sẽ đi vào cuộc chiến, và trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau, anh sẽ là người đã đi vào vùng nguy hiểm đến tính mạng cho tổ quốc. Nhưng anh vẫn cảm thấy mình an toàn. Anh biết rằng mình đang đi tới chốn hiểm nguy, nhưng anh cho đó là cái nguy hiểm không khác chi một trò chơi, như là chuyện cưỡi ngựa vượt rào ngăn. Anh hãnh diên là không hề có một chút sợ sệt nào cả, và như thế làm cho anh còn cảm thấy vui tươi, hớn hở hơn.
Chỉ có một mình anh, hạm trưởng, biết rằng chiếc Caine phải thi hành một công tác đặc biệt vào hừng đông hôm sau. Một trong những công điện tối mật mang nhiều chỉ thị mới. Chiếc trục lôi hạm có nhiệm vụ phải hướng dẫn một loạt các xuồng đổ bộ từ các tàu chuyển quân tới một điểm xuất phát đầu cầu cách bờ biển không tới một ngàn thước, ngay dưới hỏa lực của phòng thủ duyên hải địch, lý do là các xuồng đổ bộ quá thấp trên mặt biển nên khó tự mình định được vị trí và hướng đi chính xác. Willie cảm thấy khoái là tinh thần mình thoải mái hơn những người khác, những người đã từng thấy lửa đạn, trong khi anh chưa hề   tham dự cuộc giao tranh nào, mặc dù anh biết được cái nguy hiểm to lớn đang chờ đón, trong khi họ thì mù tịt, chưa hay biết gì cả.
Cái lạc quan của anh thật sự dựa trên một ước lượng chính xác (nhưng hoàn toàn trong vô thức) về vị thế của mình, ước lượng do tinh thần và đầu óc của anh. Anh sẽ không đổ bộ lên một bãi biển nào cả, cũng có cái nguy hiểm của một lối đánh cận chiến mặt đối mặt với quân thù vạm vỡ hung hăng chìa các lưỡi dễ sợ. Người ta không thể chối cãi, chắc hẳn như vậy là có sự gia tăng về ước tính để mà một tai hại nào đó có thể xảy ra cho chiếc Caine, dưới hình thức một trái pháo, một ngư lôi, hay một quả mình có thể nổ tung bất cứ lúc nào. Những xác xuất để anh có thể sống còn trong hai mươi bốn giờ sắp tới đây tụt xuống, thí dụ như, mười ngàn trên một, con số hơi thấp nhưng vẫn còn vững chãi, bảy chục hay tám chục trên một, có thể lắm. Trên đây là cái lối suy nghĩ của Willie, dựa trên đó, anh đưa vào trong đầu óc mình một vài chất xúc tác trợ lực làm tăng thêm sự dũng cảm của người thiếu úy trẻ.
Thần kinh căng thẳng của thủy thủ đoàn làm giảm đi phần nào sự lạc quan đó do một lý do rất giản dị: các người này đã chứng kiến những hậu quả khủng khiếp của trận chiến, những chiến hạm bốc cháy với ngọn lửa đỏ lửa vàng, rồi chìm lỉm, đoàn người lềnh bềnh trôi nổi, bám víu vào cạnh cái vỏ tàu bị lật ngang, mặt mũi dính đầy dầu nhớt, cơ thể tan nát rướm máu, chân tay không còn, những xác người trôi lềnh bềnh trên mặt nước. Họ có khuynh hướng ít nghĩ tới các xác xuất lý thuyết hơn là những hình ảnh ghê rợn kia còn mãi ám ảnh trong tâm trí họ.
-  Sĩ quan đương phiên!
Tiếng nói của hạm trưởng Queeg vang dội trong ống nói từ phòng hải đồ vọng lên. Bị gọi bất ngờ, Willie nhìn thoáng qua cái mặt kính dạ quang của đồng hồ. mười giờ rưỡi tối rồi, thường thì giờ này hạm trưởng phải ở trong phòng của mình. anh nghiêng người tới miệng ống và nói:
-  Keith đây. Tôi nghe, hạm trưởng.
-  Anh xuống đây, Willie.
Ông hạm trưởng, ăn mặc từ dầu đến chân, với cái áo phao trên người, đang nằm đong đưa trên một cái võng mắc ngang phía trên cái bàn hải đồ. Đó là cả khung cảnh đầu tiên Willie nhận thấy khi anh bước vào, và khép cửa phòng hải đồ, cái đèn đỏ duy nhất trên trần phòng bật cháy lên tự động. Không khí trong phòng nặng trĩu mùi khói thuốc.
-  Có gì lạ không, Willie?
-  Dạ, mọi việc bình thường, hạm trưởng.
Hạm trưởng xoay người lại, nhìn viên thiếu úy. Gương mặt của ông ta tỏ vẻ mệt nhọc và tua tủa râu ria dưới cái ánh đèn đỏ yếu ớt của căn phòng.
-  Anh có đọc tiêu lệnh hải hành ban đêm của tôi không?
-  Dạ có đọc, hạm trưởng.
-  Nếu có gì bất thường thì gọi tôi liền, anh hiểu rồi chứ? đừng có ngại cho đánh thức tôi dậy, kể cả lúc tôi đang ngủ ngon. Nhớ gọi tôi nhé.
-  Dạ vâng, hạm trưởng.
Nhưng cái phiên hải hành này đi qua một cách vô sự với những tiếng ping ping đều đều của máy dò tàu ngầm, những đường zic zac, và giữ vị trí trong đội hình. Lúc mười hai giờ kém một khắc, Harding tới gần Willie trong bóng tối lạnh lẽo từ bên cánh hữu của đài chỉ huy. Hắn nói với một giọng buồn bã, miệng thở ra một mùi cà phê thơm phức:
-  Sẵn sàng thay ca.
