Nhóm dịch thuật Song Ngư
Chương 21
Tử thần và kem

     ào buổi bình minh ngày kế tiếp, lực lượng tấn công Miền Bắc dàn dựng một màn thú vị khác cho thiếu úy Keith.
Hồi còi hú nhiệm sở tác chiến đã dựng anh dậy. Mặc vội bộ quân phục dở dang, anh chàng hối hả trèo lên đài chỉ huy trong buổi bình minh, súng bắn đạn tia lửa đỏ cam bắn ngang bắn dọc xuyên đầy trời qua màn sương lam. Tiếng nổ vang rền của những khẩu đại pháo làm chấn động lỗ tai anh. Anh thấm vội cho ướt hai tờ giấy đi cầu mà anh thường giữ trong túi áo phao để dùng nhét kín lỗ tai như trong trường hợp nầy. Tiếng động lớn đã giảm ngay chỉ còn là tiếng thình thịch nhẹ. Đây là khám phá riêng của anh để xử dụng khi chiến hạm thiếu bông gòn lúc thực tập tác xạ. Những khẩu hải pháo 76 ly 2 của chiến hạm Caine không dự phần vào việc tác xạ sáng nay.
Hạm trưởng Queeg giữ thủy thủ đoàn ở nhiệm sở tác chiến cho tới khi mặt trời lên mới giải tán. Willie vẫn ở trên đài chỉ huy để chiêm ngưỡng màn pháo kích tóe lửa vẫn đang tiếp diễn. Lúc tám giờ rưỡi, một toán chiến đĩnh đội hình vòng cung dài, lượn trên mặt nước yên lặng, tiến về Roi-Namur, căn cứ quân sự chính ở phía bắc của quần đảo san hô. Màu xanh của cây cối trên đảo đã biến mất, bây giờ chỉ còn là màu cát xám, đây đó vài lấm chấm đen. Một vài đám cháy nhỏ bùng lên yếu ớt trong lằn sáng trắng của mặt trời. Lá cây đã bị cháy, để lại các thân cây khô trơ trụi gãy đổ ngổn ngang, và nhìn xuyên qua đó, là những dẫy nhà bỏ hoang với những bức tường loang lổ. Willie đặt ống dòm quan sát việc đổ bộ lên bãi biển của đoàn chiến đĩnh, đoàn xe bọc sắt và các quân nhân Thủy quân lục chiến, những phát đạn bất ngờ màu khói trắng vàng phát ra từ những vùng hoang vu bên trong hòn đảo. Anh nhìn thấy vài quân nhân ngã xuống. Quang cảnh gục ngã của các chiến sĩ thật là xúc động và thương cảm như chứng kiến cảnh những võ sĩ bị đo ván.
Anh vặn máy vô tuyến loại JBD640 đặc biệt có làn sóng ngắn, lén nghe cuộc đàm thoại của những quân nhân tham chiến trên bờ. Anh ngạc nhiên khi nhận ra họ đã bỏ mất những quy luật truyền tin hải quân. Họ trò chuyện với nhau và với những chiến hạm đang cố gắng yểm trợ hải pháo cho họ bằng những câu ngắn, gọn và bất nhã. Họ dùng những tiếng tục tằn khủng khiếp. Thật là một cảnh tương phản khá khôi hài giữa cách nói trịnh trọng và lịch sự từ những người trên chiến hạm với cách nói bực bội chua chát của những quân nhân trên bờ. Các cuộc đàm thoại đó thật hào hứng và Willie cảm thấy thích thú và lắng nghe trong suốt hai tiếng đồng hồ. Anh chàng rùng mình xúc động khi nghe một người chết ngay trong giữa cuộc điện đàm. Ít nhất, anh đã phỏng đoán được cái chết đó vì người kia đang xin yểm trợ hải pháo để dẹp tan chòi đại liên đang tác xạ xối xả vào anh ta, rồi đột nhiên tiếng nói của anh ta bị ngắt ngang. Willie có cảm giác xấu hổ rằng anh đang xây dựng cho câu chuyện để dùng trong tương lai hầu kể lại trong những khi trà dư tửu hậu trong khi những người khác đang hy sinh tính mạng chiến đấu. điều đó bộc lộ một ham muốn đi tìm kếm cảm giác. Nhưng anh vẫn không tắt máy vô tuyến.
