Nhóm dịch thuật Song Ngư
Chương 36
Queeg đối đầu với Greenwald

     ên phía biện hộ cho những phóng ảnh của các báo cáo khả năng của Maryk sắp vào trong các tang chứng, và cho gọi Queeg. Viên cựu hạm trưởng chiếc Caine đứng lên, với dáng vẻ lịch sự và tự tin cũng như ở ngày đầu của phiên tòa. Viên hạm phó thêm một lần ngạc nhiên về sự thay đổi của Queeg do ánh nắng miền Cali, sự nghỉ ngơi, và cả bộ quân phục mới. Queeg giống như trong một bức ảnh quảng cáo to lớn tiêu biểu cho một hạm trưởng hải quân.
Greenwald không bỏ phí một giây phút nào cả, tấn công ngay:
-  Hạm trưởng, trong buổi sáng ngày 19 tháng 12, ông có nói chuyện với hải quân đại úy Maryk trong phòng của ông không?
-  À, để xem. Đó là cái ngày hôm sau trận bão. Có, tôi có nói chuyện.
-  Có phải là ông yêu cầu cuộc gặp gỡ đó không?
-  Đúng.
-  Về vấn đề gì vậy?
-  Thì cũng như tôi đã nói, là tôi rất tiếc cho anh ta…Tôi không thích anh ta phá hủy đời mình với một lỗi lầm vì hốt hoảng. Đặc biệt là tôi đã biết tham vọng của anh ta muốn thành sĩ quan hải quân chuyên nghiệp. Tôi đã cố hết sức mình để chỉ cho anh ta biết cái lỗi lầm anh ta mắc phải. Tôi đã khuyên bảo anh ta từ bỏ chỉ huy và trao quyền chỉ huy lại cho tôi, và tôi sẽ khoan hồng trong việc báo cáo nội vụ.
-  Anh ta đã trả lời thế nào?
-  Như ông đã biết, anh ta ngoan cố, không chịu nghe lời tôi nên mới phải ra tòa giờ đây.
-  Ông nói là, ông cảm thấy tiếc cho anh ta. Thế ông không có lo về những ảnh hưởng của chuyện này trên binh nghiệp của ông hay sao?
-  Thật ra thì tôi cũng đã biết kết luận của các bác sĩ là như vậy rồi. Thì tôi có gì để mà lo đâu?
-  Ông có đề nghị là sẽ không làm báo cáo gì cả, về vụ này?
-  Dĩ nhiên là không. Tôi có nói là giảm nhẹ tối đa cái tầm quan trọng của nội vụ trong bản báo cáo.
-  Mà ông sẽ giảm nhẹ nó trong chiều hướng nào?
-  Tôi nghĩ là có trường hợp giảm nhẹ được. Một tình thế gay go trong đó một sĩ quan trẻ tuổi có thể mất định hướng. Và có một sự cứu chữa, từ đó anh ta trở lại làm việc đàng hoàng bình thường dưới sự điều khiển của tôi. Tôi hành động như vậy cốt để cho anh ta biết cái lỗi lầm của anh ta, khi trả lại quyền chỉ huy cho tôi. Chỉ có như vậy, trong tình thế đó, mới có thể cứu vãn được.
-  Ông thật là không có lúc nào đề nghị rằng không thèm làm báo cáo?
-  Làm sao mà tôi tránh làm được như vậy? Cái biến cố này đã được ghi trong nhật ký hải hành.
-  Cái nhật ký ấy viết bằng bút chì, đánh máy, hay viết bằng cách nào?
-  Viết bằng cách nào thì cũng vậy. Có khác gì nhau đâu?
-  Hạm trưởng, nhật ký đó viết bằng bút chì phải không?
-  À, để tôi xem. Có thể viết bằng bút chì lắm…Nhật ký hải hành và nhật ký chiến hạm sơ khởi lúc nào cũng viết bằng bút chì. Tôi không tin rằng thủy thủ bí thư lại có thì giờ lấy mấy tài liệu đó ra gõ bằng máy trong cảnh hỗn loạn như vậy.
-  Ông có đề nghị là cho bôi bỏ mấy cái nhật ký bằng bút chì đó, rồi không thèm báo cáo gì hết?
-  Chắc chắn là không. Việc bôi bỏ các nhật ký ghi bằng bút chì là chuyện cấm đoán mà.
-  Hạm trưởng, đại úy Maryk đã khai dưới sự tuyên thệ rằng ông có đề nghị như vậy. Không phải chỉ vậy thôi, mà ông còn nài nỉ van xin đến độ khóc lóc với anh ta để được bôi bỏ những dòng chữ ghi bằng bút chì đó, đổi lại ông đã hứa với anh ta là ém nhẹm nội vụ, và sẽ không có làm báo cáo gì cả.
-  Không phải như vậy – Queeg nói chậm rãi và như đùa giỡn nhẹ nhàng.
-  Không có đúng gì cả hay sao?
-  Đó là bóp méo sự thật. Những điều tôi kể mới là đúng.