-  Tốt lắm, còn bốn chục hải lý nữa. Chả có gì cả.
Willie hơi do dự trước khi đi xuống, tự hỏi hay là mình nên đi xuống boong chính tìm một góc nào nằm gọn ở đó. Nhưng lúc vừa leo tới nấc thang chót cầu thang, anh nhận thấy phân nửa thủy thủ đoàn cũng đã thực hiện cái ý nghĩ của anh. Tất cả boong chính đều đầy người, không còn lối đi qua mấy chỗ đó nữa. Quang cảnh này làm cho Willie cảm thấy cao ngạo và gan dạ thêm. Anh bèn đi xuống, cởi bỏ áo quần và chui vào giường. Mặc dù giờ khuya khoắc này, anh thấy kỳ kỳ như là mình đang nhuốm bệnh bắt buộc phải nằm lỳ trên giường như lúc ban ngày. Anh vẫn còn tự khen thưởng về cái can đảm của mình khi anh thiếp vào giấc ngủ.
GHANG, GHANG, GHANG…
 
Báo động vang liên hồi khi anh vội chạy lên ngay trên boong với áo thun trên mình, và quần lót, hai tay nắm chặt đôi giày, cặp vớ và quần dài. Anh thấy mặt biển êm ả, bầu trời tối đen lốm đốm những vì sao, và hàng loạt các chiến hạm đang chạy tới chạy lui chỗ này chỗ kia để sắp vào đội hình. Các thủy thủ xôn xao chạy dài theo các hành lang tối om, leo lên leo xuống mấy cái thang, khỏi cân phải phạt họ ngày hôm nay nếu họ có thiếu nón sắt hoặc là áo phao. Trong lúc Willie đang gấp rút mặc quần vô, thì nắp hầm phòng ăn sĩ quan đóng sập một cái rầm xuống sau lưng anh, và những người trong toán cấp cứu sân trước chiến hạm tới đóng chắc nó xuống. Willie mang vội đôi giày, chân không có vớ, và leo thang lên đài chỉ huy. Đồng hồ phòng lái chỉ ba giờ rưỡi. cái nơi chật hẹp này bây giờ đầy những bóng người hỗn độn. Willie nghe được tiếng những viên bi sắt lăn vào nhau. Anh với lấy áo phao và nón sắt trên một cái móc và tiến gần tới cái bóng người cao lớn của Harding.
-  Sẵn sàng nhận ca. chuyện gì vậy?
-  Chả có gì. Mình tới nơi rồi.
Harding chỉ vào một điểm phía trước tả hạm và gi cặp ống nhòm cho Willie. Willie thấy ở tận chân trời, trên cái đường giữa trời và biển, một vết mỏng không đều, có thể là cỡ như cái ngón tay. Harding nói:
-  Roi-Namur.
Có những ánh chớp màu vàng lóe lên dài theo vệt mờ đàng xa. Willie hỏi:
-  Đó là gì vậy?
-  Các thiết giáp hạm đã đi tới trước đó hai tiếng đồng hồ rồi. Chắc là chúng chớ gì. Hoặc là các máy bay. Mình phải có người dội nát cái bãi quỷ đó.
-  Ờ, đúng rồi chứ gì.
Willie vừa nói, hơi bất bình thấy trái tim mình đập thình thình, anh tiếp.
-  Nếu không có gì thay đổi, tôi nhận ca.
-  Không có gì thay đổi hết.
Harding từ từ rời đài chỉ huy. Bây giờ tiếng bom từ trên bờ vẳng theo tiếng sóng đến tai Willie, nhưng ở khoảng cách này, cái âm thanh kia như là tiếng búa nện của những thủy thủ đang đập mấy miếng thảm ở phía trước chiến hạm. Willie tự nói thầm rằng cái tiếng mơ hồ kia với những ánh chớp màu sắc tượng trưng coh một sự hủy diệt ghê gớm phủ lên đầu bọn Nhật, và trong một giây phút nào đó, anh đã tưởng tượng ra hình ảnh một tên lính Nhật với đôi mắt một mí đang ngồi   chò hỏ, run rẩy trong một góc rừng bốc cháy, nhưng cái hình ảnh đó để làm những ký sự chiến tranh đăng trong các tạp chí thì sẽ tạo nên những tác dụng lầm lạc thiếu sót. Nói cho đúng ra, là Willie đã thấy thất vọng ngay lần đầu tiên cảm nhận cái không khí chiến tranh. anh có cảm tưởng tham dự vào một cuộc tập dợt hải pháo tầm thường trong đêm tối với một tầm cỡ không mấy quan trọng.
Đêm đen đang đổi qua màu xanh xám, các vì sao biển mất trên nền trời, và ánh mặt trời rọi sáng mặt biển khi hạm đội đã ngừng ở vị trí cách bờ ba hải lý. Các xuồng đổ bộ bắt đầu được thả xuống từ những móc của chiến hạm chuyển vận, lúc nhúc dưới nước như những con bọ hung.
Bây giờ đây, Willie đứng trước một cuộc chiến chắc thắng, trận chiến một chiều, bởi lẽ chưa có một tiếng súng nào phát ra từ phía bờ, nhưng không phải vì thế mà thiếu cảnh chết chóc.