Tuy nhiên anh đã thấy lòng xáo trộn một lúc, đặc biệt trong bữa ăn trưa. Anh tưới sô cô la vào ly kem thì một tiếng nổ mạnh chưa từng thấy làm cho dĩa chén, muỗng nĩa chạm vào nhau chan chát, gần như muốn bay lên không và vào mặt anh. Anh đứng phắt dậy với Keefer và Jorgensen, chạy thẳng đến cửa sổ ngó ra hữu hạm. Jorgensen giật lấy các chốt mở cửa sổ, các sĩ quan xúm lại ngó ra ngoài. Một cụm mây đen khổng lồ đang bốc lên không, ở phía Namur. Ngọn lửa đỏ dài, đáng sợ phát lên từ đám cháy. Keefer quan sát, nói “Chắc chắn là từ bãi chứa đạn dược rồi”.
Thiếu úy Jorgensen sửa lại gọng kính, nói:
-  Tôi ước gì sức nổ này tung xác vài ngàn quân Nhật lên trời.
Keefer trở về chỗ ngồi, nói:
-  Tôi nghĩ là không có chuyện đó, tất cả mấy tên còn lại của bọn họ đều ăn trưa trong các hố sâu đàng hoàng, có điều chắc chắn là vài người mình bị văng lên.
Willie nhìn chăm chú vào đám lửa trong giây lát với hơi nóng của lửa hắt vào mặt anh. Thiếu úy Jorgensen thì cúi đầu nhai ngấu nghiến miếng thịt. Willie trở về chỗ ngồi, cắm muỗng vào ly kem trắng bây giờ có pha màu nâu hấp dẫn. Anh chợt nghĩ dường như là có sự đối chọi không ổn giữa anh, đang an toàn ăn kem ngon lành và những quân nhân Thủy quân lục chiến đang banh xác tại Namur cách đó vài ngàn thước. Anh không bị bấn loạn lương tâm đến nỗi có thể ngừng ăn kem, nhưng cái ý tưởng đó lởn vởn trong đầu như những viên sạn. Cuối cùng anh phải nói ra.
Những sĩ quan khác nhìn anh khó chịu. Không một ai ngừng ăn món tráng miệng. Nhưng Ducely, con người thường có thói quen đổ đầy nước sốt sô cô la vào dĩa kem làm cho người khác phát ớn, đang vói tay lấy bình sô cô la, khựng lại trong giây lát rồi chỉ rót một ít nước sốt vào chén kem, sau đó anh ta đặt bình nước sốt xuống một cách kín đáo.
Keefer đẩy cái đĩa anh vừa ăn xong ra xa và nói:
-  Willie, đừng kỳ cục như vậy, chiến tranh là một môi trường mà nhiều người quan sát một số điều người tử trận và họ vui mừng vì họ không phải trong số ít người đó – anh ta đốt điếu thuốc và nói – ngày mai, biết đâu họ sẽ chỉ định chúng ta vào rà mìn trong vịnh. Những hòn đảo có lẽ đã được an toàn. Nhiều quân nhân Thủy quân lục chiến ngồi an lành trên bờ biển có lẽ sẽ thấy mình bị văng lên trời trong khi họ đang ăn trưa mà không ai trong số họ sẽ ngừng ăn trong giây lát.
-  Ít ra thì họ cũng sẽ ăn thực phẩm K chứ không phải ăn kem với nước sô cô la. Dù gì thì  cũng là quá …quá là xa hoa.. – Willie nói.
-  Coi kìa, đâu có ai đưa anh ra tòa án quân sự vì anh không ăn kem đâu – Keefer nói.