-  Ông đã chối là không có đề nghị bôi bỏ các nhật ký, và ém nhẹm mọi chuyện?
-  Tôi phủ nhận tất cả. Đó là chuyện anh ta dựng đứng lên. Và sự năn nỉ, và khóc lóc. Thật là hão huyền.
-  Vậy ông cáo buộc Maryk về tội vu khống à?
-  Tôi không thèm cáo buộc anh ta. Anh ta đang đứng ở hàng bị cáo là quá đủ rồi. Ông đã nghe nhiều về mọi chuyện lạ lùng của Maryk nói về tôi, vậy không còn gì nữa.
-  Rõ thật là một trong hai người không ai muốn nói sự thật trong vụ này.
-  Hình như là vậy đó.
-  Ông có thể chứng nhận không phải là ông?
-  Chỉ cần kể ra đây thành tích trên tám năm quân vụ của một sĩ quan hải quân, để đối lại với lời lẽ của một người ra trước tòa vì bạo loạn.
-  Vậy thì trên điểm này lời khai của anh ta đối kháng với lời khai của ông?
-  Điều không may là chẳng có ai khác ở trong phòng tôi lúc đó.
-  Hạm trưởng, ông có đề nghị phó đề đốc ở Ulithi để cho Maryk đem chiến hạm Caine trở lại vịnh Lingayen?
-  Để tôi nhớ rõ lại xem. Tôi biết là thế nào anh cũng mang chuyện này ra. Đúng, tôi có đề nghị như thế.
-  Mặc dù có sự kiện, theo ông kể, ông đã coi anh ta như là đã phạm vào một lỗi lầm về kinh hoảng trong một tình thế khẩn trương…một lỗi lầm tệ hại nhất.
-  À mà tôi không có đề nghị cho anh ta làm hạm trưởng. phó đề đốc cho tôi biết là hải quân cần rất nhiều trục lôi hạm. Ông ta bảo tôi hãy bỏ qua tất cả những đụng chạm cá nhân. Thì tôi đã làm như thế. Maryk rất tự hào – và đó là một chứng cớ hùng hồn – về những huấn luyện nhận được từ tay tôi. Và nếu vì chuyện đó mà anh ta được tha bổng và tôi lại mang một vết hằn trong đời hải nghiệp còn lại của mình, thì tôi cũng vẫn nói là tôi đã làm một điều đúng đắn.
-  Làm sao ông chắc rằng anh ta sẽ không bị hoảng sợ nữa, cũng như anh ta sẽ không phạm một lỗi lầm khác có thể làm hại tính mạng tất cả mọi người trên chiếc Caine?
-  Ờ, anh ta đã không phạm phải điều gì, phải vậy không? Vì tôi đã tính toán những rủi ro rất kỹ, và anh ta đã không có phạm.
-  Hạm trưởng, chiếc Caine đã bị trúng pháo của một thần phong, tuy vậy Maryk đã đem chiến hạm trở về an toàn. Điều này không làm cho ông ngạc nhiên hay sao, liên quan đến một người mà ông cho là đã phạm những lỗi lầm về kinh hoảng?
-  Theo tôi hiểu thì chiếc phi cơ cảm tử chỉ làm hư hại nhẹ, không trúng mục tiêu của nó. Vả lại, tôi biết đại khái là Keefer lúc ấy đã làm chủ tình thế. Keefer là một sĩ quan lỗi lạc nhất trên chiến hạm. Tôi tin tưởng nhiều nơi sĩ quan này, hơn là Maryk.
-  Hạm trưởng, có bao giờ ông nhận số tiền một trăm mười đô la từ tay của hải quân trung úy Keith?
-  Có thể tôi đã nhận. Mà tôi cũng không nhớ là bởi vụ gì.
-  Anh ta khai là ông có nhận.
-  Vậy à? Trong dịp nào?
-  Trong vụ mất một thùng cây cô ông ở bãi San Francisco. Anh ta chịu trách nhiệm và đã trả tiền vì cái thùng mất.
-  Tôi đã nhớ ra. Hơn một năm rồi. Tháng mười hai hay vào khoảng đó. Hắn chịu trách nhiệm về vụ mất, và nài nỉ xin đền bồi, và hắn đã trả tiền.
-  Có cái gì trong thùng đó, mà trị giá tới một trăm mười đô la?
-   Đồ vật cá nhân. Tôi không nhớ rõ nữa. Có thể là quân phục, sách vở, dụng cụ hải hành…những cái vặt vãnh thường bỏ trong thùng.
-  Ông nhớ rõ ràng con số một trăm mười đô la?
-  Cỡ chừng như vậy, tôi đâu có nhớ rõ là bao nhiêu?
-  Làm cách nào mà Keith lại phải chịu trách nhiệm về vụ mất đó?
-  Hắn là sĩ quan trưởng toán ca nô, và trách nhiệm về việc dỡ các thùng. Hắn đã ra những lệnh ngu xuẩn và trái ngược. Mấy người thủy thủ lính quýnh và cái thùng rớt xuống nước, chìm lỉm.