Những hòn đảo xanh um cây cối với những bãi cát trắng xóa đã bốc lửa và khói cuộn lên ở nhiều điểm. Các thiết giáp hạm cũ xưa đồ sộ, đã từng bị báo chí chỉ trích không biết bao nhiêu trong thời bình, đang chứng minh được với sự hăng hái linh động ba chục năm bảo trì tốn kém bằng cách cứ vài giây lại phóng cả tấn đại bác khổng lồ vào những bụi rậm của rừng xanh. Những tuần dương hạm và khu trục hạm bên cạnh các thiết giáp hạm này cũng thi nhau pháo kích hòn đảo san hô. Thỉnh thoảng cuộc hải pháo tạm ngưng, và những phi đội oanh tạc bay lướt qua trên đầu các chiến hạm rồi thay phiên hết chiếc này đến chiếc khác bổ nhào xuống đảo, làm dấy lên các đám mây khói trắng xóa hay ngọn lửa đỏ rực, và lâu lâu lại thấy một cái nấm đen bốc lên, cho biết là một kho đan hay kho nhiên liệu bị đốt cháy phát ra tiếng nổ dữ dội làm rung chuyển cả boong chiếc Caine. Các chiến hạm chuyển vận không ngừng đổ thêm những xuồng đổ bộ xuống mặt biển xám xịt và sóng gió, trong hàng lối ngay ngắn. mặt trời ló dạng trong đám sương mù trắng toát.
Quang cảnh của đảo san hô chưa bị cuộc tấn công này hủy hoại. những đám khói màu cam đó đây lại tô điểm trang trí thêm cái màu xanh um dễ mến của hòn đảo, kể cả những cụm khói màu đen hay trắng. Mùi thuốc súng thoang thoảng trong gió, và đối với Willie, điều này mang tới cái không khí vẹn toàn vui nhộn của một buổi sáng. Anh không thể nói ra tại sao. Có thể bởi vì cái mùi này, pha trộn với tiếng bom không ngừng, làm anh nhớ lại cảnh xem pháo bông ngày quốc khánh mùng bốn tháng bảy.
Keefer đứng cạnh anh một chốc bên tả hạm. những chùm tóc đen láy lòi ra khỏi cái nón sắt màu xám của văn sĩ. Cặp mắt lóng lánh chiếu ra từ hai lõm sâu hoắm những tia trắng xóa.
-  Anh thích hoạt cảnh này không, Willie? Có vẻ như tụi mình đang độc diễn hả?
Willie đưa tay chỉ tới một khối chiến hạm đang bao vây những hòn đảo nhỏ và mong manh trong buổi hừng đông êm dịu như những viên ngọc trai.
-  “Multitudes, multitudes” trùng trùng điệp điệp. Anh nghĩ thế nào vê hải quân bây giờ đây, hả Tom?
Keefer nở nụ cười nhẹ, nhếch một bên mép:
-  Trời ơi! Dân đóng thuế phải đổ vào đó cả trăm tỉ đô la cũng phải được đền bù một cái gì chứ.
Rồi anh ta leo lên boong trên.
Queeg hiện ra, người khòm xuống như muốn gãy làm hai, cái đầu ông ta quay qua quay lại không ngừng trên cái cổ cứng ngắc của cái áo phao cấp cứu. đôi mắt ông ta liếc nhanh gần như khép kín, và ông ta có vẻ cười vui:
-  Mà này, ông sĩ quan đương phiên, rồi cái đám xuồng đổ bộ LVT mà mình phải hướng dẫn vô bãi biển đâu rồi?
-  Thưa hạm trưởng, tôi chắc là cái toán này, gần APA-17
Willie chỉ một chiến hạm chuyển vận to lớn màu xám ở gần bốn ngàn thước phía trước tả hạm.
-  APA-17, hả? anh có chắc rằng từ đó bọn họ đi không?
-  Theo các tiêu lệnh, là như vậy hạm trưởng. toán Jacob Bốn khởi hành từ APA-17.
-  Tốt lắm. mình đi tới APA-17. Vận tốc bình thường. anh coi việc vận chuyển.
Hạm trưởng biến mất sau đài chỉ huy. Willie đi vô phòng lái với bước chân nhịp nhàng, nghiêm nghị, tự thấy mình quan trọng, bắt đầu thét ra các lệnh. Chiếc Caine rời vị trí sơ khởi, và nhắm hướng chiến hạm chuyển vận trực chỉ. những loạt đại bác tóe lửa nổ rền trời càng lúc càng trở nên dữ dội hơn khi chiếc Caine tiến sâu vào đội hình. Viên thiếu úy thấy mình hơi bị choáng váng và kích thích, như là vừa mới uống vội một ly whisky lớn. anh đi qua đi lại đài chỉ huy, nhắm hướng độ của nhóm chiến hạm ở APA, kêu hỏi hướng độ, khoảng cách bằng radar, và la hét những thay đổi hướng đi chiến hạm với sự tự tin cô một người đượm hơi men.
Một dãy dài các xuồng đổ bộ tách ra khỏi những nhóm bao quanh chiếc tàu chuyển vận và tiến tới chiếc trục lôi hạm cũ kỹ. Willie đi tìm hạm trưởng và thấy ông ta ngồi vắt vẻo trên thùng cờ giám lộ trên boong thượng, không trông thấy gì cái đám chiến hạm chuyển vận và bãi biển, miệng ngậm điếu thuốc, và đang nói chuyện tầm phào với Engstrand.
-  Hạm trưởng, toán Jacob Bốn đang đi tới chiến hạm mình.
-  À, tốt lắm.
Queeg nhìn ra phía biển một cách mơ hồ và kéo một ngụm khói thuốc.