-  Có lần mình chở một số đông quân nhân dọc theo bãi biển trong một đêm ở Guadal. Cái đêm biển lặng vậy mà họ say sóng như những con chó đi biển. Viên đại úy Thủy quân lục chiến nằm dài trên ghế. Y nói “Tôi thực sự không thích Guadalcanal một chút nào, nhưng thà tôi ở đó một năm còn hơn là ở trong cái chậu này một tuần lễ”. ông ta cũng nói là sẽ nhảy khỏi tàu nếu biết được chúng ta đi rà mìn. Ông ta nói “Tôi biết rà mìn là nhiệm vụ tồi tệ nhất trong cuộc chiến này. Tôi không hiểu làm sao các anh có thể ngủ qua đêm khi biết mình đang ở trên một chiến hạm đang rà mìn” – Maryk nói vừa ăn một muỗng kem tráng miệng.
-  Có thật chiến hạm nầy có thể rà mìn không? thật là một chuyện khó tin – Ducely hỏi.
-  Anh vừa mới nộp một bài báo cáo dài bảy trang giải thích ngay cái việc mình phải rà mình ra sao mà  - Keefer nói.
-  Vậy hả? cái đó đó hả. anh biết rằng tôi đã sao thẳng ra từ quyển sách Hướng dẫn cách rà mìn. Tôi thật chẳng hiểu ý nghĩa của các chữ ghi trong đó. Cái gì mà họ thường nói về cái kéo cắt mìn là cái gì vậy?
-  Thiếu úy Keith, sau bữa ăn trưa, dắt người phụ tá của anh đi chỉ cho biết tận mặt cái kéo cắt mìn cà chớn đó nghe không? – Maryk gằn giọng.
Willie đáp:
-  Thưa vâng – và anh nhìn xéo điếu thuốc trong tya như một con gấu biển già lịch lãm.
Chiếc bàn vẫn còn sạch sẽ khi anh vô tuyến viên đem cho Willie một công điện thi hành. Anh dịch ra một cách vội vã. Chiến hạm Caine được lệnh tiến hành nhiệm vụ ngày mai yểm trợ đoàn dương vận hạm LST đi Funafutti Aroll. Funafuti ở tận miền nam, thật xa ngoài vòng chiến tuyến. Willie tiếc rẻ khi nghĩ đến việc rời lực lượng tấn công.
Anh dừng lại ở các dây thành tàu bên ngoài phòng hạm trưởng để ngắm cảnh, nhưng các hoạt động đã giảm bớt nhiều. Cuộc yểm trợ hải pháo từng chập vẫn còn tiếp diễn, những cuộc tác xạ ồ ạt đã ngưng rồi. Hạm đội ở ngoài biển giờ đây mất vẻ chiến tranh. Những thủy thủ trần truồng nhảy xuống nước từ các chiến hạm đang neo, làm cho nước văng tung tóe. Nước biển bây giờ mất hết màu xanh, biến thành màu nâu vàng và đầy rác rến. Những chiến hạm khác thì phơi nệm thành nhóm trên giây tàu….
Hạm trưởng đang ăn kem ở bàn viết, một tay múc kem đựng trong một bát súp, tay kia đang ráp một mảnh vụn vào hình đố, miệng thì nói:
-  Funafuti hả Keith? Nói Maryk lên đây và bảo Whittaker đem cho tôi một đĩa kem lớn với cà phê nhé!
Một tiếng gõ cửa nhẹ của người thủy thủ, đó là anh vô tuyến viên, vừa nhe rằng cười trong vẻ rụt rè và nói:
-  Xin lỗi hạm trưởng. Họ nói ông Keith đang ở đây. Thật là một ngày lắm việc cho thiếu úy, mới nhận thêm một công điện thi hành.
Queeg bảo:
-  Đưa đây.
-  
Viên thủy thủ vô tuyến đặt bản công điện trên bàn viết của hạm trưởng và vội vã lui ra. Queeg liếc nhanh vào phần tiêu đề của bản văn, dựa ngửa trên ghế và nói một cách nhỏ nhẹ:
-  Biết cái gì đây không? Phòng Nhân viên. Chắc chắn là lệnh cho ai đó!
Willie đưa ta ra nói:
-  Thưa hạm trưởng, tôi sẽ mã dịch ngay bây giờ.
