Nhóm dịch thuật Song Ngư
Chương 30
Cuộc nối loạn

     ột con tàu chạy bằng hơi nước không lệ thuộc vào gió như chiếc thuyền buồm, thật siêu đẳng để đối phó với các khó khăn thông thường trong bão tố. Một chiến hạm phải là một loại tàu đặc biệt chạy bằng hơi nước, không phải đóng ra để chứa được nhiều và tiết kiệm kinh phí, nhưng là để có được công suất cao. Ngay cả trục lôi hạm Caine cũng có thể đương đầu với giông tố, một sức mạnh bằng 30.000 mã lực, một năng suất đủ mạnh để chuyển dịch nửa triệu tấn được ba tấc mỗi phút. Chiến hạm này nặng hơn một ngàn tấn. dù là một chiến hạm đã cũ nhỏ con màu xám xịt nhưng nó cũng có thể phát ra đủ sức mạnh cần kíp trong cơn khẩn cấp.
Nhưng điều đáng ngạc nhiên xảy ra khi thiên nhiên bày ra một tấn tuồng bất thường như một trận bão với những cơn gió giật lên đến 150 dặm một giờ hay mạnh hơn nữa. Bánh lái tàu, chẳng bao lâu có thể trở nên vô dụng. Nguyên tắc vận hành của nó là làm thay đổi hướng tàu đi khi thay đổi góc tác dụng của nước vào bánh lái, nhưng nếu khi gặp gió xuôi thổi quá mạnh, nước dồn vào mặt sau bánh lái cũng mạnh bằng lực nước tác dụng vào mặt trước do sức tiến của tàu thì tay lái không còn tác dụng gì. Đương nhiên là tàu sẽ bạt gió và bị giạt. chưa kể tác dụng của gió và nước có thể ngược chiều nhau thêm vào bánh lái là yếu tố thứ ba tạo thành một hợp lực bất định khiến tay lái không còn ăn, thay đổi từng phút từng giây.
Theo lý thuyết thì khi có gió thổi quá mạnh có thể hạm trưởng không thể cho quay tàu về phía ngược lại mặc dù đã dùng máy tối đa. Tôi trường hợp như vậy tàu sẽ bị bại gió ngang và rơi vào tình trạng hiểm nghèo. Nhưng không hẳn như vậỵ một chiến hạm tối tân sử dụng đúng cách và điều khiển khéo léo, lẽ ra có thể vận chuyển ra khỏi bất cứ một trận bão nào.
 Chọn biện pháp thích hợp nhất đương đầu với bão tố để chiến hạm sống còn vẫn là điều cam go nhất xưa nay. Với những tiếng gầm thét khủng khiếp của sóng gió và những gương mặt hoảng loạn của nhân viên, nó khuấy động và ảnh hưởng tâm não của vị hạm trưởng đang cần có phản ứng cấp bách trong những lúc ngặt nghèo. Nếu gió có thể thổi tạt con tàu nằm ngang quá lâu nó có thể gây hư hại hay làm hỏng máy tàu – như vậy nó đã đánh bại con tàu. Vì bất cứ lý do nào con tàu cũng phải được duy trì trong tình trạng khiển dụng. Một điểm bất lợi so với tàu buồm xưa làm bằng gỗ: tàu sắt không nổi được khi bị trôi giạt. Một khu trục hạm nếu chết máy trong cơn bão chắc là không bị lật cũng đắm vì ngập nước. Khi tất cả biện pháp không còn hiệu nghiệm nữa, sách vở dạy rằng, chỉ còn cách tốt nhất là quay mũi tàu về ngược hướng gió và gối sóng để tranh thủ thoát ra khỏi cơn bão. Nhưng ngay cả trường hợp này, các giới thẩm quyền không chắc đã đồng ý. Thật ra không có một giới chức thẩm quyền nào đã từng đủ kinh nghiệm thoát khỏi nhiều trận bão ghê gớm để có đủ tư cách quy định một biện pháp tổng quát để vận chuyển tránh bão. Hơn thế nữa, có thẩm quyền nào lại mong được cơ hội gặp bão để có kinh nghiệm này đâu.
Hệ thống âm thoại liên chiến hạm đầy tĩnh điện như nghẹn cổ họng và tiếng gió thổi và sóng vỗ ào ào khiến Willie mặc dù áp sát ống nghe vào tai cũng chỉ nghe được tiếng mất tiếng còn. Sunshine gọi Chain Gang. Ngừng tiếp tế nhiên liệu. Thi hành lệnh ngay. Chuyển hướng hạm đội hải hành 180 độ. Small Boys điều chỉnh đội hình…
-   Cái gì vậy? Cái gì vậy? – Queeg đứng sát Willie, hỏi dồn.
-  Ngừng tiếp tế nhiên liệu, thưa hạm trưởng và chuyển hướng đi chính nam. Thi hành ngay khi nhận được công điện.
-  Xách đít ra khỏi chỗ nay hả? Cũng đến lúc phải đi rồi.
Maryk đang ngồi chồm hổm, chù ụ trong bộ áo phao cồng kềnh nói:
-  Không biết chiến hạm sẽ chịu sóng như thế nào, vì gió sau lái, gió bên hông lúc nào cũng gây khó khăn cho mình…
-  Hướng nào mà mình chạy được ra khỏi cái cảnh này đều đúng hết.
Queeg nói vào. Ông nhìn ra ngoài những đợt sóng gầm gừ, nhồi lên, hụp xuống khắp mọi nơi, cao hơn cả cột cờ chiến hạm. bụi nước tung tóe như đám mây. Vài trăm mét phía sau tàu là một ngọn núi nước xám ngắt chui vào một bức tường sương mù trắng xóa. Bụi nước bị gió quá mạnh bắn tung ra, bây giờ tiếng rú giống như một trận mưa đá chứ không phải là bụi nước nữa.
-  Willie, gọi cho Paynter, bảo sẵn sàng máy móc để có thể phải vận chuyển khẩn cấp đó. Tôi sẽ lái tàu từ phòng radar. Anh ở đây nghe không.
Hệ thống âm thoại liên chiến hạm ré lên rồi phát ra những tiếng rên rỉ. tiếng nói phát ra ồng ộc giống như loa nằm dưới lòng biển “Small Boys, đây là Sunshine. Thi hành lệnh đổi đội hình. Di chuyển với vận tốc an toàn nhanh nhất “.
-  Được rồi, hai máy tiến full. Tay lái tiêu chuẩn bên mặt, thẳng hướng 180.
Queeg ra lệnh rồi chạy ra khỏi phòng lái. Stilwell quay tay lái, kêu lên:
-  Trời ơi tay lái nhẹ tênh thế này?
-  Chắc là bánh lái hổng lên trên mặt nước.
Maryk nói. Mũi tàu chúi vào mặt biển và ngóc mũi lên chậm chạp, những khối nước như thác đổ sang hai bên thành tàu. Phòng lái run lên cầm cập.
-  Tay lái bên mặt tiêu chuẩn, hạm phó. Trời ơi, tàu bị đẩy mạnh quá. Hướng 010, 020 hạm phó!
Chiếc Caine nghiêng đi và quay nhanh qua bên mặt. nỗi sợ hãi làm cho chân tcute;t xử về cáo buộc tội nổi loạn trên tàu.
Willie chấp nhận sẵn một viễn ảnh tệ hại về phiên tòa xử trong đầu, nhưng lòng anh vẫn còn run sợ, cặp mắt giương to để tự trấn an. Anh biết mình vẫn chỉ là một Willie Keith vô tư, vui tính mà ai cũng yêu mến, anh là người có thể mang niềm vui đến cho mọi người khi ngồi đàn dương cầm bản “If you knew what the Gnu knew” do anh sáng tác. Thật là xui xẻo để phải dính dấp vào mũi nhọn của quân pháp. Willie cảm thấy phẩm giá của mình được ví như chiếc lốp xe bị xì hơi, đưa anh trở về với gốc gác của một kẻ tầm thường xuất xứ từ trường đại học Princeton hay Hội quán Tahiti. Đã bao năm rồi, giờ đây trong tâm khảm anh mới lóe lên ý tưởng cầu cứu đến mẹ mình. “Mẹ là người sẽ giúp ta tra khỏi sự phiền toái này”.
Uể oải trong chiếc ghế ngả ra sau, chiếc nịt an toàn buộc trên bụng siết mạnh mỗi khi máy bay lắc, đầu óc anh cứ quay cuồng trong cơn mê tưởng, thấy mẹ mình mướn được những vị luật sư hàng đầu để biện hộ cho anh, và mấy chàng sĩ quan quân pháp trong phiên tòa cứ dài mặt ra và bối rối trước đội ngũ luật sư tài ba bênh vực cho anh. Anh đưa ra những luận cứ vững vàng làm hạm trưởng Queeg phải quặn người bởi những ngọn roi đối chất tới tấp của luật sư phe bị cáo tài ba chẳng thua gì vị luật sư kiêm chính trị gia nổi tiếng Thomas Ed Dewey. Cơn mê buồn thảm này càng lúc càng kỳ quặc và không còn mạch lạc. Không biết sao mà cả May Wynn cũng lọt vào trong giấc mơ. Trông nàng già nua và thô kệch, da dẻ thì lốm đốm trông gớm ghiếc. anh chìm lại vào giấc ngủ đầy mộng mị.
Willie chợt thức giấc và tỉnh táo ghé nhìn qua khung cửa kính tròn khi phi cơ bay trên những cao ốc có mái nhọn hoắt của vùng Manhattan trong ánh bình minh tím hồng. New York vẫn là nơi đẹp nhất trên thế gian này. Còn hơn thế nữa, New York vẫn là vườn Địa đàng, là một hòn đảo của mùa xuân huy hoàng, diễm tuyệt, là nơi anh đã yêu May Wynn. Máy bay hơi chúi nghiêng xuống và lướt nhẹ trên phi đạo. Mặt trời vàng rực ở hướng đông nhô lên khỏi đám mây tỏa ngập ánh sáng khắp nơi. trong khi phi cơ đáp xuống sân bay, Willie lại thấy Manhattan lần nữa, tòa nhà Empire State, cao ốc Chrysler, khu Radio City, tất cả bất chợt như rực lên ánh hồng bên trên làn sương tím còn bao phủ cả thành phố. Trong tâm trí Willie lại chợt hình dung đến hình ảnh những cụm khói màu cam tạt ra từ những dàn đại pháo trên những ngọn đồi xanh thẫm tại Saipan, và hình ảnh phòng lái của chiếc tàu Caine chòng chành giữa cơn gào thét thịnh nộ của bão tố. Ở khoảnh khắc này, Willie đã nhận thức được thế nào là chiến tranh.
-  Trễ mất nửa tiếng đồng hồ - người môi giới văn nghệ sĩ ngồi bên cạnh vừa lẩm bẩm vừa kéo khóa cài lại cặp xách tay.
Khi bước đến bực thang để ra khỏi may bay, một luồng gió lạnh phà vào mặt, buốt đến tận phổi khi anh hít thở làm anh sững người. Dường như anh đã quên mất thế nào là cái lạnh của mùa đông, từ trong máy bay nhìn ra New York cứ như thể còn ở vào mùa xuân. Willie thu mình bên trong chiếc áo khoác dầy cộm, và khẽ kéo chiếc khăn quàng lụa che kín cổ. Bước chân xuống bậc thang, vừa thở ra khói, anh thấy mẹ mình đang vui mừng vẫy tay từ khung cửa sổ nơi phòng đợi của phi trường. Anh vụt chạy đến, xuyên qua một khoảnh sân bay đầy gió lộng. Vừa thấy anh, bà ôm chầm lấy con con trai mình và hôn anh với niềm  thương yêu dạt dào trong phòng chờ đợi có lò sưởi ấm áp…
-  Willie! Willie! Con của mẹ! Thật sung sướng biết bao khi mẹ được gặp lại con!