-  Một cái thùng bằng cây đầy quần áo mà chìm?
-  Có một vài thứ khác trong đó. Tôi đoán như vậy. Một vài san hô kỷ niệm.
-  Hạm trưởng, cái thùng này không phải là chứa đầy rượu mạnh sao?
Sau một hồi yên lặng ngắn ngủi, không lâu hơn một nhịp đập trái tim, Queeg nói:
-  Chắc chắn là không rồi.
-  Keith khai rằng ông đã đổ cho anh ta trách nhiệm ba mươi mốt chai rượu mạnh.
-  Ông sẽ nghe đầy những méo mó sự thật về tôi do Keith và Maryk. Họ là hai kẻ đáng tội ở đây, hai người đó có khả năng làm chứng vô tội vạ, khai những điều lạ lùng.
-  Ông tự mình làm lấy cái thùng đó hay sao?
-  Không. Do hạ sĩ phòng tai của tôi làm.
-  Tên của anh ta là gì?
-  Tôi không nhớ. Nó ở trong danh sách nhân viên chiến hạm. Đã đổi khỏi chiếc Caine từ lâu rồi.
-  Hạ sĩ phòng tai này bây giờ ở đâu, hạm trưởng biết không?
-  Không biết. Tôi gởi hắn lên đơn vị bờ hồi ở Funafuti theo lời yêu cầu của phó đề đốc cần một phòng tai. Lúc đó vào khoảng tháng năm.
-  Ông có nhớ tên anh ta không?
-  Không nhớ.
-  Có phải là hạ sĩ phòng tai Otis F. Langhorne không?
-  Lang, Langhorne, tên kêu có vẻ đúng.
-  Hạm trưởng, có hạ sĩ phòng tai Otis F. Langhorne ở trường kiểm soát tổn thất tại Treasure Island gần đây chứ không xa. Bên biện hộ chuẩn bị đòi anh ta ra làm nhân chứng nếu thấy cần thiết.
Queeg rõ ràng là hơi ngạc nhiên. Ông ta xụp đầu giữa hai đôi vai, đưa mắt nhìn qua Challee.
-  Ông chắc có đúng là tên đó không?
-  Bản tướng mạo quân vụ của anh ta có ghi phục vụ hai mươi mốt tháng trên chiếc Caine. Có chữ ký của ông trong đó. Vậy có anh ta ra làm nhân chứng cũng không đến nỗi vô ích, ông đồng ý chứ?
Challee nói:
-  Tôi phản đối những câu hỏi triền miên về cái thùng cây không ăn thua gì đến vụ án và yêu cầu loại bỏ cái thùng này ra khỏi biên bản.
Greenwald hỏi:
-  Sự khả tín của nhân chứng đang được thiết lập. Tôi đoan quyết với tòa án là không có gì liên quan mật thiết với vụ án hơn là chuyện này.
Phản đối của Challee bị bác bỏ và câu hỏi được lặp lại. Queeg nói:
-  À, mà phải biết Langhorne đã đóng đinh cái thùng nào. Vì tôi nhớ rõ, là có hai cái thùng, chứ không phải một cái.
-  Vậy sao? – Greenwald ngưng một hồi lâu – Lại thêm một chi tiết mới mẻ và Keith đã không có nói tới. Phòng tai Langhorne đã có đóng cả hai thùng hay không, hạm trưởng?
-  Trời đất! Tôi nhớ rõ là đã làm hai thùng một lượt hay hai lần khác nhau.
-  Lần thứ hai là lần nào?
-  Tôi không nhớ nữa. có thể là trong thời bình, trước chiến tranh, tôi chỉ nhớ có bao nhiêu đó.
-  Ông mất cả hai thùng trong vùng San Francisco?
-  Như đã nói, vì lu bu, tôi quên hết.
-  Hạm trưởng, có nhiều điểm trong vụ án này cần phải dựa vào sự khả tín của hạm trưởng đối đầu với sự khả tín của những sĩ quan khác. Nếu ông muốn tôi sẽ thỉnh cầu tòa án tạm ngưng năm phút để ông trở lại sáng suốt nhớ rõ mọi việc trong vụ hai cái thùng này.
-  Không cần phải như vậy. Cho tôi suy nghĩ một chút.
Trong cái yên lặng này người ta nghe tiếng lích kích nhỏ của cây bút chì Blakely đang lăn trên mặt bàn dưới bàn tay ông ta. Queeg ngước mắt nhìn lên trần:
-  Xong rồi. Tôi nhớ rõ bây giờ đây. Tôi đã nhớ lộn. Tôi đã mất một thùng ở cảng San Diego vào năm 38 hay 39 gì đó, cũng trong một trường hợp tương tự. Đó là một cái thùng đầy quần áo. Cái thùng mà Keith làm mất đựng rượu mạnh.
-  Ba mươi mốt chai?
-  Hình như là vậy.