-  Ừ, Willie, dịch liền đi, không chừng liên hệ đến chính tôi. Tôi là người quá thâm niên để phải lấy cái chiến hạm cũ xì này – hạm trưởng đưa công điện cho anh và ẻ như thờ ơ không có gì đặc biệt, nhưng khi Willie bước ra cửa, ông nói với theo – Và nên nhớ là công điện này được xếp vào loại “kín” đó nghe.
-  Dạ, hạm trưởng.
Willie vừa sắp xếp máy mã dịch ở phòng ăn sĩ quan thì Queeg thong thả bước vào, tự rót một ly cà phê và hỏi:
-  Willie, công việc tiến triển ra sao rồi?
-  Thưa hạm trưởng, được rồi đây.
Queeg đứng sau Willie, coi công điện được dịch ra. Lệnh trong công điện cho Trung úy Rabbitt, thuyên chuyển qua Trục lôi hộ tống Oaks hiện đang đóng ở San Francisco.
-  Ô, Rabbitt, tới tàu mới, ngon lành quá hả! tôi sẽ nhận công điện đó Willie.
Queeg chồm qua vai Willie, kéo bản văn mã dịch ra khỏi máy mã, nói:
-  Willie, nhớ rõ một điều nghe: tôi sẽ tự quyết định coi bao giờ cho anh Rabbitt hay về lệnh thuyên chuyển của anh ta, hiểu chứ?
-  Thưa hạm trưởng, nhưng bộ không phải là lệnh thuyên chuyển đó gửi cho anh ta hay sao?
-  Trời ơi, Willie, anh đang muốn trở thành một luật sư hải quân quá dở đó. Cho anh biết là công điện này gửi cho chiếc Caine mà tôi là hạm trưởng thì bây giờ tôi biết ý muốn của phòng nhân viên, rồi tôi có quyền cho ông Rabbitt ra đi lúc nào tôi thấy được. Tôi chưa có được một chút tin cậy nào để cho Harding làm được việc đó, Rabbitt vẫn có thể ở lại chiếc Caine như mọi người chúng ta, hiểu chứ?
Willie, vẻ chịu đựng, trả lời:
-  Thưa hiểu rồi.
Dấu nhẹm việc mình biết về lệnh thuyên chuyển của Rabbitt là một cực hình cho Willie. Anh ngồi đối diện người sĩ quan nội vụ trong phòng ăn, thoáng nhìn vào gương mặt nhợt nhạt, nhẫn nại nhưng lộ vẻ lo âu, với lọn tóc nâu bị bò liếm xuống che mất một phần mặt bên trái, Willie có cảm giác như mình là tòng phạm trong một việc tội lỗi.
Viên thiếu úy bây giờ tự nhận rằng tình cảm của anh với Rabbitt lớn dần lên. Nhớ lại anh đã được Rabbitt đỡ anh lên tàu khi anh phải nhảy lên chiến hạm Caine lúc mới đến tàu, và anh vẫn còn nhớ được đón tiếp bằng câu “Làm gì mà hối hả thế, anh có biết anh đang nhảy vào đâu không?”. Lúc đầu Willie coi mình như anh nhà quê. Nhưng dần dần những điều hay của Rabbitt đã lôi cuốn anh. Anh ta không bao giờ lên đổi phiên trễ, anh ta không hề từ chối giúp đỡ người khác, và nếu anh ta ra đặc ân cho ai việc gì, thì anh làm việc đó y như là thi hành lệnh hạm trưởng vậy. Đoàn viên nghiêm chỉnh thi hành mệnh lệnh của anh cho dù anh ra lệnh một cách dễ dãi và vui vẻ. anh nhật tu sổ sách đúng ngày đúng giờ, thường hay tình nguyện giúp Willie mã dịch khi công điện tới chất đống. Willie không bao giờ nghe anh ta nói xấu một ai ngoại trừ a dua với các sĩ quan khác diễu cợt nhạo báng hạm trưởng Queeg.