Việc đầu tiên khi gặp lại mẹ là anh thấy mái tóc bà đã điểm sương! Anh không rõ chuyện gì đã xảy ra cho bà trong những ngày anh vắng mặt hay là anh đã không để ý đến điều này trước khi đi biển. Mái tóc hung đỏ ngày nào của bà nay đã ngả thành màu nâu bạc.
-  Trông mẹ thật tuyệt!
-  Cảm ơn con! Để mẹ nhìn con kỹ thêm một tí nào…
Vừa giữ cánh tay anh, bà vừa nghiêng người ra sau xem xét anh thật kỹ, khuôn mặt rạng rỡ vui tươi. Lòng bà cảm thấy vừa băn khoăn lẫn vui mừng khi gặp lại anh. Cuộc sống hải hồ đầy gian truân đã làm thay đổi ngoại diện con trai mình. Khuôn mặt sạm nắng với đôi gò má phẳng lì, mũi nhô ra, với chiếc cằm bạnh, trông như người xa lạ. Nhưng dĩ nhiên đó là Willie, Willie của bà với khóe miệng trẻ thơ cong cong vẫn như thuở nào.
-  Willie, con đã thật sự nên người.
-  Không hẳn thế mẹ ạ! – Anh trả lời với nụ cười mệt mỏi trên môi.
-  Trông con gọn gàng lắm! Con sẽ ở lại bao lâu?
-  Con sẽ trở lại tàu vào sáng chủ nhật.
Bà ôm anh lần nữa.
-  Chỉ có năm hôm, nhưng cũng không sao. Mẹ quá vui sướng, tưởng còn hơn cả năm năm.
Willie trò chuyện với mẹ rất ít trên suốt quãng đường về nhà. Anh thấy mình đang cố tình nói ít đi về những nguy hiểm của chiến tranh và phóng đại thêm về sự buồn chán, như tất cả các người Mỹ tốt bụng thường kín miệng trong các phim xi nê. Mẹ anh càng hỏi kỹ, anh càng trả lời mập mờ. Anh nhận thấy bà có ý muốn anh kể đến những lúc anh kề cận bên lưỡi hái của tử thần, vào sinh ra tử nhiều lần, nhưng anh đã bướng bỉnh nói là anh chưa hề gặp chút nguy nan nào. Thật ra, anh cũng có hơi thất vọng, vì chưa từng được có cảm giác rợn tóc gáy khi thoát cơn hiểm nguy, giết chóc hay bị thương tích vì chiến tranh…Giờ đây đang có mặt trong cuộc sống yên bình nơi thành phố, anh cảm thấy khó chịu khi bị ai tra vấn về vấn đề này. Bản năng tự nhiên thúc đẩy anh có ý định muốn khoe là mình đã thật sự gặp nguy hiểm, nhưng sự hổ thẹn vô hình đã kịp ngăn lại ý tưởng này. Trầm lặng là một hình thức khôn khéo và đáng nể để tự đề cao về mình, và anh đã biết dùng đúng lúc.
Khi vừa thấy lại bóng dáng căn nhà thân yêu của mình, lẽ ra anh phải bày tỏ nỗi vui mừng rộn rã của kẻ nhớ nhà, nhưng khi chiếc xe quẹo vào sân nhà, bánh xe lăn lạo xạo trên đường lót đá sỏi chạy đến trước cửa chính, anh chỉ đưa mắt lơ đãng nhìn sững cái sân cỏ úa vàng và những cành cây trơ lá. Trong nhà vẫn không có gì thay đổi, nhưng dường như có vẻ trống vắng và lặng yên, mùi thịt ba chỉ muối chiên thơm phức đã không át được mùi long não trong nhà. Trước kia nhà đâu có mùi khác lạ như vậy. Anh nhận ra ngay lập tức không còn dấu vết gì của mùi khói thuốc xì gà. Mùi này xưa kia đã từng ám cả vào màn cửa, thảm và nệm ghế.
-  Thưa mẹ, con đi tắm trước rồi ăn sau nhé.
-  Được rồi, Willie. Mẹ cũng đang có vài việc phải làm bây giờ.
Nhặt tờ báo để ở hành lang và dán mắt vào mấy dòng tít lớn “MacArthur tiến quân tới Manila”, trong khi bước thoăn thoắt lên cầu thang, anh bước vào phòng mình, quẳng tờ báo qua một bên. Bây giờ mọi việc đâu đã vào đấy, bản chất cố hữu của anh bắt đầu trở lại bình thường. Anh không còn thấy lạ chỗ, hay cảm giác lẫn lộn khi trở về nhà sau một thời gian xa vắng, và cũng không lộ vẻ vui mừng thái quá khi nhìn thấy lại chồng sách và chiếc máy quay đĩa hát của mình. Willie cởi quân phục, móc chung với những quần áo khác. Chỉ có tiếng nước chảy  xối xả từ vòi sen là làm anh ngạc nhiên. Anh đã quen với vòi sen phun nước yếu xìu trong phòng tắm của tàu Caine rồi. Luồng nước phun mạnh thật tuyệt vời, lại có thể điều chỉnh dễ dàng được nguồn nước nóng và lạnh, đây là điều ngon lành nhất so với bất cứ điều nào khác trong nhà anh. Trên tàu Caine nước nóng được tạo ra bằng hơi nước thoát ra từ một ống dẫn nước lạnh đã bị nghẹt một phần. Chỉ cần điều chỉnh sơ hở một chút, là có thể làm da thịt bị phỏng như chơi trong khoảnh khắc. Chính anh đã nhiều lần phải hét lên vì nước nóng đang tuôn ra quá mạnh trong đám hơi nước mịt mù.
Trong cơn cao hứng bất chợt, anh lôi ra bộ đồ bằng len kẻng nhất của mình, bộ đồ mềm mại thật đẹp, màu nâu nhạt mà anh đã tốn mất hai trăm mua ở tiệm Abercrombie and Fitch, chọn luôn chiếc cà vạt bằng lụa màu xanh nhạt, bít tất Argyle và chiếc sơ mi trắng có nút cài ở hai đầu cổ áo. Quần thì quá rộng còn áo veste thì hình như hơi quá cỡ, miếng vải đệm trên vai cũng hơi dầy. Chiếc cà vạt trông lạ hoắc khi anh thắt lại, sặc sỡ và ẻo lả so với chiếc cà  vạt đen mà anh vẫn thường dùng trong hai năm qua.
Ngắm nghía hình ảnh mình trong chiếc gương dài gắn trên tủ đựng quần áo, bất chợt anh lấy làm ngạc nhiên khi nhìn kỹ gương mặt mình, vì vừa nhận ra ngay lập tức phần nào các nét thay đổi mà mẹ anh đã nhìn ra. Anh để ý thấy nơi chân tóc trên trán mình có vẻ thưa thớt hơn. Nhìn vào chính mình, chính Willie đây, nhưng sao trông quá mệt mỏi và không tươi vui tí nào, ngay cả trong bộ trang phục diêm dúa này.
Bước xuống lầu, anh cảm thấy mình vụng về lẫn ngượng ngập, và hơi khó chịu về hai miếng vải đệm dày cộm trên vai.
Willie thấy đói và ăn hết cả một dĩa trứng với mấy miếng thịt xông khói chiên dòn, lại thêm mấy ổ bánh mì nhỏ nữa, trong khi mẹ anh vui sướng tâng bốc là anh trông thật bảnh trai.
-  Con chưa hề uống cà phê nhiều như thế này bao giờ - vừa nói bà vừa rót đầy tách cà phê lần thứ tư cho anh, và nhìn anh với niềm lo âu lẫn vì nể.
-  Bây giờ con ăn uống dữ tợn lắm mẹ.
-  Mấy người thủy thủ đáng nể thật nhỉ.
-  Thôi, chúng ta vào phòng sách mẹ nhé – Vừa nói anh vừa uống cạn tách cà phê
Hình ảnh người cha đã khuất như vẫn còn hiện hữu trong căn phòng màu nâu chứa đầy sách này, nhưng Willie đã chống lại những cảm nghĩ sợ hãi và u buồn. Anh đã cố ay Willie tê tê khi anh văng vào cửa kính ướt sũng
-  035, 040… hạm phó!
Càng ngày càng nghiêng nhiều về bên phải, chiếc Caine chồm lên hụp xuống theo lượn sóng, bị đẩy ngang hông, giống như một khúc gỗ hơn là một chiến hạm được điều khiển hẳn hòi. Bụi nước thổi ngang qua sân trước từng đám như mây. Theo bản năng, Willie nhìn qua Maryk, và cảm giác rất an tâm khi thấy người hạm phó hai tay nắm chặt cái xà ngang trên đầu, lưng dựa vững vàng vào thành tàu, bình tĩnh nhìn mũi tàu xoay chuyển thật nhanh dưới khối nước khổng lồ.
-  Willie, Willie – tiếng nói của hạm trưởng cáu kỉnh và la gào trong ống nói – Kêu cho tôi mấy đứa điện tử cà chớn của anh xuống đây ngay lập tức. Chẳng thấy một cái gì trên cái radar này!
-  Dạ vâng.
Willie hét vào ống nói trả lời, và sau đó kêu hạ sĩ quan điện tử qua máy phóng thanh nội bộ. Anh bắt đầu cảm thấy muốn ói do cái chuyển động lắc ngang và cái chồm lên hụp xuống xeo xéo rất khó chịu của chiến hạm.
-  Hạm phó, tàu không ăn lái nữa! – Người giữ tay lái nói lạc giọng.
-  Hướng bao nhiêu rồi?
-  Không chín ba, hạm phó!
-  Mình bị gió ngang, tàu ăn lái chậm.
-  Vẫn không chín ba, hạm phó!
Stilwell báo cáo sau một phút đồng hồ dầm mình nguy hiểm, nhảy từ từ theo sóng, rồi rơi mạnh và nhanh sang hữu hạm. Thật khó mà biết là chiếc Caine có di chuyển được chút nào hay không, hay chỉ là trườn lên rồi ngã xuống bên lườn phải. Cảm giác giác di chuyển hoàn toàn do biển và gió tạo nên, nhưng máy vẫn chỉ với vận tốc 20 gút.
-  Tay lái bên mặt hết! – Maryk ra lệnh.
-  Tay lái hết bên mặt! trời ơi, cái bánh lái này giống như bị đứt  giây rồi! mềm xèo như sợi bún!
Willie nổi gai khi nhìn thấy đám thủy thủ mặt mũi xanh lẽ vi sợ hãi, anh cũng cảm thấy màu xanh trên mặt anh. Maryk nạt:
-  Stiwell, câm miệng lại, nghe không? Dây bánh lái không có sao hết. Đừng có nhốn nháo như con nít vậy. mấy anh đã có bao giờ lái tàu đi biển chưa …
-  Thiệt hết chỗ nói rồi, Steve – tiếng réo của Queeg vang lên – Mấy người làm cái khỉ gì ngoài đó? Tại sao mà tàu không về đúng hướng vậy hả?
Maryk hét vào ống nói:
-  Gió và sóng mạnh quá. Tôi đã cho tay lái hết bên mặt rồi!
-  Sao không dùng máy mà quay? Trời đất quỷ thần ơi, bộ việc gì cũng phải đến tôi làm sao hả? mấy tên điện tử đâu hết rồi? Radar gì mà chỉ thấy như bãi cỏ thế này….
Maryk bắt đầu vận dụng máy, cho máy tả tiến ba và máy hữu lùi một mang chiến hạm về hướng 180.
-  Chiến hạm hướng 180, hạm phó – Stilwell cuối cùng báo cáo, hướng về Maryk, mắt sáng lên một tia mừng rỡ.