Willie hỏi:
-  Tôi phải làm gì, hạm trưởng?
Hạm trưởng nói, với nụ cười gọn:
-  Anh muốn làm gì cũng được.
Viên thiếu úy nhìn thẳng vào hạm trưởng của mình. Queeg tiếp tục kể lại một giai thoại của cuộc đổ bộ ở Attu cho người giám lộ. Engstrand đảo cặp mắt nhìn sĩ quan đương phiên một chặp, rồi hắn nhún vai.
Willie trở lên đài chỉ huy. Mấy chiếc xuồng đổ bộ chạy ào ào tới chiếc Caine, làm bắn lên những tia sóng. Nhìn từ ống dòm, Willie thấy một sĩ quan đứng phía sau cái xuồng đi đầu, tay cầm một loa phóng thanh lớn. Những tia sóng văng lên áo phao cấp cứu, trên bộ quân phục kaki, và làm ướt luôn phía sau lưng của các thủy quân lục chiến ngồi bệt trước mặt anh ta. Cặp ống dòm hơi bị lu mờ nên anh không thấy rõ các chiếc xuồng và các quân nhân trên đó. Willie có thể thấy các binh lính này la hét, tuy nhiên anh không thể nghe thấy là gì, cứ y như là một phim câm vậy. Anh không biết sẽ phải làm gì nữa. Anh nghĩ rằng phải cho ngừng chiến hạm, nhưng lại không dám lấy một quyết định như vậy.
Maryk đi vào trong đài chỉ huy:
-  Ủa, vậy chứ hạm trưởng đâu rồi? mình sẽ nhận chìm hết bọn này bây giờ.
Chàng thiếu úy lấy ngón tay cái chỉ cánh cửa bên hữu hạm. Maryk bước nhanh tới và đưa mắt nhìn phớt qua vào cái thùng đựng cờ, anh ra lệnh nhanh chóng:
-  Được rồi. Hai máy ngưng.
-  Anh lấy cái loa phóng thanh cũ kỹ bằng cạc tông đỏ treo dưới cái cửa sổ bên tả hạm, và đi ra phía ngoài. Chiếc Caine chậm dần và lắc ngang. Maryk la lớn:
-  Xuồng..đổ…bộ…Ú…U!
Viên sĩ quan trên xuồng  đổ bộ trả lời, trong một tiếng yếu ớt trên mặt nước, trẻ trung, căng thẳng, và chắc hẳn là giọng miền nam:
-  Toán Jacob Bốn, sẵn sàng đi tới điểm xuất phát.
Queeg đưa cái mặt ông ta vào phía cửa của đài chỉ huy, giận dỗi và hét lớn:
-  Cái gì vậy? Ai vừa nói ngưng máy đó? Ai la lối với ai vậy?
Viên hạm phó la lớn từ phía bên kia đài chỉ huy:
-  Xin lỗi hạm trưởng, mình đã đi lố mấy  cậu nhỏ này rồi. Vậy nên tôi mới cho ngừng máy. Đó là toán Jacob Bốn. họ sẵn sàng khởi hành.
-  À, được rồi. làm cái này cho xong chuyện cho rồi. hướng và khoảng cách tới điểm khởi hành bao nhiêu?
-  Hướng 175, khoảng cách 4000, hạm trưởng.
-  Được rồi Steve. Anh chỉ huy vận chuyển và đem chiến hạm tới đó.
Vừa nói xong Queeg biến mất. Maryk xoay qua phía xuồng đổ bộ, viên sĩ quan trên xuồng để cái loa vào tai để nghe thông điệp. Hạm phó la lớn:
-  Chúng tôi sắp đi đây. Các anh theo chúng tôi. Chúc may mắn.
Viên sĩ quan trên chiếc xuồng đưa cái loa vẫy vẫy, và ngồi xuống trên cái xuồng bắt đầu tiến tới trước. Cái xuồng chỉ cách hông chiến hạm chưa đầy 50 thước. Đó là một cái LVT, một trong số đông những loại xuồng đổ bộ cỡ bự được sản xuất và biến cải trong Đệ Nhị Thế Chiến, một tiểu đỉnh bọc thép được gắn dây xích giống như xe tăng, trông dị hợm. nó có thể bò trên đất hay lội dưới nước những đoạn đường ngắn. thật ra không tiện nghi chút nào để lội dưới nước hay bò trên bộ, nhưng sở dĩ hải quân còn xử dụng nó chỉ vì nó làm được cả hai việc. Willie thấy tội nghiệp cho các binh lính bị ướt sũng trên cái xuồng nhỏ này đang nhảy lên nhảy xuống, lăn qua lăn lại trên sóng như một món đồ chơi.
Maryk để hướng đi tới đảo san hô. Chẳng có cái gì giữa chiếc Caine và hòn đảo Nhật tên Enneubing (mà hải quân cho một bí danh là “Jacob”), mà chỉ có vài ngàn thước của một mặt nước biển động nổi sóng trắng xóa. Willie có thể nhìn thấy các chi tiết trên bãi biển: một cái lều, một chiếc xuồng trơ trọi, mấy thùng dầu, những cây dừa nước gãy nát. Anh nghĩ rằng chả bao giờ nhìn thấy được một màu xanh đậm đà như thế, cái màu xanh phong phú của đảo Jacob, mà cũng chưa hề nhìn thấy một màu trắng như màu trắng của cát ở đây. Có đám cháy trên đảo, lửa màu da cam chiếu sáng những ngọn cây, và không có một cử động của một sinh vật nào. Anh nhìn hàng những chiếc xuồng đổ bộ nhảy lên nhảy xuống sau đuôi của chiến hạm, và nhận thấy một thủy thủ ở chiếc xuồng đi đầu giơ vẫy cái cờ hiệu một cách tuyệt  vọng. Willie ra dấu bằng tay “đánh đi”. Những lá cờ cho liền các chữ:
TRỜI ƠI, CHẠY CHẬM GIÙM MỘT CHÚT.