Nhưng Willie quá sợ hạm trưởng nên không dám báo tin cho Rabbitt biết tin thuyên chuyển. Đêm đó, Rabbitt đi phiên nửa đêm rồi lăn vào giường ngủ khi xuống ca lúc trời mù sương không biết được cái giấy thuyên chuyển của anh để ra khỏi cái cảnh khốn khổ này hiện đang nằm trên bàn viết của hạm trưởng hay đang nằm trong cái lương tâm của sĩ quan vô tuyến, bởi vậy Keith rất khó ngủ.
Sau bữa ăn sáng, Willie đang thảm não cố gắng giải mã đám công điện mới nhận được trong ngày tại phòng ăn sĩ quan thì hạm trưởng Queeg bước vào, theo sau là một vị trung tá chắc chắn là mới được thăng cấp vì hoa lá cành còn vàng óng ánh trên vành nón của ông. Viên thiếu úy đứng dậy liền.
-  Trung tá Frazer, đây là sĩ quan truyền tin của tôi, thiếu úy Keith.
Willie bắt tay vị sĩ quan cao lớn, sạm nắng, tuổi trạc ba mươi với chiếc hàm dài, mắt trong xanh, tóc vàng cắt ngắn. Chiếc áo kaki của ông ủi thẳng băng. Hạm trưởng Queeg trông có vẻ tiều tụy, bộ đồ xám phai màu qua bao nhiêu lần giặt ủi dãi dầu trên chiến hạm Caine.
Hạm trưởng Queeg nói:
-  Anh cứ tiếp tục làm việc đi, Willie.
-  Dạ vâng, hạm trưởng.
Anh chuyển đống hồ sơ tới cuối bàn.
Wittaker bước vào mang theo một bình cà phê bốc hơi, rót cà phê cho hạm trưởng Queeg và vị khách. Thì ra trung tá Fraizer nguyên là hạm trưởng của một khu trục hạm, được chỉ định về nước để đạm nhiệm quyền chỉ huy một trục lôi hạm mới, mới với nghĩa là được biến cải từ một khu trục hạm hiện đại, chứ không phải là loại khu trục hạm tồi tàn còn sót lại từ hồi Đệ nhất thế chiến. Ông nói ông đến thăm viếng chiến hạm này để tìm hiểu vì ông ta chưa có kinh nghiệm gì hết về việc rà mìn. Trung tá Frazer nói rằng:
-  Cả một phân đội được biến cải như vậy. Đại tá Voor, ông phân đội trưởng của tôi, nghĩ rằng tôi được kéo về để chỉ huy chi đội hay phân đội. tôi cũng không rõ.
Ông châm lửa cái ống điếu màu nâu của ông.
-  Tôi rất hân hạnh được hướng dẫn trung tá thăm viếng quanh chiến hạm và thuyết trình trong phạm vi hiểu biết rất thô thiển của tôi. Họ đã giao cho trung tá chiến hạm nào vậy? – hạm trưởng Queeg hỏi.
-  Oaks – trung tá Frazer nói.
Tim của Willie thắt lại. Anh thấy hạm trưởng Queeg liếc về phía anh, anh cúi xuống làm việc để tránh cái nhìn đó.
Oaks hả. tôi đã từng phục vụ một năm trên một chiến hạm loại 1650 tấn đó khi còn là trung úy. Thật là một chiến hạm tốt.
-  Phòng nhân viên có nhã ý gởi cho tôi danh sách tạm thời các sĩ quan – trung tá Frazer nói. ông rút ra tấm giấy mỏng từ trong túi áo ngực và nói – dường như như là tôi đã bắt cóc sĩ quan của hạm trưởng. tên gì nhỉ? Ồ đây, tên Rabbitt.
Hạm trưởng Queeg hớp một ngụm cà phê.
-  Lệnh thuyên chuyển chưa đến anh sao? – trung tá Frazer hỏi.
Hạm trưởng Queeg uống thêm một hớp cà phê và nói:
-  Thưa vâng, chúng tôi đã nhận được lệnh đó.
Trung tá Frazer mỉm cười:
-  Vậy thì hay quá. Tôi biết anh đã nhận được lệnh đó rồi. Tôi thấy phòng nhân viên đã gửi cho anh qua hệ thống Fox và nhân viên của tôi đã mã dịch nó. Tốt, anh ta là sĩ quan nội vụ của anh phải không? Tôi đoán chắc anh ta rất rành về rà mìn.