Chiến hạm trồi lên hụp xuống, nhưng nếu như hai bên tả hữu đều quân bình thì không có dấu hiệu gì nguy hiểm khi chúi mũi xuống thật sâu. Willie bắt đầu quen quen với cái cảnh ba ống khói tàu nằm song song với ngọn sóng, nên giữa nước và ống khói chỉ là bọt nước. Cảnh hãi hùng ống khói bị sóng biển dội qua dội lại nghiêng từ bên trái qua bên phải và quay qua quay lại giống như một cái gạt nước khổng lồ, giờ gần như là một cảnh vui vui. Nhưng khi mà sóng ngang làm tàu nghiêng hẳn về một bên là cảnh Willie thấy khiếp đảm nhất.
Queeg chui vào đài chỉ huy, vuốt nước dính trên mắt bằng khăn tay.
-  Cái bụi nước quỷ này thiệt là nặng mùi. Vậy là anh cho tàu đúng hướng được rồi nhỉ? Chắc mình qua khỏi được rồi đó.
-  Mình có đúng vị trí trong đội hình vậy không hạm trưởng?
-  Chắc cũng gần gần, tôi đoán vậy, tôi không biết. Điện tử nói bọt sóng làm nhòa các echo nên chỉ thấy tù mù trên màn radar. Nếu mình lệch xa nhiều quá, thế nào Sunshine chẳng gào lên.
-  Thưa hạm trưởng, tôi nghĩ mình phải dằn tàu mới được. mình chỉ còn 35 phần trăm nhiên liệu nên mình nhẹ quá. Một lý do mà tay lái không ăn là mình nổi cao quá – người hạm phó nói.
-  A, đừng lo, mình chưa bị chìm mà.
-  Dằn tàu mình sẽ dễ vận chuyển hơn rất nhiều.
-  Rồi mình bơm nước biển làm dơ hết các hầm dầu. Như vậy khi mình tiếp tế nhiên liệu mỗi 15 phút mình sẽ lại bị mất áp lực. Sunshine đã nhận được báo cáo nhiên liệu của mình. Nếu Sunshine thấy có nguy hiểm thì Sunshine sẽ ra lệnh cho mình dằn tàu mà.
-  Tôi cũng nghĩ rằng mình phải khóa an toàn các thủy lôi, thưa hạm trưởng.
-  Sao vậy Steve, mới có một chút sóng mà anh đã hoảng hốt lên rồi hả?
-  Tôi không có hoảng hốt gì đâu….
-  Mình vẫn phải làm nhiệm vụ một chiến hạm chống tàu ngầm, anh biết không? Lỡ năm phút nữa đây mình gặp tàu ngầm mà thủy lôi đã khóa chốt an toàn thì còn được tích sự gì nữa chứ?
Maryk nhìn khối sóng nước khổng lồ qua cửa kính mờ ảo của chiến hạm.
-  Mà mình làm sao mà có tàu ngầm để săn vào cái thời tiết như….
-  Sao anh biết được?
-  Trong phân đội mình tàu Dietch bị chính thủy lôi của họ nổ tung nguyên sân sau và chìm trong trận bão ở Aleutians. Hạm trưởng phải ra tòa án quân sự.
-  Thôi được, ông muốn khóa an toàn thì khóa, nhưng phải cho một người trực sẵn để mở khóa, nếu mình thấy tàu ngầm….
-  Hạm phó – Stilwell nói – thủy lôi đã khóa an toàn rồi.
-  Khóa rồi! – Queeg hét lên – Ai nói vậy hả?
-  T…tôi… chính tay tôi khóa các thủy lôi – giọng anh chàng thủy thủ run rẩy. Anh ta đứng dạng chân ôm bánh lái, mắt dính vào mặt la bàn điện.
-  Ai ra lệnh cho anh khóa hả?
-  Dạ, đó là tiêu lệnh thường trực của đại úy Keefer. Khi chiến hạm trong tình trạng nguy hiểm, tgrave;? Xin chờ một chút – sau nhiều tiếng reng, và sau cùng thì…
-  A lô? – Không phải giọng nói của May, mà là giọng của một người đàn ông.
-  Tôi đang muốn tìm phòng của May – Willie trả lời một cách khó chịu.
-  Đây là phòng của May. Ai đó?
-  Tôi là Willie Keith.
-  Willie! Trời ơi, Martin Rubin đây. Willie, khỏe không? Anh đang ở đâu vậy?
-  Tôi đang ở nhà!
-  Ở nhà? Nơi nào? San Francisco hả?
-  Không, ở Long Island. May đâu rồi?
-  Cô ta ở đây chứ đâu…Thật hết sẩy. Này Willie, thế May có biết anh về không? Sao không thấy May nói gì cả? Chờ chút nhé, để tôi đi gọi May cho anh.
Chờ một lúc lâu mới nghe được tiếng trả lời điện thoại.
-  A lô, Willie?
-  May? Anh xin lỗi đã đánh thức em dậy…
-  Cưng đừng có vẽ vời nữa. Em, em thật không ngờ! Anh về lúc nào vậy?
Willie vốn đã không thích tiếng “cưng” cũ rích của giới nghệ sĩ, nhất là May đang dùng để gọi anh trong lúc này, khiến anh phát chán. Giọng nàng vẫn lanh lảnh, lè nhè như những khi vừa thức dậy.
-  Anh mới đáp máy bay về đến nhà cách đây khoảng một tiếng.
-  Trời ơi! Sao cưng không cho em biết?
-  Anh muốn làm em ngạc nhiên.
-  Đúng rồi, em ngạc nhiên và sửng sốt quá! – Khoảnh khắc im lặng kéo dài sau đó làm Willie khó chịu. May lại nói – Willie, khi nào em sẽ gặp anh?
-  Bất cứ lúc nào em muốn.
-  Anh yêu, lẽ ra anh không nên chọn đúng cái ngày xui xẻo như hôm nay để gặp em. Ngay vào lúc em đang bị cảm cúm. Hay là chúng ta đi ăn trưa vậy…À, mà không được, em còn có việc khác nữa..Marty, khi nào thì chúng ta thâu thử xong dĩa hát chết tiệt đó vậy? Khi nào em có thể thoát nợ? Cho tới bao giờ? Ô, Willie, em thật lu bu quá! Em đang phải thu âm cho một chương trình truyền thanh và cần phải xong trong ngày hôm nay. Em đã phải uống thuốc để cố giữ cho sức khỏe khá hơn… Marty, anh có thể hoãn chương trình lại được không? Ô, Willie, phải chi anh cho em biết trước …
-  Thôi, em dẹp hết mọi chuyện đi, bực mình làm gì – Willie vừa nói vừa liếc nhìn mình trong chiếc gương nơi tủ quần áo – Ngày mai anh có thể gặp em.
-  Không, không! cưng à! Em sẽ xong xuôi mọi việc vào khoảng 3 giờ chiều nay…Mấy giờ hả Marty? 3 giờ rưỡi, Willie nhé. Đến gặp em trong cao ốc Brill được không?
-  Cao ốc Brill là cái gì và ở đâu vậy?
-  Ô Willie. Cao ốc Brill đó mà. Rõ thật lẩm cẩm, em quên mất là anh đâu phải dân ghiền nghe hát. Anh biết mà, nó nằm đối diện với tòa cao ốc màu xám Rivoli, anh nghe cho rõ nhé, đó là phòng thu dĩa hát Sono-phono, anh nhớ chưa? Sono-phono.
-  Được rồi. Anh sẽ có mặt lúc 3 giờ rưỡi. Em không còn đi học nữa sao?
Giọng nàng có vẻ như muốn biện hộ:
-  Chuyện đó à, em ngại lắm vì em thường hay vắng mặt trong lớp học. em sẽ kể cho anh nghe sau.
-  Hẹp gặp lại em.
-  Vâng, chào anh.
Willie quăng mạnh ống nghe xuống đến nỗi chiếc điện thoại văng khỏi mặt bàn rơi xuống sàn. Anh cởi bộ đồ vía ra, vứt nhàu một đống trên ghế, và thay vào bằng bộ quân phục. Anh có hai chiếc mũ cát két, một cái trông khá mới, còn một cái anh hay đội khi đi biển, đường viền vàng nhũ trên nón đã bạc màu cũ kỹ. Anh chọn chiếc nón cũ và thay vào một lớp phủ mới, làm thêm vẻ phong trần.
Vẻ huy hoàng của thành phố Manhattan mà Willie nhìn từ trong phi cơ thật chẳng giống chút nào so với khu Broadway và đường số 5 lúc anh vừa ra khỏi xe điện ngầm. Cũng vẫn góc phố đông đúc cũ kỹ dơ bẩn ngày xưa, chỗ này là tiệm bán xì gà, chỗ kia là hàng quán bán nước cam, xa hơn nữa là một túp lều chiếu phim quay bằng tay, đâu đâu cũng đầy người với những khuôn mặt mệt mỏi xấu xí, vội vàng co ro trong cơn gió rét lạnh căm đang thổi bay phần phần mấy tờ báo trên quầy và xoáy tít những đám tuyết khô lăn long lóc dọc theo máng xối. cảnh này đối với Willie đã quá quen thuộc.
Phòng tiếp khách của phòng thâu Sono-pono rộng khoảng hai mét vuông, vách bằng thạch cao, cửa ra sau cũng thế, một chiếc bàn sắt màu xanh lá cây, với một nàng tiếp viên xấu tệ, có nước da cũng trắng bệch như thạch cao, đang nhòm nhèm nhai kẹo cao su.
-  Này, ông cần tôi giúp gì không?
-  Tôi có hẹn gặp May Wynn ở đây.
-  Cô ấy vẫn còn bận. Ông chưa vào được, họ còn đang thu âm.
Willie ngồi xuống chiếc ghế độc nhất màu vàng, cởi khăn choàng cổ và áo khoác. Cô tiếp viên liếc nhìn hàng huy chương trên ngực áo của anh, đếm xem mấy ngôi sao và mắt không ngừng nhìn anh với vẻ khâm phục. Sau tấm vách thạch cao, anh nghe một giọng đàn ông:
-  Được rồi, bây giờ thì chúng ta thâu âm thật đấy…
Tiếng nhạc hòa tấu vang lên, rồi nghe thấy giọng của May “Đừng ném…Bó hoa cho em…”
Lập tức hơi nóng và cảnh tồi tàn trên phòng ăn ở tàu Caine cùng sự tuyệt vọng, đáng ghét của hạm trưởng Queeg vụt hiện ra trong tâm trí anh, xen lẫn thật không đúng lúc với cái sôi nổi ngọt ngào của mối tình đầu tiên với May. Tiếng hát vang vọng của May gieo vào lòng anh một nỗi buồn man mác. Khi bài hát đã chấm dứt Marty Rubin mở cửa và nói:
-  Kìa Willie! Hân hạnh gặp lại anh! Vào đây!
Trông Marty phì nộn hơn bao giờ. Bộ vét màu xanh lá cây của anh ta trông thật chẳng hợp chút nào với nước da vàng ệch và cặp kính nhuộm màu dầy cộm, làm biến dạng đôi mắt anh ta thành hai điểm nhỏ xíu. Marty bắt tay anh:
-  Trông anh oai thật!
May đứng gần máy vi âm, nói chuyện với hai người đàn ông mặc áo dài tay, còn các nhạc công thì thu dọn nhạc cụ của họ. Phòng thâu âm chẳng có gì ngoài những dây nhợ lung tung và máy thu âm. Willie dừng bước, đứng bất động bên trong cánh cửa.
-  May, Willie đến đây này – Ông bầu Marty kêu lên. Nàng quay lại, chạy về phía Willie, vòng tay choàng cổ anh và hôn nhẹ trên má.
-  Chúng mình sẽ rời khỏi đây trong vài giây, anh nhé – nàng thì thầm.
Willie đứng chờ May, quay lưng về phía cửa ra vào, và cảm thấy nóng nực trong lớp áo choàng trong khi May vẫn còn đứng nói chuyện thêm chừng mười phút nữa với ông bầu và hai gã đàn ông mặc áo dài tay.