-  Mà làm sao ông có được ba mươi mốt chai…
Challee nói:
-  Tôi xin quý tòa lưu ý rằng bộ hình luật tố tụng đòi hỏi những câu chất vấn phải ngắn gọn liên hệ tới những sự kiện thiết thực có liên quan đến vụ án. Thật là vô ích cho tôi cứ làm trì hoãn mãi miết phiên tòa với những lời phản bác. Tôi xin đặt vấn đề về cái chiến thuật toàn thể của bên biện hộ nhằm kéo dài những sự kiện không liên quan gì đến vụ án, mà làm cho nó rối thêm lên.
Blakely phán:
-  Tòa không phải là không rõ những đòi hỏi luật định của việc chất vấn, cảm ơn ủy viên công tố đã nhắc nhở, bên biện hộ có thể tiếp tục.
Greenwald hỏi tiếp:
-  Làm sao mà hạm trưởng có thể có ba mươi mốt chai rượu mạnh trong thời chiến này?
-  Tôi mua lại những phần của sĩ quan ở quân tiếp vụ Trân Châu Cảng.
-  Ông chở rượu mạnh này từ Trân Châu Cảng về Hoa Kỳ trên chiến hạm của ông à? Ông biết rõ luật lệ chứ…
Queeg ngắt lời:
-  Tôi biết luật lệ. Cái thùng được đóng kín trước khi chiến hạm khởi hành. Tôi đã cất nó như là rượu thuốc dùng trong bệnh xá chiến hạm. Ở Hoa Kỳ không có rượu nhưng tại Trân Châu Cảng thì có. Tôi vừa trải qua ba năm liền trong vùng chiến trận. Tôi đã tự cho mình cái ân huệ với tư cách là hạm trưởng chiếc Caine, với lại ai cũng làm như tôi cả. Tôi không có ý dấu diếm trước tòa, và tôi cũng không xấu hổ gì về việc này. Tôi chỉ có lẫn lộn hai cái thùng trong đầu tôi, chỉ có vậy.
-  Keith khai rằng chính ông đã điều khiển việc dỡ hàng, trực tiếp ra lệnh cho nhân viên vì thế làm rớt mất cái thùng.
-  Đó là lời khai man.
-  Anh ta cũng khai là ông từ chối ký giấy phép khi anh ta không chịu trả tiền cho ông.
-  Đó cũng là lời khai man.
-  Thêm một trường hợp về vấn đề khả tín như vậy nữa đó hạm trưởng…
-  Lần này lại cũng là những lời khai của ông đối chọi lại với những lời khai của Keith..Có phải vậy không?
-  Keith chẳng nói điều gì mà không dối trá. Anh ta ghét tôi một cách độc hại.
-  Hạm trưởng có biết tại sao không?
-  Tôi đâu có biết được. Hoặc giả là anh ta nghĩ rằng tôi đã đối xử bất công với thằng bồ của anh ta, tên thủy thủ Stilwell này. Hai người coi bộ khắng khít dữ lắm.
-  Hạm trưởng nói khắng khít?
-  Theo như tôi biết được, cứ mỗi lần tôi nhìn xéo qua tên Stilwell thì Keith lại la hét y như là tôi cướp vợ anh ta không bằng. Tôi không rõ bằng cách nào khác để mà cắt nghĩa hai người này hợp lực làm ăn ý với nhau nhanh chóng để ủng hộ Maryk khi hắn truất quyền tôi, hoặc là họ khoái với nhau bằng cách này hay cách khác.
-  Hạm trưởng, ông có cho rằng giữa trung úy Keith và thủy thủ Stilwell có những liên hệ bất thường?
-  Tôi không có cho là như vậy – Queeg vừa nói vừa cười mỉm chi – tôi chỉ kể lại những sự kiện mà tất cả ai biết họ đều biết rõ hơn cả tôi nữa.
Greenwald quay về phía Blakely:
-  Quý tòa có muốn cảnh cáo nhân chứng về sự trầm trọng liên quan đến lời nói quanh co bóng gió này của đương sự hay không?
-  Tôi không có quanh co bóng gió gì cả - Queeg nói giận dỗi – tôi không biết gì về liên hệ bất thường giữa hai người này, tôi cũng không nhận có nói bóng gió gì hết. Tôi chỉ có nói Keith luôn luôn bênh Stilwell và đó là chuyện dễ chứng minh nhất trên đời này, và tôi chỉ có nói như thế. Sao lời khai của tôi lại bị bóp méo như vậy!
Blakely, bộ mặt nhăn nhó, hỏi Greenwald:
-  Luật sư có còn muốn khai thác đề tài này không?
-  Thưa quý tòa không.
-  Tốt lắm. Có thể tiếp tục.
-  Hạm trưởng Queeg, trong thời gian chiếc Caine kéo bia tác xạ ở Trân Châu Cảng, có khi nào ông chạy lên trên cái dây kéo bia và cắt đứt nó không?
-  Phản đối!
Challee đứng bật lên một lần nữa. Blakely khó chịu nhìn ông ta một cách giận dữ và ra lệnh tòa ngưng họp, đồng thời chỉ thị cho hai luật sư ở lại trong phòng.