Đã nhiều lần như vậy, người thủy thủ té từ chỗ đánh cờ mỗi khi chiếc xuồng nhúi đầu xuống lõm sóng bọt bèo. Cái mảng bọt sóng che phủ mất cái xuồng mấy giây đông hồ.
Queeg lên tới đài chỉ huy và chạy vội đến bên cạnh Willie:
-  Ờ, cái gì vậy? – Ông ta hỏi dồn – Chúng nó muốn cái gì? Mà anh có đọc được cái thông điệp của họ không? hay là anh không đọc được?
-  Họ muốn mình đi chậm lại, hạm trưởng.
-  Trời đất, kệ họ chứ. mình phải tới cái điểm xuất phát vào giờ H. nếu họ không theo kịp, thì khi tới nơi mình sẽ phóng lên một trái khói màu, và chỉ có như vậy.
Queeg nhìn nhanh về phía đảo, và chạy vô phòng lái:
-  Chúa ơi! Steve, bộ anh muốn chạy lên nằm mắc cạn trên bãi hay sao?
-  Không có đâu, hạm trưởng. Còn chừng một ngàn năm trăm thước mới tới cái điểm xuất phát.
-  Một ngàn năm trăm? Anh điên hay sao! Bờ biển đâu có cách mình một ngàn năm trăm thước!
-  Hạm trưởng, đường tiếp giáp cái mỏm của hòn Roi ở hướng 045. Bây giờ đang ở 065.
Urban, ở cái máy ngắm bên tả hạm, la lớn:
-  Hòn Roi hướng 064.
Hạm trưởng chạy nhanh ra cánh tả hạm và đẩy người giám lộ nhỏ con qua một bên:
-  Anh đui rồi – ông ta chúi mắt vào máy ngắm – đúng như tôi đã nghĩ. Zero năm bốn, như vậy là mình không còn mảy may nào an toàn về độ giạt dài theo hướng độ. mình đã ở bên trong cái điểm khởi hành rồi. tay lái bên phải hết! tay lái bên phải hết! – ông ta hét – hai máy tiến hết tốc lực! phóng lên ngay một trái khói màu!
Mấy ống khói nhả ra từng ngọn khói đen cuồn cuộn. Chiếc Caine quay mạnh về hữu hạm và vẽ một vòng bán nguyệt nhỏ bọt sóng trên mặt biển, trong lúc nó trở lại gấp rút hướng ngược lại. Một phút sau đó, tất cả những xuồng đổ bộ của toán Jacob Bốn chỉ còn là một hàng vết điểm chờn vờn trên sóng xa đàng sau chiến hạm. Gần đó một dấu vết vàng rộng lớn chiếu tỏa sáng ra trên mặt biển.
Tuy vậy đến cuối ngày chiếc Caine cũng hùng dũng đi vào con kinh giữa hai hòn đảo nhỏ Jacob và Ivan, cùng một lượt với hàng trăm chiến hạm khác của lực lượng tấn công. Cờ Hoa Kỳ phấp phới trên hai hòn đảo này. Chiếc Caine thả neo trong một cá hồ. Queeg cho đặt các lính canh vũ trang hai bên hông chiến hạm, và nhưng lệnh là bắn vào ngay các lính Nhật bơi tới đây, và cho giải tán nhiệm sở tác chiến. chả có việc gì khác để làm. Bị bao quanh bởi các chiến hạm vận chuyển và khu trục hạm, chiếc Caine không thể khai hỏa lên phía bờ, kể cả khi được lệnh. Những thủy thủ hải pháo vui mừng rời bỏ nhiệm sở ở các ổ súng, nơi mà chúng đã bị cố thủ suốt trong mười bốn tiếng đồng hồ qua, và phần lớn bọn họ đi xuống ngủ. cũng dễ cảm nhận cái nguy hiểm không khác các chú mèo, họ biết rằng không còn mối hăm dọa nào nữa ở cái đảo Kwajalein này. Willie, thì cũng vậy, anh thấy đôi mắt mình xốn xang, nó bắt buồn ngủ, nhưng anh lại leo lên cái boong trên để theo dõi trận chiến.
Thật là một cuộc chiến kỳ lạ, chiến sự ở cái đảo Kwanjalein là một bài học binh thư nhập môn cho một chàng trai trẻ. Có thể đó là một trận đánh dị thường mà anh chưa từng thấy bao giờ. Chiến thắng đã được quyết định ở cả ngàn cây số cách đó, nhiều tháng trước khi nổ phát súng đầu tiên. Các vị đô đốc đã ước đoán đúng rằng “những hàng không mẫu hạm không thể nào chìm” của đô đốc Mikado đã thiếu đi một vũ khí quan trọng: phi cơ chiến đấu. rất nhiều phi cơ Nhật bị hạ khỏi vòm trời trong trận chiến nhỏ xung quanh đảo Salomon. Những chiến hạm còn lại thì trở nên rất quý giá cho Thiên hoàng, và cái mớ vũ khí mà được bảo vệ sơ sài thì không phải là vũ khí gì cả. việc hạm đội và binh lính Mỹ chỉ đi tới đó thôi thì cuộc chiến trên lý thuyết kể như xong rồi. chẳng có gì nhiều ở Kwajalein, ngoài vài ngàn lính Nhật đối diện với cả một hạm đội khổng lồ dàn ra trước mặt biển, họ bị triệt tiêu chỉ trong vài tiếng đồng hồ do hàng loạt pháo kích bom và đạn pháo. Đáng lý ra mỗi hòn đảo phải trương một lá cờ trắng từ lúc mặt trời vừa ló dạng theo tất cả các luận lý của chiến tranh mới đúng. Nhưng người Nhật ngoan cố không chịu đầu hàng, các phi cơ dội bom của hải quân đã thiết kế cuộc tiêu diệt với một sảng khoái kỳ lạ, ác độc, sỗ sàng.