-  Em muốn uống gì một chút – May nói trong lúc họ ngồi bàn riêng với nhau trong một căn phòng vắng trên lầu Lindy – và sau đó em muốn ăn điểm tâm.
-  Giờ giấc của em sắp xếp kỳ quá. Cái gì vậy? – Anh hỏi khi thấy May thảy một viên thuốc trắng vào miệng.
-  Aspirin, anh sờ trán em xem.
Trán nàng hâm hấp nóng. Willie nhìn nàng lo ngại. Khuôn mặt tiều tụy, hốc hác, mái tóc cài ngược lên đầu một cách cẩu thả, và cặp mắt quầng  thâm. Nàng càu nhàu và hơi có vẻ bất cần:
-  Em biết mình bết bát lắm. Anh đã lựa đúng thời điểm này để rồi bất thình lình xuất hiện cưng à!
-  May, lẽ ra em nên nằm nghỉ ngơi.
-  Em không thể nằm yên trên giường được. Nào, anh kể chuyện về chiến tranh cho em nghe đi.
Thay vì kể chuyện, Willie đã vặn hỏi về cuộc sống hiện tại của nàng. May hát tại một hội quán trên đường số 22 mấy tuần đầu lúc mới vào nghề. Cha nàng nhuốm bệnh suốt nửa năm trời, để mặc mình mẹ nàng quán xuyến cửa hàng trái cây ế ẩm. May đã phải đùm bọc cả gia đình. Nàng đã thuê một căn phòng ở một khách sạn dưới phố gần nơi làm việc vì sợ có thể bị nhiễm lạnh sưng phổi nếu hàng đêm cứ phải chờ đáp xe điện ngầm từ một nơi xa xôi về nhà.
-  Em đã quá kiệt sức, Willie à! Sau cùng em nhận thấy việc đi học và đi hát ở phòng trà về đêm không thể phối hợp cùng lúc với nhau được. cứ lê lết mãi như thế không dễ gì ngủ nghê được. đã có lần em ngất xỉu trên xe điện ngầm, và trong lớp học..Thật quá sức
-  Như vậy em bỏ học sao?
-  Không, em chỉ bỏ bớt lớp học thôi. Em chẳng cần hay mong muốn mình được có tên trong hội danh dự Phi Beta đâu. Em chỉ mong mỏi được học hỏi thêm chút ít. Thôi, mình nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp đi. em nói được tiếng Pháp đấy. avez-vous le crayon de ma tante?
Nàng phì cười, mắt như dại đi, điệu bộ không còn linh hoạt. May uống hết tách cà phê.
-  Em nhận thức ra được hai điều liên quan đến nghề nghiệp ca hát của em. Thứ nhất, em không có đủ năng khiếu…bây giờ em mới biết thế, và thứ hai là phần nhiều các ca sĩ khác còn kém hơn cả em.. Nhưng em cũng còn kiếm sống được… cho đến khi em già nua xấu xí. Cứ với đà này thì cũng sẽ đến gần ngày đó thôi…Đó là ngày thứ ba tới đây thôi. Em sẽ kể cho anh nghe sau. Chúng ta hãy lên phòng em đi, để em có thể nằm nghỉ trong khi nói chuyện với anh. Tối nay em còn phải đi hát nữa! À, em đã nói với anh là  trông anh đẹp trai hơn trước nhiều chưa? Trông anh có vẻ ngang tàng hơn, không còn vóc dáng hiền lành của một chàng thư sinh thuở trước nữa..
-  Làm như em thích chàng thư sinh lắm vậy…
-  Thật ra nói em thích một chàng thư sinh mang những nét phong trần, oai phong thì có vẻ gần đúng hơn. em cảm thấy hơi khó chịu một chút, anh ạ. Một ly Martini trước bữa ăn đầu tiên trong ngày là điều không nên. Em phải nhớ điều này mới được. Thôi chúng mình đi đi.
Trong taxi, bất chợt May hôn lên môi anh. Anh thoáng ngửi thấy mùi rượu gin. May nói:
-  Em có làm anh chán ngấy em không?
-  Em hỏi gì lạ vậy?
-  Bệnh tật, nghèo hèn, anh nhìn chiếc áo này đây cũng như tất cả những chiếc khác đã được khoác lên tấm thân này…Làm việc chung đụng với đám nhạc công xoàng xĩnh, trong một phòng thâu tầm thường, chúng ta là những kẻ yêu nhau trong định mệnh ngang trái, Willie thấy chưa, em đã nói với anh là em vẫn muốn trau dồi việc học hỏi cho được tiến bộ hơn – May ngân nga – những đôi tình nhân bất hạnh. Hỡi đêm tối dịu êm, hãy đem Willie đến cho tôi. Và khi chàng chết, hãy mang chàng đi và biến chàng thành những vì sao nho nhỏ, trang điểm cho bầu trời thêm lộng lẫy để cả thế gian đều yêu thích bóng đêm. Có khi nào anh nghĩ em sống chung với Marty Rubin không?
Mặt Willie đỏ bừng
-  Chỉ uống một ly Martini mà May ra nông nỗi này sao?
-  Và em còn bị sốt đến 101,8 độ. Mình sẽ đo lại nhiệt độ khi về đến nhà. Thật ra, em không cho vậy là may mắn đâu. Anh đã gọi điện cho em sau khi trở về từ nửa vòng trái đất để rồi nghe giọng đàn ông trả lời, một cú điện thoại oái oăm. Dù Shakespeare có trả lời cũng cúp đi hả?
Chiếc taxi quẹo gắt ở góc đường khiến nàng ngã chúi vào anh. Mùi hương tóc của nàng vẫn như ngày xưa, ngọt ngào, quyến rũ. Anh ôm chặt nàng trong tay. Người nàng mảnh mai hơn trước. May thỏ thẻ:
-  Anh yêu, nhớ nhắn với mấy sĩ quan trẻ trên tàu Caine đừng bao giờ về thăm bạn gái một cách bất chợt. Phải cho các cô biết trước, để họ có thì giờ tống khứ những gã đàn ông ra khỏi phòng trọ, và nghỉ ngơi lấy sức trước một tuần, rồi còn đi mỹ viện sửa soạn trang điểm cho xinh đẹp nữa. Em thật cảm phục về mấy huy chương của anh. Anh không bị thương tích gì cả chứ? Phải đúng vậy không?
-  Sức mấy…
-  Anh biết không, em có một tên nô lệ. Đúng nghĩa là nô lệ. Đó là Marty Rubin. Hắn chưa hề nghe tới chữ Tuyên ngôn giải phóng. Đấy! Anh thấy cái lợi của học vấn trên đại học chưa? Hứa với em là anh sẽ không kể với Marty rằng Lincoln đã giải phóng nô lệ rồi nhé! Bác Tom Rubin ấy mà. Em nghĩ nếu không có anh ta thì có lẽ em đã chết mất hay đã phải gởi ba má em vào viện tế bần rồi. Ô! Chóng quá, đi đến nhà rồi ư?
Nơi ở của nàng là một căn phòng nhỏ tồi tàn nằm cạnh lối đi tối tăm. Chiếc khăn phủ giường, tấm thảm, và mấy cái ghế cũ sờn rách lòi cả màu chỉ xám xịt, trên trần nhà sơn tróc ra từng mảng. may đóng cửa và hôn anh đắm đuối.
-  Trông anh to lớn như con gấu trong tấm áo khoác này. Giá thuê căn phòng này, chỉ có 3 đô la, không tệ lắm, anh nhỉ. Cũng nhờ Marty, em mới thuê được giá này đây. Chỉ tội không có phòng tắm riêng, phòng tắm chung ở tận cuối hành lang kia kìa. Nhưng trước tiên, em phải đo nhiệt độ đã. Biết đâu em không cần phải nằm nghỉ! À, anh xem những thành tích của em này!
Nàng nhìn Willie một cách ngộ nghĩnh, hàn thử biểu kẹp giữa hai bờ môi trong khi Willie lật xem từng trang sưu tập của nàng. đầy những mẩu báo được cắt dán vào. Mỗi trang đều có ghi những điểm đặc biệt riêng của nó, với một vòng cung hình các ngôi sao vàng kim được dán lên, cùng những dòng chữ khen hơi quá lố, gồm cả một bức hình của Marty cắt từ nhật báo New York Daily News với hàng tít lớn: May Wynn, nỗi lo lắng mới nhất của nữ ca sĩ Dinah Shore.
-  Em chẳng muốn nói ra em đã phải làm gì để được đăng bài báo đó – May nói qua kẽ răng trong lúc còn ngậm hàn thử biểu. nàng nói thêm – tuy nhiên không phải như anh nghĩ qua cách biểu lộ trên nét mặt của anh đâu.
Willie vội thay đổi ngay thái độ bằng cách cố gắng thư dãn các bắp thịt trên mặt.
-  Nào, xem thử.
May giơ hàn thử biểu lên về phía cửa sổ.
-  Cũng không đến nỗi nào, chỉ có 101.2 độ thôi. Thôi, tụi mình đi cưỡi ngựa ở Central Park đi anh.
-  Em lên giường nằm đi. Anh gọi bác sĩ đến ngay.
-  Anh ơi, làm gì phải cuống lên như thế! Em đã đi gặp bác sĩ rồi. Lẽ ra em phải nghỉ ngơi và uống aspirin. Vấn đề là chương trình của anh ra sao? Khi nào anh phải về nhà gặp lại mẹ anh?
-  Tối nay là của chúng ta – Willie cảm thấy như bị coi thường.
-  Ô, thật tuyệt vời! – Nàng tiến đến và choàng hai tay quanh cổ anh.
-  Vậy em nằm nghỉ một chút được không? mình lại tán gẫu như trước..và tối nay em sẽ thật xinh đẹp lộng lẫy.
-  DĠo một chỗ chói mắt. Ông không có vẻ gì là nghe lời nói của Maryk. Viên hạm phó nhắc lại:
-  Tôi xin phép dằn hầm tàu phía sau lái, hạm trưởng!
Môi Queeg cử động và giọng yếu ớt và bình tĩnh, ông nói:
-  Không chấp thuận!
Stilwell quay nhanh bánh lái, làm tuột tay Willie. Willie vớ được cái xà ngang trên đầu.
-  Bây giờ đang giạt sang bên phải. Hướng 180, 190, 191…
-  Hạm trưởng, tay lái hết bên trái được không?
-  Được – Queeg nói nhỏ.
-  Tay lái hết bên trái, hạm phó – Stilwell nói – hướng 200….
Maryk liếc nhìn hạm trưởng vài giây đồng hồ trong khi chiếc Caine lết qua bên trái, bắt đầu qua tiến trình trồi trên sóng ngang, và gió thì đập tới từ một phía khác.
-  Hạm trưởng, mình phải vận dụng hai máy rồi. Bánh lái không ăn nữa…Hay là mình đi gió ngược. với gió phía sau lái này, mình sẽ bị giạt rất nhanh….
Queeg đánh máy ra lệnh phòng máy, và nói:
-  Hướng đi của hạm đội là 180.
-  Hạm trưởng, mình phải vận chuyển để lo cho chiến hạm được an toàn…
-  Sunshine hiểu rõ tình hình thời tiết. Mình chưa nhận được lệnh tự do vận chuyển! – Queeg nhìn thẳng về phía trước, ôm chặt máy truyền lệnh trong khi tàu lắc mọi phía.
-  Hướng 225 … đang bị giạt rất mạnh, hạm phó!
Một cơn sóng lớn không thể tưởng phải bên tả mạn tới, ụp cả khối nước lên đài chỉ huy. Nước đổ vào phòng lái qua cửa mở, ngập tới đầu gối. Nước ấm lạ thường và dinh dính như máu.