-  Một sĩ quan rất có khả năng.
-  Tốt, vậy là tôi may mắn đó. Tôi có thể xin được chỗ máy bay ưu tiên cao. Có thể anh Rabbitt bay về cùng chuyến với tôi và trên đường đi, anh ta sẽ cho tôi hiểu thêm các chi tiết.
-  Chiều nay chúng ta phải khởi hành công tác về phương nam rồi.
-  Không sao, gởi anh ta tạm trú trên chiến hạm của tôi. Tôi nghĩ rằng chiến tranh có thể rời đây sau đôi ngày. Người thay thế cho tôi đã đáo nhận chiến hạm và sẵn sàng nhận quyền chỉ huy.
-  Tuy nhiên có một chút vấn đề về sĩ quan thay thế Rabbitt – hạm trưởng Queeg cười thắng thế. tiếng của ông như lạc lõng lạ lùng trong phòng ăn.
-  Thưa hạm trưởng muốn nói gì? Bộ trên chiến hạm không có sĩ quan nào đủ khả năng thay thế được ông Rabbitt hay sao?
-  Cũng tùy theo ông nghĩ về khả năng đó ra sao. Thưa trung tá, thêm cà phê nghe?
-  Không cần, cảm ơn hạm trưởng. Ông thiếu người tới như vậy sao, hạm trưởng Queeg? Người phụ tá của Rabbitt đã phục vụ trên chiến hạm bao lâu rồi?
-  Ông Harding đó hả? Khoảng năm hay sáu tháng gì đó.
-  Anh ta yếu nghề lắm phải không?
-  Nói vậy thì hơi quá đáng.
-  Ôi, hạm trưởng ơi, ngoài hạm phó ra, không có sĩ quan nào mà tôi không thể cho thuyên chuyển nội trong hai mươi bốn giờ đồng hồ. Tôi nghĩ rằng nhiệm vụ của chúng ta là phải huấn luyện cho họ đến mức đó.
-  À cái đó, thưa trung tá, tất cả ăn thua là người ta hiểu tiêu chuẩn như thế nào thôi – hạm trưởng Queeg nói – Tôi dám nói là trên nhiều chiến hạm tốt, thiếu úy Harding sẽ được coi là sĩ quan đủ năng lực trên mọi phương diện. vậy đó, nhưng trên chiến hạm của tôi thì phải khả năng cao mới được coi là tiêu chuẩn, mà tôi chưa chắc rằng thiếu úy Harding đã đạt được khả năng cao.
-  Tôi thấy tôi cần thêm cà phê, cho tôi một ly được không? – Trung tá Frazer nói.
-  Willie, anh chịu khó giùm … - hạm trưởng Queeg nói. Viên thiếu úy đứng dậy và rót cà phê cho các vị sĩ quan thâm niên.
-  Tốt, hạm trưởng Queeg – trung tá Frazer nói – tôi nhìn nhận quan điểm của ông và rất ngưỡng mộ tiêu chuẩn mà ông đã đặt ra. Mặt khác, chiến hạm Oaks cần một sĩ quan nội vụ để đáp ứng cho nhu cầu công tác của chiến hạm ngay bây giờ. Và đặc biệt là tôi cần một sĩ quan biết chút đỉnh về công tác rà mìn. Thật ra, chúng ta đang ở thời chiến. mọi người cần phải học hỏi thật nhanh và phải cố gắng tối đa…
-  Tôi không biết sao – hạm trưởng Queeg mỉm cười, vẻ của một người rành chuyện – chứ theo tôi thì trong thời chiến này, tiêu chuẩn huấn luyện sĩ quan phải được nâng cao lên chứ không nên hạ thấp xuống. trung tá cũng biết rằng đây là việc sinh tử hệ trọng.