Willie vui hưởng và khen ngợi cuộc hành quân mà không nghĩ tới cái chết chóc nó gây nên. Dưới một ánh chiều tà lộng lẫy với hai sắc hồng và xanh, cuộc dội bom đang đem vào trong không gian cái khung cảnh như ngày đại hội Mardi Gras. Các hòn đảo xanh um đang bốc cháy, từng đám vết đỏ lan rộng ra. Những lằn đạn lửa thêu dệt lên trên các vùng nước tím thẫm những điểm dài nối tiếp màu đỏ tươi tắn, cái họng của những khẩu đại bác khổng lồ khạc ra những ngọn lửa dưới ánh chiều tà trở nên càng vàng và càng sáng rực hơn, và tiếng ầm ĩ của những vụ nổ làm rung chuyển cả bầu không khí từng hồi đều đặn, khi cái mùi thuốc súng ở khắp đâu đây, hòa lẫn một cách lạ thường với cái mùi hương êm dịu sâu đậm của cỏ cây miền nhiệt đới bị nghiền nát và nóng cháy, mang theo tới bằng từng cơn gió nhẹ. Willie dựa người bên vách trên boong trên áo phao liệng dưới chân, nón sắt lật ra sau trán ẩm ướt, anh hút thuốc và huýt sáo những bài ca của Cole Porter và ngáp một cái, một khán giả mệt mỏi nhưng hân hoan.
Cái nhẫn tâm lạnh lùng như một chiến sĩ khát máu của đoàn quân Thành Cát Tư Hãn là một việc lạ đời nơi một thanh niên phúc hậu trẻ tuổi như thiếu úy Keith. Về phương diện quân sự, lẽ dĩ nhiên là một vốn liếng vô giá. Như phần lớn các đao phủ hải quân ở Kwajalein, anh hình như xem kẻ thù như là một đám thú vật nguy hiểm. Từ cái im lặng não nề và thô bạo trong cái chết của người Nhật, họ thấy từ phía họ là sự hài lòng đã đột kích những đàn kiến đáng sợ với vũ khí đầy mình. Việc hai bên đều quên đi sự kiện là những kẻ đối nghịch cũng là những con người, có thể là lý do của nhiều cảnh tàn sát trtg chiến tranh ở Thái Bình Dương. Cuộc hành quân Kwajalein, cái màn đầu của những cuộc tàn sát kia, một bài cổ điển về hải chiến, một bài học cho nhiều thế hệ mai sau. Chả bao giờ người ta thấy cuộc hành quân được quan niệm đúng và thi hành chính xác như một cuộc giải phẫu. Là kinh nghiệm chiến trường đầu tiên của một thanh niên, thì cuộc hành quân này là quá phong phú, quá đẹp, quá dễ, quá hoàn hảo.
Whittaker ló đầu lên đầu cầu thang lên boong trên, nói:
-  Hooptchao, ông Keith.
Những vì sao đã chớp sáng trên trời, Willie đi xuống và ngồi vào bàn với các sĩ quan khác trong buổi ăn tối thịnh soạn có bít tết. khi bàn ăn đã được dọn dẹp xong, Willie, Keefer, Maryk và Harding còn ngồi lại chung quanh cái ghế bọc vải xanh lá cây, uống cà phê.
Keefer đốt điếu thuốc, và day qua Maryk:
-  Anh nghĩ thế nào về cái màn của cái Lão Dấu Vàng ngày hôm nay?
-  Dẹp chuyện đó đi, Tom.
-  Có chuyện chứ sao không có được, phải không? cụp đuôi ngay cả trước khi mình tới đường xuất phát, và bỏ cái đám thảm hại kia tự lo hải hành một mình!
Hạm phó trả lời xẵng giọng:
-  Tom, anh lúc đó không có ở trên đài chỉ huy. Anh biết anh nói gì không hả?
-  Tôi đang ở trên boong trên một mình, ông bạn già Steve ạ, và tôi thấy và tôi nghe ráo.
-  Mình có để lại một mốc hiệu. họ hẳn phải biết là họ đang ở đâu chứ…
-  Mình đã liệng cái đó xuống khi mình còn hai chục độ mới tới đường tiếp giáp.
-  Chỉ có mười độ thôi. Hạm trưởng đã đọc năm mươi bốn, không phải sáu mươi bốn.
-  Ờ, mà bộ anh tin vậy hả?
-  Và khi mình quay, đã tới trước cỡ sáu trăm, bảy trăm thước. cái mốc có thể là đúng chỗ.
Keefer thình lình quay sang Willie:
-  Anh nghĩ sao? Có phải là mình bỏ chạy như một con thỏ nhát gan hay không?
Willie do dự vài giây:
-  Ờ, mà lúc đó tôi đâu có đo hướng. Urban có thể nó đọc trật cái hướng độ.