-  Hạm trưởng, nước ngập đài chỉ huy rồi! mình bắt buộc phải đi gió ngược mới được – Maryk thét lên.
-  Hướng 245, hạm phó! – Stilwell nói như khóc – Máy không còn ảnh hưởng gì nữa, hạm phó.
Chiếc Caine gần như nghiêng hẳn qua bên trái. Mọi người trong phòng lái, ngoại trừ Stilwell đều giạt chúi vào cửa sổ. Biển ở ngay dưới mũi họ, nước bắn vào cửa sổ.
-  Đèn la bàn điện tắt, hạm phó!
Stilwell la lên, vừa bám dính chặt lấy tay lái. Gió gào ken két vào tai Willie. Anh ngã xấp trên sàn tàu, lúng túng trong vũng nước biển, đang cố mò mẫm tìm cái gì để bám lấy.
-  Chúa ơi, Chúa ơi, lạy Chúa Giê su, xin Ngài cứu chúng con – Urban kêu ré lên thảm thiết.
-  Quay tay lái ngược lại, Stilwell. Tay lái bên mặt hết! – viên hạm phó kêu lên.
-  Tay lái hết bên mặt, hạm phó.
Maryk bò trên phòng lái, phóng tới máy ra lệnh phòng máy, kéo mạnh bàn tay Queeg đang nắm chặt vào máy, Maryk đổi ngược lại lệnh máy của Queeg.
-  Xin lỗi hạm trưởng! – Một tiếng khạc khủng khiếp từ ống khói – hướng bao nhiêu? – Maryk kêu to.
-  Hai bảy năm, hạm phó!
-  Giữ tay mặt hết!
-  Dạ hạm phó!
Chiếc tàu rà mìn trồi lên mặt nước được một tí. Willie Keith không biết hạm phó vận chuyển thế nào, mặc dù vận chuyển này cũng rất đơn giản. Gió đẩy tàu từ phía nam qua phía tây. Queeg muốn mang tàu về phía nam, Maryk thì làm ngược lại. Lợi dụng sức đang quay của sóng gió sang bên mặt, và phụ thêm bằng vận chuyển của hai máy và bánh lái, mang hướng tàu về hướng chính bắc, ngược sóng và ngược gió.
Nếu trong những lúc bình thường thì Willie sẽ nghĩ ra dễ dàng, nhưng bao giờ đầu óc anh đang rối bời, bị mất hết phương hướng. Anh ngồi bệt trên sàn tàu, ngu ngốc nắm chặt lấy cái điện thoại, nước ướt nhẹp quần, nhìn vị hạm phó như nhìn một kỳ tài, một bậc tiên thánh trên trời sai xuống cứu độ tàu Caine với những vận chuyển thần tình. Anh thật sự đã mất tin tưởng vào khả năng của chiến hạm. Anh nhận thức rõ ràng rằng anh đang ngồi trên một mảnh thép trong một biển nước đang cơn thịnh nộ. Anh không nghĩ đến chuyện gì khác ngoài chuyện khao khát được cứu thoát ra khỏi nơi này. Bão tố, Caine, Queeg, biển, hải quân, bổn phận, lon đại úy, tất cả anh đều không còn nhớ gì nữa. anh như con mèo ướt meo meo trên mảnh gỗ trôi giạt trên biển cả mênh mông trong trận đắm tàu.
-  Tàu vẫn qua chứ? Hướng bao nhiêu? Đọc hướng lên chứ! – Maryk la lối.
-  Quay chút chút, hạm phó – nhân viên lái tàu thảng thốt kêu lên như bị ai dí dao vào cổ - hướng 310, hướng 315, hướng 320….
-  Giảm tay lái từ từ tay lái về mặt mười!
-  Giảm tay lái, hạm phó?
-  Ừ, giảm đi!
-  Tay lái giảm dần bên mặt, hạm phó!
-  Nghe rõ!
Giảm, giảm, giảm….tiếng giảm dần dần ngấm vào đầu óc mơ màng của Willie. Anh đứng dậy nhìn quanh. Tàu lăn qua phía này rồi lăn qua phía kia, rồi lăn trở lại. phía ngoài chỉ còn là hình ảnh mù mịt của bọt sóng. Biển bây giờ trở thành vô hình. Sân trước như vô hình.
-  Willie, anh không sao chứ hả? tôi tưởng anh bị té xỉu rồi chớ - Maryk, vẫn bám chặt hai tay vào lưng ghế hạm trưởng, liếc qua Willie.
-  Tôi không sao. Bây…giờ sao rồi Steve?
-  Xong rồi, không sao hết. Mình sẽ vượt qua trong khoảng nửa giờ nữa, mình an toàn rồi …Hướng bao nhiêu rồi? – Maryk quay qua hỏi Stilwell.
-  Ba hai năm, hạm phó. Quay từ từ chậm lắm.
-  Dĩ nhiên rồi, ngược gió, tàu sẽ quay từ từ thôi. Và mình sẽ đi thẳng hướng 000…
-  Dạ, hạm phó!
-  Không, mình sẽ không đi hướng đó! – Queeg nói.
Willie đã quên hẳn Queeg. Trong trí Willie, hình ảnh Maryk đã chiếm trọn là người cha, người lãnh đạo, và một người cứu mạng. anh bây giờ nhìn con người nhỏ thó mặt nhợt nhạt đang đứng chân tay quấn chặt cái máy truyền lệnh phòng máy, anh thấy như là một người hoàn toàn xa lạ. Ông hạm trưởng mắt chớp nhanh, đầu lắc qua lắc lại như vừa qua một cơn ngủ say, nói:
-  Quay bên trái lại 180
-  Thưa hạm trưởng, mình không thể di chuyển với gió mạnh sau lái mà không bị nguy hiểm – viên hạm phó nói.
-  Tay lái bên trái, hướng 180!
-  Khoan đã Stilwell – Maryk nói.
-  Ông hạm phó, hướng của hạm đội là 180 – giọng của ông hạm trưởng yếu ớt, giống như thều thào. Ông nhìn thẳng về phía trước như người không hồn.
-  Hạm trưởng, mình đã mất liên lạc với hạm đội. Radar không còn nhìn thấy gì nữa mà.
-  Như vậy mình sẽ phải đi kiếm họ..tôi không muốn mang tội bất tuân thượng lệnh chỉ vì thời tiết….
Nhân viên lái tàu báo cáo:
-  Lái thẳng giữ hướng 000
Maryk nói:
-  Thưa hạm trưởng, mình làm sao biết lệnh bây giờ là thế nào? chiến hạm chuẩn của đội có lẽ đã bị mất ăng ten, ăng ten của mình có lẽ cũng bị mất rồi …Làm sao có thể gọi Sunshine để báo cáo tình trạng nguy hiểm của mình được?
Trồi lên hụp xuống, chiếc Caine lấy lại được khả năng điều khiển hướng tàu. Willie cảm nhận cái mức rung quen thuộc của máy tàu, cái nhịp nhàng mạnh dạnh của sóng nhồi lan từ mũi tới lái, dội lên sàn tàu, truyền qua xương chân của anh một cách tin tưởng vào khả năng hải hàng của con tàu. Bên ngoài phòng lái là màu đen mờ nhạt của bọt sóng và tiếng gió rú ảm đạm lên bổng xuống trầm trong một cách glissandos rất nhanh và liên tục theo như một thang của âm nhạc.
-  Mình đâu có bị nguy hiểm gì đâu! – Queeg nói – Tay lái bên trái, trở lại hướng 180!
-  Lái thẳng hướng hiện giờ!
Maryk nói gần như cùng lúc với hạm trưởng. nhân viên lái tàu nhìn hết sĩ quan này đến sĩ quan khác, mắt trố lên hoảng hốt.
-  Làm theo lệnh của tôi! – Hạm phó la lớn. ông quay qua sĩ quan đương phiên – Willie, ghi giờ cẩn thận vào nhật ký hải hành.
Ông bước dài qua bên cạnh viên hạm trưởng và chào tay:
-  Thưa hạm trưởng, xin lỗi hạm trưởng, nhưng hạm trưởng đang bị bênh. Tôi tạm thay thế quyền chỉ huy trên chiến hạm này, theo điều luật 184 của hải quy.
-  Tôi không hiểu anh nói chuyện gì – Queeg nói – Tay lái bên trái, hướng 180!
-  Trung úy, ông là sĩ quan trường phiên, tôi phải làm thế nào đây? – Stilwell kêu lên.
Willie đang nhìn đồng hồ. Đồng hồ chỉ 10 giờ thiếu 15. Anh sững sờ thấy mình mới lên phiên mới có chưa đến hai giờ đồng hồ. Cái mức quan trọng của những việc xảy ra giữa Maryk và Queeg chỉ thấm nhập chậm chạp vào trí óc anh. Anh không thể tưởng tượng được chuyện đó có thể xảy ra. Nó không thể tưởng tượng được cũng như anh không thể tưởng tượng được cái chết của chính mình như thế nào.
-  Không cần phải hỏi trung úy Keith – Queeg nói với Stilwell, giọng làu bàu không thích hợp với hoàn cảnh bây giờ chút nào, cái giọng mà ông dùng để khiển trách về những vụ bao gói kẹo chewing gum trên sàn tàu – Tôi đã nói là anh cho tay lái bên trái. Đó là lệnh. Tay lái qua bên trái ngay, lẹ lên!
-  Thiếu tá Queeg, thiếu tá không được ra lệnh trên đài chỉ huy này nữa – Maryk nói – tôi đã nhận quyền chỉ huy chiến hạm này. Thiếu tá đang bị bệnh. Tôi chịu trách nhiệm mọi chuyện. Tôi biết tôi sẽ ra tòa án quân sự. Tôi đã nhận trách nhiệm vận chuyển tàu…
-  Maryk, anh bị bắt giam, xuống phòng của anh ngay bây giờ! – Queeg nói – Tôi ra lệnh tay lái bên trái, hướng 180!
-  Trời ơi, trung úy Keith!
Nhân viên lái tàu kêu lên, nhìn thẳng vào Willie. Urban đã lùi vào một góc thật xa của phòng lái. Anh ta nhìn lom lom vào hạm phó rồi vào Willie, miệng há hốc. willie ngó về Queeg, vẫn đang dính chặt vào máy truyền lệnh, rồi ngó sang Maryk. Anh cảm thấy tràn ngập ngất ngây một niềm vui.
-  Lái hướng 000, Stilwell. Ông Maryk nhận trách nhiệm chỉ huy. Hạm trưởng Queeg đang bị bệnh.
-  Trung úy Keith, gọi người thay thế phiên trực ngay! – Ông hạm trưởng nói như cùng một lúc, với một vẻ như là giận dữ thật sự - Ông cũng bị giam luôn nữa!
-  Ông Queeg, ông không có quyền bắt giữ tôi! – Willie nói.
Cách thay đổi xưng hô đột ngột lạ lùng của Willie tạo nên một thoáng vui bất ngờ trên mặt Stilwell. Anh ta nhăn mặt nhìn Queeg vẻ coi thường.
-  Lái thẳng hướng 000, hạm phó! – Anh nói rồi quay lưng lại các sĩ quan.
Queeg đột ngột buông tay khỏi máy truyền lệnh rồi lảo đảo lân qua phía bên kia của phòng lái về hữu hạm. ông kêu ra ngoài phía hông phòng lái:
-  Keefer,  Harding! Có sĩ quan nào ngoài đó không?
-  Willie, kêu Paynter bảo anh ta bơm nước vào tất cả các hầm trống, lẹ lên!
-  Dạ vâng!
Willie nắm lấy điện thoại và gọi phòng máy:
-  Paynter hả, nghe kỹ này, mình sẽ dằn tàu ngay. Bơm đầy các hầm trống ngay tức khắc… Ừ, anh nói trúng phóc, cũng là trễ rồi đó…
-  Trung úy Keith, tôi không có ra lệnh cho dằn tàu! Ông gọi trở lại phòng máy ngay!