Trung tá Frazer rót sữa từ từ vào tách cà phê và săm soi nhìn gương mặt có đôi mắt nhỏ của hạm trưởng Queeg. Hạm trưởng của chiến hạm Caine vẫn mỉm cười, chậm rãi ngồi xuống ghế và nhìn chằm chặp vào tường, một tay gác vào thành sau của chiếc ghế, hai viên bi xoay gây nên tiếng động nho nhỏ.
-  Hạm trưởng Queeg – ông trung tá tóc vàng nói – quan điểm của ông thật là chính đáng. Có điều không hợp lý là tôi phải hoãn khánh thành tàu Oaks để chờ cho sĩ quan thay thế Rabbitt được huấn luyện cho tới tiêu chuẩn của ông phải không? Tôi sẽ phải ghé qua Hoa Thịnh Đốn để trình diện với phòng nhân viên. Ví như tôi báo với họ một cách thật thà rằng ông đã gặp khó khăn trong việc huấn luyện sĩ quan để đạt tiêu chuẩn của ông hầu thay thế trung úy Rabbitt, và tôi chỉ cần việc xin một sĩ quan khác…
-  Thưa trung tá, tôi không có khó khăn gì cả. tôi huấn luyện sĩ quan tàu này ngang với tất cả các tàu của hạm đội – hạm trưởng Queeg nói nhanh khi đặt ly cà phê xuống, tách cà phê rung lên – Như tôi đã nói, với bất cứ tiêu chuẩn của ai khác, ngoại trừ tiêu chuẩn của tôi, thì thiếu úy Harding của tôi hội đủ mọi điều kiện, và thực ra, với tiêu chuẩn của chính tôi thì Harding cũng quá tốt, và, như tôi nói, cho dù Rabbitt rời chiến hạm ngay chiều nay, chiến hạm Caine vẫn có đủ khả năng thi hành mọi nhiệm vụ được giao phó, nhưng tôi chỉ muốn nêu ra rằng…
-  Hạm trưởng, tôi rất mừng mà nghe ông nói như vậy – trung tá Frazer nhe răng ra cười – và nếu như vậy htgr để tôi đưa trung úy Rabbitt đi  chiều nay chứ?
Hạm trưởng Queeg nhíu mày, lúc lắc cái đầu bên này qua bên kia một cách nặng nề, nói, ngước mắt nhìn qua bộ lông mày:
-  Thưa trung tá, tốt, như tôi đã nói, có vẻ như chiếc Oaks sẽ phải chịu nhiều khó khăn nếu Rabbitt phải ở lại trên chiến hạm thêm vài ngày nữa, và đó chính là điều mà tôi muốn nói rõ, để cho thiếu úy Harding tập trung vào học hỏi thêm. Ờ, tôi hoàn toàn công nhận rằng chiến ham Caine là một con tàu sắp bị phế thải, còn nhiệm vụ tác chiến của chiến hạm Oaks thì quan trọng hơn, thưa trung tá, và chính với lý do đó, tôi đặt huấn luyện là công tác ưu tiên của chiến hạm này, và nếu như có tôi có hăng say quá đáng để đạt tới mức hoàn mỹ thì tôi chẳng biết là trung tá có thể trách gì tôi được.
-  Hạm trưởng ơi, ngược lại chứ. Ông xứng đáng được khen thưởng về tiêu chuẩn cao của ông – trung tá Frazer đứng dậy và lấy nón – Để tôi cho ca nô qua đón Rabbitt, khoảng 16:00. Đỡ cho ông một chuyến ca nô. Như vậy có hợp ý ông không?
-  Thưa được lắm. Nếu trung tá có người bạn nào ở phòng nhân viên, nói giùm là Philip Queeg, khóa 1936 cũng đáng tới kỳ nhận công vụ mới...Để tôi tiễn trung tá ra hạm kiều – hạm trưởng Queeg nói khi trung tá Frazer tiến dần về phía cửa.
-  Cảm ơn hạm trưởng. Hân hạnh được gặp anh, Keith.
-  Rất hân hạnh và vinh dự cho tôi, thưa trung tá – Willie đáp lời. Anh không dấu nổi giọng nói vui mừng của anh. Hạm trưởng Queeg liếc nhìn Willie một cách thiếu thiện cảm khi ông rời phòng.