Da mặt của Challee tái ngắt:
-  Xin quý tòa thông cảm cho. Tôi phải phản đối. Chuyện cái dây kéo bia này là giọt nước làm tràn cái ly đã đầy. Chiến thuật của bên biện hộ là một công xúc tu sĩ đối với thủ tục hình sự. Ông ta đã tự động biến vụ án này thành một tòa án quân sự mặt trận xử hạm trưởng Queeg. Ông ta không đưa ra một tang chứng cụ thể nào liên quan đến vụ án. Ông ta chỉ cố tình bôi lọ và vu khống thiếu tá Queeg chứ không có gì   khác.
Greenwald nói:
-  Thưa quý tòa, ủy viên công tố đã cho mọi người hiểu rõ rằng tội trạng đã thật rõ ràng không thể chối cãi được dựa trên báo cáo của ba bác sĩ tâm thần. Có thể là ông ta muốn phía bên biện hộ đổi chiến thuật và chịu nhận tội. Nhưng tôi vẫn cho rằng chỉ có quý tòa, chứ không phải mấy người chuyên viên y khoa ở trên bờ, dù rằng họ là những chuyên viên xuất sắc, mới có thể xét đoán được rằng hạm trưởng của chiếc Caine có đầy đủ sức mạnh tinh thần, chế ngự được bản thân và làm chủ được tình thế trong cơn bão hay không. Đây là một luận cứ dẫn dắt trực tiếp tới vấn đề ngoại trừ phải duyệt xét lại cái cung cách của nhân chứng trong tất cả những diễn biến quan trọng xảy ra trước trận bão.
Blakely phán:
-  Luật sư của bị cáo hãy ra khỏi phòng trong giây lát.
Ủy viên công tố nói:
-  Tôi phải trân trọng xin quý tòa lưu ý rằng theo quan điểm của tôi, nếu sự phản đối của tôi bị bác, và thẩm quyền cao cấp chối bỏ quy tắc đối chất của phiên tòa thì đó sẽ là một lỗi lầm tai hại, nó tiêu hủy toàn bộ thủ tục tranh tụng, và cái hậu quả khó lường của sự nhầm lẫn tư pháp.
Blakely phán:
-  Tốt lắm. quý vị hãy lui ra.
Mười lăm phút chờ đợi trôi qua. Blakely và các thẩm phán trông có vẻ ảm đạm khi hai bên trở lại phòng xử.
-  Phản đối bị bác bỏ. nhân chứng sẽ trả lời các câu hỏi.
Challee như bị choáng váng, từ từ ngồi xuống. tốc ký viên đọc lại câu hỏi về cái dây dòng bia trong cuốn sổ ghi chép.
Queeg trả lời ngay:
-  À, đây lại là một chuyện vu khống đặc biệt. Tôi thấy một vài loạt đạn pháo phòng không nổ gần sát bên hữu hạm. Tôi đã hơi lo vì nghĩ rằng chiến hạm của mình  có thể đang ở trong tầm đạn của một đơn vị nào đó. Chúng tôi đang ở trong vùng tác xạ. tôi phải để ý theo dõi các viên đạn pháo. Cũng là tên thủy thủ Stilwell này đây, một kẻ rất mơ mộng không tin tưởng gì được, đang ở tay lái. Anh đã không cho tôi biết là chiến hạm đang quay 360 độ. Rồi tôi cũng biết chuyện gì đã xảy ra, lập tức lấy lại tay lái ngay, và tôi tránh chạy lên trên cái dây dòng. Thế nhưng cái dây đó đã đứt trong khi tàu đang quay. Có rất nhiều chuyện láo lếu phao ra từ miệng của Stilwell và Keith, đổ cho rằng tôi đã làm cắt đứt cái dây dòng bia. Tôi đã quy trách tai nạn này vào cái dây ở tình trạng hư hỏng trong bản báo cáo viết gửi cho bộ chỉ huy kỹ thuật Thái Bình Dương. Và người ta biết những lời phao vu lếu láo. Và người ta cũng đã biết sự thật chuyện gì đã xảy ra. Bản báo cáo của tôi đã được chấp nhận. Được lưu trữ. Kết luận, tôi nghĩ rằng, cho dù có thể những chuyện lếu láo có lý đi nữa, thì cũng nên tin tưởng vào sự phán xét của bộ chỉ huy kỹ thuật hơn là các lời đồn đại này.
Greenwald gục gặc đầu.
-  Hạm trưởng bị lo ra vì những đạn pháo phòng không, như đã nói. có cái gì khác hơn đã làm ông lo ra nữa không?
-  Đâu có cái gì khác.
-  Trong lúc chiến hạm đang quay 360 độ, có phải hạm trưởng đã quở mắng thủy thủ giám lộ tên là Urban vì có vạt áo bỏ ra ngoài quần, có đúng không?
-  Ai đã nói như thế?..Keith nữa đấy à?
-  Xin hạm trưởng trả lời câu hỏi.
-  Lẽ tất nhiên lại một láo khoét tinh ma.
-  Urban lúc đó có ở trên đài chỉ huy không?
-  Có.
-  Áo của anh ta có bỏ ngoài quần không?