Maryk bước tới hệ thống phóng thanh nội bộ:
-  Quý vị sĩ quan lập tức trình diện tại đài chỉ huy ngay! Tất cả các sĩ quan lập tức trình diện tại đài chỉ huy ngay! – Anh nói riêng với Willie – Bảo Paynter là anh ta được miễn.
-  Dạ vâng – Willie bước tới nhấc điện thoại.
-  Tôi đã nói rồi, và tôi nhắc lại một lần nữa – Queeg cáu kỉnh nói – Cả hai người phải bị giam! Phải rời đài chỉ huy ngay bây giờ! Tư cách của các anh thật đáng trách!
Lời phản đối của Queeg làm cho Willie càng cảm thấy vui hơn và mạnh dạn hơn. Trong cái phòng lái tăm tối ướt át này, trong ánh sáng mờ mờ của buổi  sáng, với tiếng gió rít ghê rợn qua cửa sổ, Willie như sống trong những giây phút hạnh phúc nhất đời. anng được cung phụng bằng mọi thứ mà tiền bạc có thể mua được, là do từ đồng tiền của mẹ anh, hay vợ anh, chứ không do đồng tiền kiếm được từ việc dạy học của anh. Trong tương lai xa vời, anh cũng muốn có một người vợ đúng theo ý anh là dịu dàng, dễ thương, xinh xắn, có học vấn, với tất cả những nét khả ái thuộc một gia đình quyền quý giàu sang. May Wynn là một cô gái thông minh, hấp dẫn, có thể như vậy, nhưng dĩ nhiên không phải vào lúc này. Nàng thuộc giới bình dân, ăn nói vô ý tứ, dùng nước hoa thì quá nhiều như giới nghệ sĩ, nàng lại quá dễ dãi với anh ngay từ lần đầu gặp gỡ, và đã ăn nằm với anh. Đối với anh, May như đã có tì vết, hơi tầm thường, nói chung mọi vấn đề đã trái ngược hẳn với dự định trong tương lai của anh. Nàng lại theo đạo Công giáo. Dù May không thiết tha trong đức tin, điều này cũng chẳng lay chuyển được lòng anh. Willie cũng hiểu quan niệm chung là người theo đạo Công giáo không bao giờ từ bỏ đạo hoặc có thể trở lại đạo bất cứ lúc nào. Anh không muốn những việc như thế làm xáo trộn cuộc sống của mình cũng như của con cái mình đối với sự bất ổn có thể xảy ra sau này.
Còn nếu như chuyện đạo giáo có giải quyết được đi nữa, liệu anh có muốn trở lại với một cô gái thành công và diễm kiều như May hay không? Một ngôi sao sáng chói của những vở nhạc kịch nổi tiếng, chuyện khó mà nói trước được. Anh hiện đang ở cạnh nàng, trong một căn phòng tối tăm của một khách sạn dơ dáy, và nàng thì đang đau ốm, tàn tạ và túng thiếu. Mấy quyển sách học giúp nàng có thêm được chút cảm tình, nhưng vẫn không khiến người khác tăng thêm được sự say mê nàng. may đã có cố gắng một chút để tạo cho mình một vị thế gần đúng như mẫu người lý tưởng mà anh mong đợi, nhưng giờ đây thì đã thất bại  chua cay. Thôi, tất cả coi như không còn gì nữa.
Nàng nằm ngủ, miệng thì há hốc, hơi thở dồn dập, không đều, và ồn ào. Chiếc áo choàng màu xám xô lệch, phơi bày cả phần trước ngực. cảnh tượng này khiến Willie cảm thấy khó chịu, anh kéo chăn phủ đến tận cằm cho nàng, rồi ngồi sụp vào trong lòng ghế, ngủ thiếp đi…
-  Anh có thấy gì đâu nào? – Willie nói trong lúc xe taxi tấp vào trước cửa hội quán Grotto – Hội quán Tahiti đâu? Cái hội quán Yellow Door cũng đâu rồi? nơi này có phải trước kia là….
-  Đúng rồi, nơi này trước kia là hội quán Yellow Door. – May trả lời – còn hội quán Tahiti đã dẹp rồi và bây giờ là tiệm ăn Tàu đấy. Có gì tồn tại lâu dài trên con phố này đâu.
-  Còn ông Dennis thì như thế nào?
-  Ông ấy đã mất rồi! – May trả lời và bước ra khỏi xe đúng vào một cơn gió mang đầy bụi bặm thổi tốc lên.
Suốt bữa ăn tối, nàng có vẻ trầm tư và chẳng buồn nói gì nhiều. Sau đó lẳng lặng vẫy tay về phía Willie, rồi từ từ đi biến vào sau bức màn của phòng thay áo. Anh sửng sốt khi thấy chỉ nửa tiếng sau nàng đã xuất hiện để hát với một vẻ tươi mát và rạng rỡ. Khách đến nghe nàng hát chen chúc ngồi ở tầng dưới, ngợp đầy khói thuốc giữa những tấm vách bằng đá giả làm bằng giấy bồi cách khoảng đều với những hồ cá tối mò, họ im lặng lắng nghe và vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt sau mỗi màn trình diễn. May đáp ứng những tràng pháo tay bằng ánh mắt lấp lánh và nụ cười xinh tươi rồi lại tiếp tục hát. Nàng trình diễn liên tiếp năm tiết mục một cách hăng say, kéo lê theo chiếc váy xanh rêu, tung tăng uốn éo quanh cái sân khấu nhỏ nhắn, như một vận động viên thể dục thẩm mỹ rành nghề.
-  Sao May có được phong độ như vậy?
Anh hỏi Rubin khi anh ta đến chờ giữa lúc đang trình diễn và bị lấn về phía chiếc ghế anh đang ngồi sát tường đàng sau cái bàn nhỏ xíu.
-  Anh phải hiểu, trình diễn thì phải liên tục. Cô ấy là dân nhà nghề mà. Thính giả không trả tiền bia ít đi chỉ vì May bị cảm đâu.
May đi đến bàn họ với chiếc khăn choàng màu vàng quấn quanh cổ và chiếc áo nhung đen khoác trên vai. Rubin đứng lên, hôn lên má nàng.
-  Này cưng, chắc có lẽ cô phải bị bệnh thường xuyên hơn. Đêm nay cô trình diễn thật xuất sắc.
-  Em khỏe rồi…Anh có thấy là em khỏe hơn không, Willie?
-  Em thật tuyệt vời, May ạ.
-  Thôi đừng phỉnh em nữa, em biết anh đang nói dối em thôi! Marty, anh lại định lẩn đi đâu thế?
-  Tôi có vài người khách khác. Willie nhớ đưa May về nghỉ, sau buổi trình diễn 2 giờ sáng nhé!
Willie ngồi trên chiếc ghế nhỏ cứng ngắc suốt năm tiếng đồng hồ, thỉnh thoảng nói chuyện với nàng hoặc nghe nàng hát. Thính giả kẻ đến người đi, nhưng hâu hết những khách đi đều như chuyển lại khuôn mặt của họ cho người mới đến hay sao mà trông họ giống tương tự như nhau cả.
Không khí càng ngột ngạt, và đám đông càng ồn ào hơn, vài con cá lặn xuống tận đáy hồ hay nằm yên bất động, miệng há hốc, mắt tròn xoe trong lớp vẩy nhầy nhụa. tất cả cái sinh động đã rời khỏi khung cảnh hộp đêm chung quanh Willie. Phải kiếm kế sinh nhai giữa cái hoạt cảnh nhốn nháo này, thì thà suốt đời phải đi biển trên chiếc Caine còn hơn.
Anh phớt lờ không kể cho May nghe chuyện nổi loạn trên tàu, mặc dù anh đã rất thích thú khi kể những chuyện về hạm trưởng Queeg làm nàng phải bật cười và kinh ngạc. Dáng dấp trong sáng, linh động, cùng với nét trang điểm khiến nàng trông có vẻ tươi thắm, khỏe khoắn trong căn hầm ảm đạm này. Nhưng sắc thái của nàng chiều nay còn khiến anh hoảng sợ, và chưa cảm thấy được tự nhiên với nàng. Buổi tối trôi qua một cách gượng ép, nghiêm túc, và cả hai chỉ trò chuyện bâng quơ. May đành chấp nhận thái độ thay đổi của anh.
Khi về   lại căn phòng tồi tàn ở khách sạn thì đã 2 giờ 45 phút sáng. Willie cố dằn cơn ngáp, mắt anh cay xè. Không nói với nhau một lời, cả hai cùng cởi bỏ áo khoác, nằm lăn trên giường và hôn nhau say đắm, cuồng dại suốt mấy phút. Môi anh cảm thấy trán và tay của nàng hâm hấp nóng, nhưng anh vẫn tiếp tục hôn nàng. Cuối cùng, với động lực tự nhiên thúc đẩy, niềm đam mê dịu dần và ngưng hẳn lại. Nàng nhìn anh đắm đuối, mắt long lanh ngời sáng dưới ánh đèn ngủ mờ ảo.
-  Willie, chúng mình không còn là của nhau nữa phải không?
Không còn câu hỏi nào tệ hơn thế nữa. Willie không buồn trả lời, câu trả lời đã được thể hiện trên khuôn mặt khốn khổ của anh rồi.
-  Thế tại sao chúng ta lại làm như vậy? – May hỏi.
-  Em nói đúng. Anh thật đáng trách. Mình không nên như thế nữa!
-  Không, em vẫn còn muốn được hôn anh mà – và nàng lại hôn anh thắm thiết thêm nhiều lần. Nhưng những lời vừa thốt ra đã làm mất đi cái hương vị ngọt ngào đằm thắm của nụ hôn. Cả hai ngồi dậy. Willie đến bên chiếc ghế bành.
-  Phải chi em đừng bị cảm – May nói một cách sầu thảm.
-  May! Sự việc chiều nay không có gì khác biệt cả…Đó chỉ là bản chất con người của anh mà thôi.
-  Anh yêu, anh không biết sao. Dĩ nhiên là phải khác chứ! Ai mà thương yêu được một cô gái eo xèo như một con mèo bịnh hoạn thế này. Dù sao chuyện cũng đã qua rồi. Biết bao sự khó khăn chúng ta đã phải vượt qua. Những lá thư của anh gửi cho em thì thật là tệ bạc…
-  May à, anh phải nói thế nào đây? Em vẫn luôn là người con gái tuyệt vời duy nhất mà anh quen biết…
-  Thật là lạ, nhưng đó là sự thật. Đối với anh, em quả là người mà anh đã nghĩ như vậy. Phải chăng tại anh còn quá trẻ, lại rất quý trọng mẹ anh hay tại vì một lý do nào khác?
Nàng nhỏm dậy, mở dây kéo áo, đầu óc trống rỗng, bước đến tủ áo lấy áo choàng mặc vào, và cũng chẳng buồn che dấu thân thể mình.
Thoáng nhìn thân hình tươi trẻ của nàng trong lần áo lót mong manh ôm sát người, khiến anh xót xa. Ước vọng muốn được ôm nàng trong vòng tay như cần thiết một hơi thở, nhưng anh biết điều đó lúc này tuyệt đối không thể xảy ra được.
Thọc sâu hai tay vào túi áo choàng, nàng nhìn thẳng mặt Willie, ánh mắt thoáng đượm nét sầu thảm, nỗi run sợ sự bấp bênh và niềm đau đang mấp mé dâng lên khóe mắt bờ môi. May hỏi:
-  Điều đó chắc chắn rồi phải không anh?
-  Phải đấy, May ạ!
-  Anh không còn yêu em nữa sao?