-  Willie, anh ở trên đài chỉ huy cả ngày. Vậy chứ anh có thấy hạm trưởng Queeg ở trên đài chỉ huy phía hướng về phía bờ lần nào không?
Câu hỏi này làm Willie ngạc nhiên, và trong tức khắc anh nhận thức ra rằng chả bao giờ thấy hạm trưởng đứng về phía bờ cả. những tới lui và sự biến mất của hạm trưởng trong ngày đã làm anh rất đỗi kinh ngạc, nhất là Queeg vẫn có cái thói quen ở trên đài chỉ huy mỗi khi vận chuyển để nghe các âm thoại và để trông chừng người thủy thủ cầm lái. Nhưng vấn đề mà tiểu thuyết gia nêu lên là một cái gì quá sức ghê gớm. Willie chỉ nhìn Keefer mà lặng thinh.
-  Rồi sao, Willie, có gì vậy? anh thấy ông ta, có hay không?
Maryk nổi nóng:
-  Tom, tôi chưa bao giờ nghe những câu cà chớn như thế.
-  Anh để Willie trả lời, Steve.
-  Tom, tôi..tôi lúc đó quá bận rộn. tôi không quan tâm tới hạm trưởng. tôi không biết….
-  Anh biết rõ quá mà. Anh nói láo, như là một chú bé dễ thương, tư cách đàng hoàng, tốt nghiệp từ trường Princeton –tiểu thuyết gia nói – được rồi. thôi tôi ngả mũ kính phục mấy đứa đang ráng bảo vệ cái danh dự của chiếc Caine và của hải quân.
Nói xong Keefer đứng dậy, bưng tách và dĩa tới cái máy cà phê. Hắn nói tiếp:
-  Tất cả cái đó thật là tốt đẹp, nhưng chúng ta chịu trách nhiệm về sự an nguy của chiến hạm, chưa nói tới bản thân của chúng ta, và thật là không có thận trọng chút nào nếu không thực tiễn.
Hắn rót cà phê mới pha vào tách, màu nâu nhạt nóng hổi, rồi kết luận:
-  Đây là một sự kiện mới mẻ mà tất cả chúng ta phải đếm xỉa tới, các bạn ạ. Queeg là một tên hèn nhát.
Cửa mở ra, và Queeg bước vào. Ông ta vừa mới cạo râu, đầu vẫn còn đội cái nón sắt, với cái áo phao cầm trên tay:
-  Tôi có thể có một tách cà phê như vậy, được không Tom? Nếu anh không phiền.
-  Dạ được chứ, hạm trưởng.
Queeg ngồi trên chiếc ghế trước mặt bàn, bỏ cái áo phao xuống sàn, và bắt đầu lăn lăn mấy viên bi sắt trong bàn tay trái. Ông ta để tréo hai chân, lắc lư cái chân phía trên, và cả thân người ông ta lắc lư theo. Ông đưa mắt nhìn về phía trước mặt, hơi khó chịu và nhăn nhó. Cặp mắt ông ta lún sâu trong quầng đen lớn, và đầy nếp nhăn sâu thẫm chung quanh miệng ông ta. Keefer bỏ ba muỗng đường vào tách cà phê và đặt trước mặt hạm trưởng.
-  Cảm ơn. Hừm hừm…Cà phê mới, lâu lâu mới có được một lần.
Đó là những câu nói cuối cùng ở phòng ăn sĩ quan trong mười phút qua. Lâu lâu, Queeg nhìn thoáng qua các sĩ quan rồi đưa mắt trở lại nhìn tách cà phê của mình. khi hớp ngụm chót xong, ông ta sửa giọng rõ ràng, rồi nói:
-  Này Willie, nếu như anh cũng không có bận lắm, anh giải mã cho tôi vài cái công điện, được không? còn khoảng chừng đâu hai mươi bảy cái tôi đang chờ.
-  Tôi làm liền, hạm trưởng.
Willie mở cái tủ sắt, không mấy hăng hái lắm, lấy máy giải mã ra.
Hạm trưởng nói với Keefer, vừa nhìn vào đáy tách cà phê của mình:
-  Tom, tôi thấy trong bảng phối kiểm là Ducely phải nộp ngày hôm nay bài làm thứ mười hai trong chương trình hướng dẫn tân  sĩ quan. Bài đó đâu rồi?
-  Hạm trưởng, mình đang ở trong nhiệm sở tác chiến từ ba giờ khuya nay.
-  Bây giờ mình có nhiệm sở tác chiến đâu? Cái nhiệm sở này đã giải tán hai tiếng đồng hồ rồi.
-  Ducely cũng có quyền ăn uống, tắm rửa và nghỉ ngơi đôi chút, hạm trưởng.
-  Người ta chỉ nghỉ ngơi khi đã hoàn tất nhiệm vụ giao phó. Tôi muốn có bài tập này trên bàn của tôi tối nay, trước khi Ducely đi ngủ, và phần anh trước khi anh đi ngủ, anh cũng phải chờ anh ta đưa bài cho anh, và anh sửa bài đó. Anh nghe rõ chưa?
-  Dạ rõ, hạm trưởng.
-  Và cố gắng tránh cái giọng trịch thượng một chút, ông Keefer.
Hạm trưởng nói thêm, đứng lên, đôi mắt nhìn vào vách tường.
-  Những báo cáo khả năng cũng gồm có những cái như là thiện chí và phục tòng.
Rồi ông ta đi ra khỏi phòng ăn sĩ quan.
Willie nói nhỏ:
-  Ông ta có nghe tụi mình nói chuyện hay không vậy?