-  Có, tôi có rầy anh ta. Chỉ mất có hai giây đồng hồ. Tôi không có thói quen dây dưa với những cái lặt vặt như vậy. Tôi bị lo ra về những quả pháo phòng không, chỉ có vậy thôi.
-  Hạm trưởng có cho sĩ quan đương phiên hoặc hạm phó biết về những quả pháo phòng không này chứ?
-  Có thể có. Tôi không nhớ nữa. Tôi đâu có thì giờ mà than khóc với sĩ quan đương phiên mỗi khi có bất cứ chuyện gì xảy ra. Tôi không nói chuyện với anh ta nữa mà. Và kể từ khi chuyện cái vạt áo này lại đem ra phơi bày nơi đây…đó là cái méo mó đặc thù của Keith, từ đầu đến cuối…tôi nhân đây mà khai rằng trung úy Keith với tư cách là sĩ quan tâm lý chiến có trọng trách kiểm soát chặt chẽ quân phục, đã không làm tròn bổn phận của mình. Khi tôi mới đáo nhậm chiến hạm này, nó không khác nào một chiếc tam bản của hải quân Ba Tàu. Và tôi phải luôn luôn thúc đẩy Keith phải chuyên lo kiểm soát quân phong quân kỷ và anh ta đã không dám thi hành đúng đắn. Tóm lại đó là một lý do khác mà anh ta rất ghét tôi và phao ra cái tin rằng rằng đã cắt đứt dây dòng bia.
-  Hạm trưởng, trung úy Keith không có khai về điều này. Ông có thể nêu tên một sĩ quan nào khác mà anh ta khai đã có thấy những loạt đạn phòng không?
-  Có thể là tất cả bọn họ đều thấy, mà cũng có thể là chẳng ai thấy. đã mười lăm tháng trôi qua, và chúng tôi đã tham gia một cuộc chiến, có nhiều điều lo nghĩ trong đầu hơn là những trái phá phòng không ngoài khơi Trân Châu Cảng.
-  Hạm trưởng có thả khói màu vàng trước cửa đảo Jacob buổi sáng đầu tiên trong cuộc hành quân tiến chiếm Kwajalein hay không?
-  Có thể tôi đã thả. Mà tôi không nhớ nữa.
-  Trong lệnh hành quân có đề cập đến thả khói màu không?
-  Tôi không nhớ. Sau đó tôi có tham dự nhiều cuộc đổ bộ khác.
-  Hạm trưởng có nhớ ra công tác đầu tiên trong cuộc tiến chiếm này là gì không?
-  Tôi nhớ. Là hướng dẫn một toán xuồng đổ bộ đi tới điểm xuất phát về phía đảo Jacob.
-  Hạm trưởng có hoàn thành công tác này không?
-  Có chứ.
-  Vậy hạm trưởng thả khói màu ra để làm gì?
-  Tôi không có chắc rằng tôi đã có thả một khói màu.
-  Hạm trưởng, những tiêu lệnh hành quân cho chiếc Caine được lưu giữ, và không có nói về việc thả khói màu. Tòa đã nhiều lần nghe khai là hạm trưởng đã có thả khói màu. Hạm trưởng có phản bác lời khai này hay không?
-  Có thể là tôi đã thả khói màu để đánh dấu rõ ràng cái tuyến xuất phát, nếu tôi có làm chuyện đó, nhưng tất cả những thứ ấy lộn xộn trong đầu tôi.
-  Cái tuyến xuất phát cách bờ biển bao nhiêu?
-  Vào khoảng một ngàn thước, nếu tôi không lầm.
-  Hạm trưởng có ở gần mấy chiếc xuồng đổ bộ, để dẫn họ đi vô đó không?
-  Dĩ nhiên là gần, vì tôi không muốn làm chìm mấy chiếc xuồng vì sóng do chiến hạm tạo ra nên tôi đi trước một chút.
-  Đi trước bao xa?
-  Chuyện đã xảy ra cả năm nay rồi…
-  Năm chục thước? Hai chục ngàn thước?
-  Tôi không nhớ rõ. Nhưng lối chừng vài trăm thước.
-  Hạm trưởng, có phải ông đi cả một hải lý trước mấy xuồng đổ bộ, thả khói màu, và quay tàu trở về hết tốc lực, bỏ lại sau lưng ông những chiếc xuồng này khiến họ phải tự lần mò đi tới đường xuất phát với phương tiện cơ hữu yếu kém của họ không?
Challee nhảy bật lên:
-  Câu hỏi này trái phép, và rõ ràng thâm hiểm.
-  Tôi sẵn sàng rút lại câu hỏi – Greenwald nói với vẻ mệt mỏi – bởi vì hạm trưởng hình như chẳng nhớ gì cả, tôi trở lại với những biến cố gần đây hơn.
Blakeky phán:
-  Tòa cần hỏi nhân chứng.
Greenwald trở về bàn của mình, nhìn ngay mặt vị chánh thẩm.