-  May, tâm tư anh đang rối loạn, chẳng đâu ra đâu. Có nói cũng bằng thừa…
-  Có thể như thế, nhưng em muốn gom góp tất cả vấn đề một cách mạch lạc, rõ ràng trước khi vứt mọi chuyện vào trong quên lãng. Nếu không còn yêu em, điều đó cũng được đi. Nhưng sao anh lại hôn em một cách nồng nàn như thể anh vẫn còn yêu em lắm? Anh giải thích điều này cho em biết đi.
Willie đã không thể nói là anh yêu đôi môi nàng nhưng điều này vẫn không đủ để kéo nàng vào cuộc sống lứa đôi hạnh phúc suốt đời với anh được…dù rằng có thể chỉ cần biểu lộ bằng đôi lời đơn giản nhất.
-  May à, anh không biết thế nào là tình yêu thực sự. Đó chỉ là một từ ngữ đơn giản. em luôn là hình ảnh mà anh say mê nhất. Sự thật là vậy, nhưng đời sống không chỉ giản dị như vậy. Anh sợ là chúng mình sẽ không có hạnh phúc bên nhau. Không phải vì em có khuyết điểm. cứ coi anh như là một thằng đỏm dáng, ham mê danh lợi. Mọi việc sai trái, cứ cho là tại anh cả….
-  Có phải tại em nghèo hèn, ngu dốt, theo đạo Công giáo hay vì lý do n&y đổi tốc độ và hướng tiến lùi của hai máy, đồng thời ra lệnh liên tục đổi góc độ bánh lái. Anh vận chuyển chiếc Caine hướng đi chuyển từ phía nam vòng qua đến khi lại thấy mờ mờ xác tàu chìm. Anh tiếp tục vận chuyển đi một vòng, rất cẩn thận không cho chiếc Caine tới gần chiếc tàu đắm. Chiếc tàu bị nạn bây giờ đã bị chìm hẳn dưới mặt nước, thỉnh thoảng có một ngọn sóng ngầm đẩy lên mới nhìn thấy được cái lườn tàu màu đỏ. Các sĩ quan thì thầm to nhỏ với nhau, Queeg bây giờ hai tay ôm chặt cái la bàn, nhìn ra ngoài cửa sổ.
Mất 40 phút chiếc Caine mới đi được một vòng quanh cái tàu đắm, chống lại sóng gió giống như hồi sáng, cũng có lúc phải chịu mấy ngọn sóng lắc ngang kinh hồn. Willie lần nào như vậy cũng cảm thấy sợ hãi. Nhưng bây giờ thì anh biết phân biệt cái sợ hữu lý và cái khiếp đảm do bản năng. Một đàng thì có thể chịu đựng được, rất nhân tính và không có tính chất làm cho người ta bị tê liệt. đàng kia thì như một cuộc triệt hạ tinh thần. Anh không còn cái cảm giác bị khiếp sợ nữa, và cảm thấy như sẽ không còn bao giờ lo sợ nữa, cho dù tàu bị chìm, miễn là có Maryk bên cạnh.
Người hạm phó đứng ngoài hàng hiên của phòng lái, che mắt bằng cả hai tay để khỏi bị bọt nước đen ngòm bắn vào. Tàu lại trở lại lái hướng bắc như trước. anh bước vào phòng lái, kéo theo những dòng nước chảy xuống từ áo quần ướt đẫm của anh.
-  Bây giờ mình làm thêm một vòng nữa là thôi. Tôi nghĩ là tàu chìm mất rồi. Không còn nhìn thấy gì nữa. Mặt mười!
Willie lại mon men tới phòng hải đồ coi lại phong vũ biểu. Bây giờ phong vũ biểu chỉ 29,10. Anh bò lại về phía Maryk, hét vào lỗ tai người hạm phó. Maryk gật đầu. Willie chùi mặt bằng hai bàn tay mình, bị nóng ran vì bọt nước bắn vào.
-  Tại sao mà gió không bớt khi phong vũ biểu đã tăng rồi hả Steve?
-  Trời đất ơi, Willie, mình cách tâm bão có 30 hải lý. Chuyện gì cũng có thể xảy ra được hết mà! – Người hạm phó nhăn mặt, nhe răng ra trước gió – Mình vẫn rất có thể bị nguy hiểm mọi mặt. Tay lái về chính giữa!
-  Số không tay lái!
-  Mệt không, Stilwell?
-  Dạ không sao. Có phải vật lộn cả ngày với con quỷ này cũng được, nếu hạm phó muốn.
-  Tốt lắm!
Cửa phòng radar mở hé, điện thoại viên Grubnecker thò cổ ra nói lớn:
-  Thượng sĩ Bellison báo cáo thấy có cái gì giống như cái cái bè ở ngang tả mạn, hạm phó.
Maryk có Willie theo sau, thận trọng đi về phía trái của phòng lái, ra lệnh cho Stilwell cho tay lái bên mặt hai mươi độ.
Lúc đầu họ không thấy gì ngoài đỉnh và trũng của sóng, rồi khi tàu bị nâng lên ngọn sóng, họ nhìn thấy một vật đen trườn xuống theo nhịp sóng.
-  Tôi nghĩ có ba người trong chiếc bè đó – Willie nói.
Anh loạng choạng dọc theo tay vịn của thùng cờ hiệu để nhìn cho rõ hơn. Một cơn gió giựt thật mạnh đẩy Willie té xấp trên góc tấm bố che thùng cờ hiệu. Willie hốt hoảng vớ chặt lấy dây kéo cờ để khỏi bị liệng ra biển. Anh uống mấy ngụm nước mặn đọng trên nắp thùng cờ. Gió mạnh lột mạnh quần của anh, vỗ phần phật trên dây thành tàu rồi bay xuống biển. Anh cố sức đứng dậy, chẳng để ý gì đến áo xống.
Queeg đứng ngay cửa ra vào, ngay mặt với Maryk, nói:
-  Coi kìa Maryk, còn đợi gì nữa mà không hạ lưới kéo đồ bên hữu hạm và cho nhân viên vận chuyển sẵn sàng liệng phao an toàn xuống?
-  Cảm ơn hạm trưởng. Tôi cũng tính ra lệnh như vậy nếu hạm trưởng tránh đường cho tôi.
Queeg đứng qua một bên. Viên hạm phó bước vào phòng lái, và truyền lệnh qua hệ thống phóng thanh nội bộ. Anh từ từ vận chuyển chiếc tàu tròng trành tới cái bè. Chẳng bao lâu cái bè cao su màu xám rõ dần, với ba người ngồi trên và hai cái đầu lặn hụp gần đó.
-  Các anh chắc cũng muốn biết rằng tôi cũng đã sắp ra lệnh dằn tàu và đổi hướng 000 đi ngược gió khi mà Maryk vì hốt hoảng mà phạm tội phản nghịch. Tôi đã định sẵn trong bụng là nếu tàu chuẩn đội hình hạm đội không cho lệnh gì vào lúc 1000, tôi sẽ tự do vận chuyển…
-  Rồi, Stilwell, lái qua bên mặt một chút nữa. thêm tay lái bên mặt thật nhiều…. – Maryk nói
Queeg tiếp tục:
-  Và tôi không có lý do gì mà phải cho Maryk biết các quyết định của tôi làm gì. Anh ta coi tôi như là một người nhu nhược ngu ngốc. Và tôi sẽ khai như vậy trong tòa án quân sự, và sẽ có vô số nhân chứng…
-  Đừng có đâm vào họ, Stilwell. Tay lái số không.
Maryk ngừng máy và nói vào loa phóng thanh:
-  Thả phao xuống đi!
Những người sống sót được kéo lên tàu. Một thủy thủ mặt mũi xanh xao, mắt lồi, chỉ còn trơ trụi một cái quần xà lỏn trắng, dính nhiều vệt dầu, bên má bị rách một đường, đi theo thượng sĩ Bellison lên đài chỉ huy.
-  Đó là chiếc George Black, hạm phó. Người này là Morton, trung sĩ giám lộ. những người khác đã được đưa xuống phòng y tá.
Morton lắp bắp kể lại câu chuyện khủng khiếp. Chiếc George Black bị giạt vào sóng ngang. Xử dụng máy và bánh lái cũng không quay được. quạt gió, thùng đạn dược, cần trục, tất cả đều bị đánh bay khỏi boong tàu. nước ngập phòng máy, máy điện tắt, đèn tắt. Chiến hạm nổi được 10 phút, càng ngày càng nghiêng về bên phải, tất cả nhân viên hoặc kêu gào hoặc cầu nguyện. Cuối cùng bị lắc mạnh về bên phải và tiếp tục lăn và không bao giờ trở dậy được. anh ta chỉ còn nhớ được là bị lộn xuống nước đen ngòm rồi khi trồi lên, bị đập vào lườn tàu.
-  Mình sẽ tiếp tục đi vòng quanh một chút nữa – Maryk nói.  Anh nhìn ra biển với những bọt sóng làm thành những vệt dài xa xa. Bây giờ tầm nhìn được khá hơn, khoảng năm, bảy trăm mét – Tôi nghĩ bão đang hạ dần, Bellison, mang anh ta xuống dưới đi.
-  Maryk, tôi sẽ vận chuyển tàu. Chúng ta sẽ bỏ qua hết mọi chuyện cho đến khi bớt bão…
-  Không được, thưa hạm trưởng. Tôi đang vận chuyển tàu. Tôi xin mời hạm trưởng về phòng nghỉ. Lệnh ra không thống nhất sẽ gây nguy hiểm cho chiến hạm.
-  Anh muốn tôi xuống khỏi đài chỉ huy của tôi, phải vậy không?
-  Đúng vậy, thưa hạm trưởng.
Queeg nhìn quanh các sĩ quan. Mọi người đều có vẻ sợ sệt và không vui.
-  Tất cả các ông đều đồng ý như vậy phải không? Keefer, ông có đồng ý không?
Tiểu thuyết gia nhai môi mình lưỡng lự và nhìn qua Maryk.
-  Không có ai đồng ý hết, không có ai cần phải đồng ý… - Viên hạm phó nói nhanh – Xin mời hạm trưởng rời đài chỉ huy, hay ít nhất cũng đừng ra lệnh gì…
-  Tôi sẽ ở lại đài chỉ huy – Queeg nói – tôi vẫn chịu trách nhiệm về chiến hạm này. Việc nổi loạn không giải trừ trách nhiệm đó của tôi. Tôi sẽ không nói gì trừ phi hành động của anh gây nguy hiểm cho tàu của tôi! Trong trường hợp đó tôi sẽ phải nói ra dù các anh có dí súng vào đầu…
-  Không có ai dí súng vào đầu hạm trưởng cả. đề nghị của hạm trưởng như vậy cũng được.
Viên hạm phó ra dấu cho các sĩ quan:
-  Được rồi, bây giờ không cần các sĩ quan có mặt ở đây nữa. chúng ta sẽ có buổi họp khi thời tiết cho phép
-  
Các sĩ quan lẻ tẻ rút ra khỏi phòng lái. Keefer tiến lại trước mặt Willie, chào, và nói với một vẻ có phần mệt nhọc:
-  Thưa trung úy, tôi sẵn sàng nhận phiên!
Willie nhìn đồng hồ ngạc nhiên. Thời gian như ngưng đọng lại. Đã tới 12 giờ thiếu 15.
-  Vậy hả? – Anh nói. Và thủ tục đổi phiên tự động một cách máy móc tuôn ra khỏi miệng anh – tàu di chuyển với vận tốc thay đổi và hướng đi khác nhau để cứu các nạn nhân sống sót của tàu George Black. Các máy một, hai và ba hoạt độn tốt. Các thủy lôi đã khóa an toàn. Tình trạng báo động Abe trên toàn thể chiến hạm. lần sau chót tôi coi phong vũ biểu chỉ 29,10. Hướng đi của hạm đội là 180, nhưng chúng ta đã mất liên lạc với đội hình vì radar không hoạt động, và tôi không biết mình ở đâu. Có lẽ vào khoảng 150 hải lý về hướng đông của Ulithi. Anh có thể kiểm soát lại vị trí phỏng định lúc 0800. Có lẽ mình không di chuyển đi xa vị trí đó. Hạm trưởng đã bị giải quyền chỉ huy theo điều 184, hải quy và hiện đang có mặt trên đài chỉ huy. Hạm phó đảm nhiệm quyền chỉ huy chiến hạm và đang vận chuyển tàu. tôi nghĩ chỉ có vậy thôi!