Keefer nói tự nhiên:
-  Không có đâu, gì mà anh sợ. Đó là bộ mặt sưng sỉa số hai. Sự mệt mỏi thường lệ và có thể thêm vào đó một hay hai trận đau thắt dạ dày.
Maryk nói:
-  Tốt hơn hết là anh nên coi chừng cái miệng quỷ vật của anh.
Tiểu thuyết gia phá lên cười:
-  Anh không thể nói là ông ta không có rành sáu câu. Tiến chiếm hay không tiến chiếm, đổ bộ hay không đổ bộ, thì thằng Ducely cũng phải làm bài của nó. Anh chả bao giờ thấy được cái sắp xếp nào can đảm hơn của một bảng phối kiểm của Lão Dấu Vàng và….
Maryk đứng lên đi ra phía cửa, tiện tay anh lấy một cái nón sắt phai màu đội lên đầu. Anh xẵng giọng:
-  Được rồi, ông Keefer, tên của vị chỉ huy chiến hạm này là hạm trưởng Queeg. Tôi là hạm phó của ông ta. Tôi không chấp nhận người ta gán cho ông ta một biệt danh trước mặt tôi, ông nghe rõ không? không có Lão Dấu Vàng hay bất cứ gì cả, chỉ có hạm trưởng Queeg mà thôi.
Keefer trả lời, đôi mắt anh ta mở lớn ra đến nỗi thấy tỏa chiếu ra một màu trắng toát:
-  Hãy tố cáo tôi đi, ông Maryk. Nói với Queeg những gì tôi nghĩ về   ông ta. Để ông ta đưa tôi ra trước tòa án quân sự về tội bất phục tòng.
Maryk lầm rầm trong miệng mấy câu chửi rủa rồi bỏ đi ra.
Keefer nói một mình:
-  À, mà tôi phải đi tìm tên Ducely cơ khổ này, và bắt hắn phải nộp bài.
Harding nói:
-  Kế toán của chiến hạm đến ngày phải nhập tu – hắn quăng một tạp chí lên trên bàn và ngáp dài một cái – tốt hơn hết là coi lại một chút trước khi đi ngủ. Tháng vừa rồi ông ta cho gọi tôi hồi một giờ sáng để mà hỏi tình trạng kế toán.
-  Hạm trưởng tụi mình là một quản trị viên lỗi lạc – Keefer nói rồi đi ra.
Harding và Willie, người này nhìn người kia, trao đổi nhau cái tình cảm nửa vui thú, nửa đắng cay. Harding gãi đầu, nói nhẹ:
-  Willie, có phải là hạm trưởng luôn luôn trốn ở phía an toàn trên đài chỉ huy không?
Cái giọng nói của Harding nhắc nhở tới ba tháng cùng ở chung trong hầm chứa thuốc nổ, và tới hình ảnh hai thiếu úy mới tò te, say sóng cùng với nhau lúc đứng trên chót cột cờ.
Willie trả lời, tự nhiên hạ thấp giọng:
-  Hardy, tôi không chắc. Hình như là tôi ít thấy lão hơn ngày thường. Mà anh cũng biết rằng Keefer ghét lão không vừa – anh nhìn xuống cái máy giải mã.
Harding đứng lên:
-  Số dách…số dách…
-  Có thể là Keefer lầm chăng?
-  Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chiến hạm này lâm vào cảnh khốn đốn? – Harding mím môi, trong nỗi lo âu và sợ hãi – Vai trò của hạm trưởng là dìu dắt chúng ta ra khỏi cơn khốn đốn, Willie, chứ không phải là lo xem cái bảng nhật tu phối kiểm về mấy cái báo cáo hay bài thực tập. chúa ơi, kế toán của chiến hạm này thật là khôi hài, nực cười hết chỗ nói. Tôi tốt nghiệm giám định viên kế toán. Tôi đã làm sổ sách cho Onondaga Carbide. Jesus biết là ông chủ của tôi sẽ nói gì khi thấy tôi ở trong cái quân tiếp vụ bỏ túi này, đang đếm mấy thẻ chocolat O.Henry, và mấy cái tuýp thuốc đánh răng! Nhưng mà tựu trung, có ăn thua gì đâu, phải không? Tôi tình nguyện đi vào hải quân, được thuyên chuyển xuống chiếc Caine, và nếu chiến hạm cần một giám định viên kế toán chuyên nghiệp để kiểm tra sổ sách cỡ xu với cắc, thì tôi cũng làm liền thôi. Nhưng đổi lại, thì hải quân cũng phải cho tôi một chiến hạm khiển dụng hải hành được, và một hạm trưởng biết chiến đấu…Vậy chứ không phải đó là công chuyện cái đống phân này phải làm hay sao hả?
-  Anh nghe đây, chuyện đã cũ xưa như trái đất rồi. tụi mình thật là không may. Tất cả đều do may rủi của chiến tranh cả. mình có thể là đang bị nhốt trong một trai tù của bọn Nhật, mình phải chấp nhận và chịu đựng cho qua, chỉ có vậy…
-  Willie, anh là một thằng bé tốt lành dễ thương – Harding nói và đứng lên – Nhưng anh không phải là người có gia đình. Tụi mình khác nhau hẳn. Tôi lo sợ cho năm nhân mạng, tôi, vợ tôi, và ba đứa con tôi. Nhất là một đứa. một thằng bé sáu tuổi với nụ cười rạng rỡ. anh nhớ nhắc tôi lúc nào cho anh coi hình của nó.
Harding tiến nhanh trong hành lang và mất hút sau những tấm màn xanh lá cây của phòng ngủ anh ta.