Thông thường khi một sĩ quan thuyên chuyển rời chiến hạm Caine, không ai để ý đến ngoại trừ nhân viên trực cầu tàu phải ghi chính xác giờ rời tàu vào sổ trực. Nhưng Willie giữ phiên trực vào buổi trưa đó, khoảng ba giờ rưỡi, Willie nhận thấy có điều bất thường. Các thủy thủ đã tụ họp gần cầu tàu thì thầm nói chuyện, còn sĩ quan thì từng người một, kéo nhau ra sân cờ đèn của chiến hạm.
Sĩ quan cũng như đoàn viên, cùng nhau quan sát đoàn quân và cơ giới màu xám di chuyển trên hòn đảo, hoặc nói giỡn với nhau về thân hình người đang bơi bì bõm quanh một khu trục hạm đang neo gần đó, hay ngắm my người đang sơn màu xanh lên ống khói số ba. Mùi nồng của nước sơn hắt mạnh trong không khí ẩm.
Một người nói:
-  Tới rồi kìa.
Một chiếc ca nô gọn ghẽ, hiện ra từ mũi một chiếc tàu vận chuyển khổng lồ, rẽ nước bùn đục ngàu trong hồ hướng về phía chiếc Caine. Một tiếng thở ra sột soạt đồng loạt từ đám người coi, giống như trong đám khán giả khi bắt đầu tới khúc chuyển tiếp sang giai đoạn mới của một vở tuồng. Whittaker và một tiếp viên hiện ra từ hành lang tả mạn mang theo một vali cũ kỹ, cô có hai sắc marin màu xanh xếp trên nắp thùng. Trung úy Rabbitt đi ra ngay sau hai người trên sân cờ đèn. Anh ta vui vẻ nheo mắt với đám đông. Các sĩ quan lần lượt bắt tay anh. Các thủy thủ đứng móc ngón tay vào móc dây nịt hoặc đút túi quần. Vài người trong họ la lên:
-  Thượng lộ bình anh, trung úy!
Chiếc ca nô rung một tiếng chuông và cặp vào cầu thang dây. Trung úy Rabbitt tiến tới trước mặt Willie và chào. Anh ta mím môi và nháy mắt một cách hồi hộp:
-  Xin phép rời chiến hạm!
Willie nói:
-  Chấp thuận, thưa trung úy! – Và tự nhiên nói thêm – anh không biết anh đang nhảy khỏi chỗ nào phải không?
Rabbitt cười nhẹ, xiết tay Willie và theo cầu thang đi xuống ca nô.
Ca nô rời chiến hạm, Willie đang đứng ở bàn trực, nhìn dọc theo một hàng lưng đám thủy thủ xếp thẳng băng theo sợi dây thành tàu của  chiến hạm. Quang cảnh gợi cho anh nhớ tới đám người hiếu kỳ, quần áo tồi tàn sắp hàng ngoài hai sợi dây thừng ngăn làm lối đi vô một đám cưới. Willie cũng đi ra thành tàu dòm theo Rabbitt. Chiếc ca nô biến mất sau chiếc tàu chở hàng khổng lồ, chỉ còn lại bọt của vệt nước hình cong nhạt dần.
Trong vòng một tiếng đồng hồ sau đó, hạm trưởng Queeg nổi lên một cơn thịnh nộ. Cơ khí trưởng Paynter mang trình ông bảng tường trình về nước và dầu, trong đó ghi rằng mức tiêu thụ nước của thủy thủ đoàn đã tăng thêm mười phần trăm trong chuyến hành quân Kwasjalein.
-  Họ đã quên mất giá trị của nước ngọt hả? Được rồi, Paynter! – Hạm trưởng rít lên – lệnh của tôi là cấm cả sĩ quan và đoàn viên không được dùng nước cho cá nhân trong vòng bốn mươi tám tiếng. Có vậy cho họ biết lệnh của tôi phải như thế nào, không có giỡn mặt được.
Nửa giờ sau đó, chiến hạm Caine nhổ neo rời hồ Kwajalein và hải hành tới Funafuti.