-  Một phiên hải hành rất bình thường.
Keefer nói. Willie cười ranh mãnh. Keefer chào tay:
-  Được rồi, tôi nhận phiên – anh nắm tay Willie, bóp mạnh thân thiện, và nói nhỏ - giỏi lắm, đáng khen.
-  Cầu xin Chúa cứu giúp chúng ta – Willie thì thầm.

Truyện Cuộc nổi loạn trên tàu Caine Thay lời tựa Trích từ Hải Quy PHẦN MỘT – WILLIE KEITH - Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 PHẦN HAI- CHIẾC TÀU CAINE
Chương 6
Chương 7 ave; thăm viếng họ hàng. Khi bà Keith dục anh đi chơi một mình, anh quạu cọ từ chối. Một buổi chiều anh đến Columbia và đi bách bộ một mình qua Furnald Hall. Những cái chào tay không ngừng của các tân sĩ quan mặt còn búng ra sữa khiến anh khoái chí, nhưng rồi cũng chán. Nơi phòng đợi không có gì thay đổi. Này là chiếc ghế phô tơi bọc da mà anh đã ngôi kể chuyện cho cha nghe về bốn mươi tám điểm xấu của anh, kia là điện thoại mà anh đã đứng để nói chuyện với May hàng trăm lần…bên ngoài ki-ốt vẫn là đám sinh viên nóng lòng chờ đợi đến lượt mình, bên trong đang là một thanh niên tóc ngắn kiểu nhà binh cầm điện thoại đấu hót líu lo.
Thời gian như ngưng đọng. Willie bước ra khỏi tòa nhà, buổi chiều lộng gió và bầu trời xám xịt, chắc cũng còn phải vài tiếng nữa mẹ anh mới đến nhà hàng để ăn tối với anh và bác Lloyd, nên anh tìm đến một quán rượu vắng vẻ, tồi tàn và tăm tối trên đường Broadway, nốc liền tù tì bốn ly scotch và soda, nhưng cũng chỉ làm anh hơi choáng váng thôi.
Bác Lloyd đến ăn tối chung với gia đình anh ở nhà hàng Twenty One. Khi còn là dân sự, ông làm nhà băng, bây giờ là đại tá làm việc trong ngành thông tin và ông thường thích tán về kinh nghiệm xưa của ngành pháo binh trong thế chiến thứ nhất. Ông cho việc nổi loạn trên tàu Caine rất nghiêm trọng. Ông kể cho Willie nghe nhiều chuyện đại để chứng tỏ trong ngành pháo binh ông đã từng phục vụ dưới các vị chỉ huy trưởng còn tệ hại hơn hạm trưởng Queeg nhiều, nhưng ông vẫn kiên trì chịu đựng, phục vụ nghiêm chỉnh theo quân kỷ. rõ ràng là ông không tán thành chuyện của Willie và nghĩ là anh sẽ phải gặp nhiều phiền phức lớn. Bà Keith thúc giục ông hứa sẽ giúp con, nhưng ông Lloyd chỉ nói là ông sẽ nói chuyện với mấy người bạn hải quân xem phải làm sao.
-  Có thể họ sẽ không đưa cháu ra tòa án quân sự đâu, Willie – Ông nói tiếp – Nếu cái anh bạn Maryk gì đó được tha bổng, bác đoán là chuyện sẽ được kết thúc tại đây. Bác hy vọng cháu học được bài học lần này. Chiến tranh đâu phải dễ đối phó đâu. Trừ khi cháu có thể học hỏi để đối phó cái khó khăn bằng sự mềm dẻo, nếu không thì chẳng xứng đáng chút nào khi quốc gia hữu sự.
Sau câu chuyện, ông lên đường đi Washington, nơi mà ông đã giữ một căn phòng lớn tại khách sạn Shoreham.
Tối thứ bảy, Willie ở trong phòng mặc quần áo sửa soạn đi xem ca kịch. Mắt nhìn xuống đồng hồ đeo tay, mới nhớ là chỉ còn 12 tiếng nữa anh phải lên đường trở về đơn vị và đương đầu với tòa án quân sự. Anh vươn cánh tay cứng ngắc như cái cần của máy quay đĩa tự động, để nhắc điện thoại gọi cho khách sạn Woodley.
-  May hả? Em khỏe chứ? Willie đây…
-  Ồ anh đấy à, em tưởng là anh đã quên em rồi chứ.
-  Em có bớt bệnh chút nào không?
-  Hết rồi. Em đã hoàn toàn bình phục.
-  Sáng mai anh phải lên đường rồi. Anh muốn nói chuyện với em.
-  Willie, tối nay em phải làm việc.
-  Anh đến hộp đêm gặp em được chứ?
-  Vâng được.
-  Anh sẽ đến vào khoảng nửa đêm.
-  Vâng.
Từ trước đến nay chưa bao giờ vở nhạc kịch Don Giovanni của Mozart có thể làm Willie chán được. Nhạc kịch luôn luôn tuyệt diệu về âm thanh, làm tiếng như ngưng đọng và thế giới như tan biến trong vẻ đẹp tinh khiết. Nhưng đêm nay anh lại thấy Leporello như một tên hề   thô thiển, giọng hát thấp khàn trong cổ như của một người già, giọng hát của Zerlina thì chát chúa, không phải nhà nghề, và suốt buổi trình diễn anh thấy thật chán nản. Anh cố giương mắt nhìn đồng hồ, giữa lúc đang trình diễn đến đoạn ưng ý nhất của mình. Rồi vở nhạc kịch cũng đến lúc chấm dứt.
-  Thưa mẹ - anh nói với mẹ trong lúc đi từ phòng tiếp tân ra đến con đường bùn lầy – con muốn dạo phố một mình trong chốc lát, có làm mẹ phiền lòng không? Con sẽ gặp lại mẹ ở nhà.
Gương mặt bà biểu lộ niềm thông cảm lẫn băn khoăn:
-  Willie, có phải đêm nay là đêm cuối con ở nhà với mẹ không đấy?
-  Con sẽ không về trễ đâu mẹ.
Anh muốn đẩy bà vào trong taxi nếu bà còn lằng nhằng. Có lẽ vì cảm thấy như vậy, nên bà vẫy tay ra dấu gọi taxi cho mình.
-  Chúc con vui vẻ nhé!
May đang hát lúc anh đến hộp đêm Grotto đông nghẹt người. Anh đứng bên quầy rượu, nhìn quanh mấy gương mặt đàn ông đang ngưỡng mộ chăm chú nhìn nàng mà trong lòng cảm thấy thật cay đắng. Không còn chỗ để ngồi khi phần trình diễn chấm dứt. Nàng nắm lấy tay anh kéo về   phía phòng thay áo. Ánh đèn chói chang trong căn phòng nóng nực, giống như trong một cái tủ đựng quần áo khiến anh phải nheo mắt lại. Willie đứng dựa vào bàn trang điểm. May ngồi   trên ghế ngước mắt nhìn anh, rực rỡ với một vẻ lôi cuốn ngọt ngào bí ẩn bên trong, thật khác hẳn với bề ngoài của nàng trong chiếc áo đỏ để hở đôi bờ vai trắng trẻo và nửa phần trên của bộ ngực căng tròn dưới lần áo ôm sát người.
-  Lần trước gặp em, anh đã quên không kể cho em nghe một chuyện – Willie nói – Anh muốn biết em nghĩ thế nào.
Anh mô tả với nàng về cuộc nổi loạn trên chiếc Caine và cuộc điều tra với đầy đủ chi tiết như thể đang thú tội, tinh thần anh sảng khoái trong khi kể chuyện. May chăm chú lắng nghe.
-  Anh muốn em phải nói như thế nào, Willie? – nàng hỏi sau khi anh kể xong.
-  Anh không biết nữa, May. Em nghĩ như thế nào? Anh phải làm gì? Chuyện gì sẽ xảy ra?
Nàng thở dài thườn thượt:
-  Đó là lý do anh đến tìm em đêm nay đấy ư? Và để kể cho em chuyện này à?
-  Anh muốn em biết về chuyện này.
-  Willie, em không biết nhiều về hải quân. Nhưng theo em, anh chẳng phải làm gì cả. Hải quân là một binh chủng rất thông minh, sáng suốt. họ sẽ không buộc tội các anh, vì các anh chỉ muốn cứu tàu mà thôi. Cùng lắm là anh chỉ có lỗi vì đã xử sự trái phép một việc hợp lý. Đó không phải là tội ác gì cả.
-  May, nhưng đó là nổi loạn…
-  Thì đã sao nào! Anh nghĩ anh là ai đây? Fletcher Christian chăng? Anh có trói ông hạm trưởng Queeg lại và bỏ vào thuyền thả trôi ông ta không? Hay anh có rút dao hay rút súng đe dọa ông ta hay không? Em nghĩ ông ta loạn trí rồi. Dù bác sĩ có nói gì chăng nữa. Ông ta đúng là một tên điên. Willie à, sao anh lại có thể là kẻ phản loạn nổi? Ngay cả chuyện phản đối lại mẹ anh anh còn không làm nổi, thì nói chi đến chuyện chống đối lại vị hạm trưởng của một chiến hạm hải quân….
Cả hai cùng phì cười. Mặc dù luận cứ của May cũng giống như luận cứ của mẹ anh, nhưng đã đem lại cho anh niềm hy vọng và phấn khởi, còn những ý kiến của mẹ anh thì chỉ hàm chứa sự xúc động và ngây ngô.
-  Thôi được rồi May. Không biết tại sao anh lại đem cái khổ tâm của mình ra làm bận trí em. Cảm ơn em.
-  Khi nào anh lên đường?
-  Sáng mai, lúc 7 giờ.
May đứng dậy, cài then khóa cửa lại và lẩm bẩm “Mấy nhạc công ở đây ồn ào nhất thế giới”. Nàng tiến đến bên Willie, choàng tay quanh người anh, họ trao nhau nụ hôn dài đam mê, cuống nhiệt.
-  Thôi thế là hết – May nói và lùi ra, rời khỏi vòng tay anh – Anh hãy nhớ suốt đời nụ hôn cuối cùng này nhé! Đã đến lúc anh phải đi rồi. thấy anh còn quanh quẩn ở nơi này em khổ tâm lắm!
Nàng mở cửa. Willie bước ra ngoài, lách mình len lỏi giữa những vũ công đang chen chúc để thoát ra ngoài đường. Anh cũng không hiểu tại sao mình đã trở lại nơi này, anh tự trách mình bỗng nhiên lại nổi hứng và vụng về che dấu là cần có ý kiến của nàng. Anh không có cách nào hiểu được cái hứng bất tử rất thông thường của người chồng khi muốn bàn chuyện với vợ…
Sáng hôm sau máy bay cất cánh đúng giờ trong nắng mai. Từ phía phòng đợi ở phi trường, mẹ anh lấy can đảm vẫy tay từ giã con, cho đến khi máy bay lao vào không trung. Từ trên phi cơ, Willie nhìn chăm chú xuống những tòa cao ốc của Manhattan, cố tìm hình ảnh khách sạn Woodley, nhưng tất cả đã khuất xa dần, xen lẫn giữa những mái nhà ngổn ngang trong thành phố.
 
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: Tumbleweed
Nguồn: Tumbleweed - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 17 tháng 7 năm 2014

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--