Blakely tiếp tục:
-  Hạm trưởng Queeg, liên quan tới cuộc chất vấn này, tôi yêu cầu ông ráng tìm lại trí nhớ để trả lời các câu hỏi một cách đầy đủ chính xác.
-  Thưa đại tá chánh thẩm, tôi đang thật sự cố gắng làm điều đó, mà như tôi đã nói có lắm chi tiết vụn vặt và tôi đã trải qua nhiều cuộc hành quân từ lúc ở đảo Kwajalein, và trận bão, rồi tới bây giờ lại đủ mọi chuyện…
-  Tòa ghi nhận thiện chí của nhân chứng. Nếu cần, tòa sẽ đình họp nhiều ngày để thu thập những lời khai của sĩ quan và binh sĩ của toán xung kích đổ bộ. Dữ kiện này sẽ giúp việc thi hành công lý dễ dàng nếu nhân chứng có khả năng nhớ lại đầy đủ để cung cấp vài câu trả lời chính xác liên hệ tới các sự kiện. Việc trước nhất, ông còn nhớ trong lệnh hành quân có chỉ thị việc sử dụng khói màu hay không?
-  Tôi nhớ rõ là không có chỉ thị. Chuyện này có thể kiểm chứng lại với hồ sơ lưu trữ. Nhưng tôi tin có thể xác định rằng trong lệnh hành quân không có chỉ thị đó.
-  Tốt lắm. Vậy nhân chứng giải thích lần nữa tại sao lại thả khỏi màu?
-  Tôi ước định là để làm dấu rõ ràng tuyến xuất phát.
-  Lúc ông quay tàu trở về thì các xuồng đổ bộ này đã tới tuyến xuất phát rồi phải không?
-  Theo như tôi tính thì họ đã tới gần sát đó. Tất cả vụ này chỉ là chuyện phương vị độ tiếp giáp với khoảng cách radar, nhưng tôi đã đem họ tới gần sát tuyến xuất phát mà tôi có thể làm được.
-  Hạm trưởng, trong trường hợp này một khi mà họ đã ở trên tuyến xuất phát thì thả khói màu để làm gì?
Queeg hơi ngần ngừ:
-  Phải nói rằng đó chỉ là một yếu tố an toàn phụ thuộc. Chỉ là thêm một cái dấu. Có thể là tôi đã sai lầm vì quá cẩn thận và muốn chắc chắn rằng toán xung kích đổ bộ biết họ đang ở đâu, thế nhưng tôi vẫn nghĩ rằng chẳng ai lầm lỗi khi tăng cường thêm sự an toàn cả.
-  Trong thời gian từ lúc hẹn cho tới khi thả khói màu khoảng cách xa nhất giữa chiến hạm và mấy chiếc xuồng là bao nhiêu?
-  Khó mà biết được cái khoảng cách là là trên mặt nước, nhất là đối với mấy chiếc xuồng nhỏ xíu này.
-  Hạm trưởng có giữ khoảng cách tối thiểu – khoảng cách hai bên chiến hạm và xuồng đổ bộ có thể nói và nghe với nhau được – hay không? – Blakely tỏ ra thiếu kiên nhẫn.
-  Nói và nghe? Không có. Chúng tôi liên lạc với nhau bằng cách ra dấu tay. Nếu họ ở gần chiến hạm thì mấy chiếc xuồng có lẽ chìm hết.
Blakely chỉ viên sĩ quan tóc hung ngồi sau chót bên trái phòng xử:
-  Trung úy Murphy đã cho tòa biết rằng anh ta đã ba lần làm sĩ quan hướng dẫn xuồng đổ bộ. Đương sự nói rằng thói thường chiến hạm và xuồng ở trong khoảng cách tối thiếu, từ một trăm đến một trăm năm chục thước là cùng.
Queeg ngồi lún xuống trên chiếc ghế của mình, nheo mắt nhìn viên sĩ quan thủy quân lục chiến:
-  Có thể lắm. Ngày đó có gió và phía mũi chiến hạm tỉa sóng bắn lên rất nhiều. Chuyện rất là giản dị là dùng cờ hiệu để liên lạc thay vì phải hét hụt hơi trên cái loa phóng thanh.
-  Hạm trưởng điều khiển vận chuyển à?
Queeg ngừng một chút.
-  Tôi nhớ là đã giao cho đại úy Maryk làm vận chuyển, và tôi cũng nhớ là tôi có cảnh báo anh ta là đừng để khoảng cách quá xa giữa chiến hạm và những chiếc xuồng.
-  Khoảng cách bao nhiêu?
-  Tôi không thể nói được, nhưng mà có một lúc nào đó khoảng cách hai bên rất xa, và tôi đã gọi anh ta qua một góc, cảnh báo anh ta chớ bỏ xa các chiếc xuồng.
-  Tại sao lại giao cho hạm phó chỉ huy vận chuyển?
-  Vì anh ta là sĩ quan hải hành với lại để cho có sự chính xác mau chóng chẳng lẽ phải lặp đi lặp lại hoài những lệnh về vận chuyển hay sao? Và tất cả đều đổ lên đầu tôi bây giờ đây. Tôi nhớ lại rằng tôi đã thả khói màu bởi vì Maryk đã để cái khoảng cách quá xa với lại tôi muốn chắc là các chiếc xuống biết rõ tuyến xuất phát ở đâu.
-  Hạm trưởng có ra lệnh cho anh ta chạy chậm lại khi ông thấy khoảng cách quá xa không?
-  Chuyện xảy ra rất mau. Tôi có thể đang nhìn bờ biển có vài giây, và khi tôi quay lại thì chiến hạm đã chạy xa rồi. Bởi vậy tôi mới thả khói màu, để bù lại việc Maryk đã chạy bỏ xa mấy chiếc xuồng.
-  Đây là do trí nhớ rõ ràng của ông mới trở lại, phải không hạm trưởng?
Gương mặt của Blakely nghiêm nghị.
-  Tất cả chuyện đó là sự thật, đại tá chánh thẩm.
Blakely day qua nói với Greenwald:
-  Bên biện hộ có thể tiếp tục chất vấn.
Nghiêng người trên bàn, luật nói ngay:
-  Hạm trưởng Queeg, ông có thói quen thường làm cái việc này hay không, là mỗi lần có hành quân đổ bộ, ông hay ở trên đài chỉ huy và đứng về phía khuất với bờ?
Queeg giận dữ trả lời:
-  Đây là một câu hỏi đầy sỉ nhục và câu trả lời là không. Tôi phải có mặt đủ mọi chỗ cùng một lúc trên đài chỉ huy, không ngớt chạy từ bên này qua bên kia bởi vì Maryk là sĩ quan hải hành với Keith là sĩ quan trưởng phiên trong nhiệm sở tác chiến, và cả hai người này cứ luôn chạy qua phía bên khuất của đài chỉ huy nên tôi phải đảm đương luôn nhiệm vụ sĩ quan hải hành và sĩ quan đương phiên, đó là lý do tại sao tôi phải di chuyển không ngừng từ bên này qua bên kia đài chỉ huy. Và đó là sự thật, cho dù có những lời dối trá về tôi ở trước tòa này.
Greenwald, há hốc miệng, mặt không hồn, không ngừng để ý các thẩm phán đang day trở trên ghế ngồi.
Ngay khi Queeg vừa hạ cơn nóng giận, Greenwald tiếp tục:
-  Hạm trưởng, ông có nhớ biến cố trong cuộc đổ bộ đảo Saipan khi chiến hạm Stanfield bị trúng đạn của hỏa lực trong bờ?
-  Tôi chắc hẳn là nhớ.
Viên cựu hạm trưởng đưa cặp mắt soi mói nhìn Greenwald, thở hổn hển. Queeg nói tiếp:
-  Tôi không hiểu lời dối trá nào đã đem khai với quý tòa liên quan đến cái chuyện nhỏ nhoi này, nhưng tôi rất hân hạnh làm sáng tỏ luôn vấn đề. Cũng cái anh Keith này đây, đã làm rùm beng trên đài chỉ huy bằng cách la hét, chạy tới chạy lui làm một màn trình diễn ngoạn mục cốt để cho tôi khai hỏa lên phía bờ trong lúc chiếc Stanfield đang ở giữa tầm súng của chiến hạm Caine và bờ, thì tôi bắn thế nào được. Và rồi tôi trở về vị trí tuần dương, cũng bởi vì đó là nhiệm sở của tôi, là đi tuần chứ không phải ngăn chặn hỏa lực từ phía trên bờ, chiếc phi cơ bị bắn chìm không để lại một dấu vết, riêng chiến hạm Stanfield có khả năng tự mình lo liệu lấy, như họ đã làm.
-  Đường kính vận chuyển của chiếc Caine là bao nhiêu, hạm trưởng?
-  Cỡ một ngàn thước, nhưng mà…
-  Hạm trưởng, khi tàu quay cỡ một ngàn thước, chiếc Stanfield chưa có ra khỏi đường đạn để hạm trưởng pháo vào bờ mà không bị vướng chiếc Stanfield sao?
-  Tất cả những gì tôi biết được là chiếc Stanfield trong lúc đó đang chạy song song với tôi thôi, tôi không bao giờ có thể nhắm bắn vào bờ được cả.
Blakely phán:
-  Tòa muốn hỏi cung nhân chứng.
Challee đứng dậy:
-  Thưa ngài chánh thẩm, nhân chứng rõ ràng bị giao động bởi cuộc thử thách này, và tôi thỉnh cầu tòa ngưng họp cho đương sự nghỉ ngơi đôi chút để lấy lại sức…
Queeg kêu lên:
-  Tôi không bị giao động gì cả, và tôi rất hân hạnh trả lời tất cả các câu hỏi sẽ được đặt ra, và thực tế là tôi yêu cầu có một cơ may để bác bỏ mọi vu khống người ta đổ lên đầu tôi từ những lời khai làm chứng từ trước cho tới bây giờ. Tôi không có một lỗi lầm gì trong suốt mười lăm tháng trên chiếc Caine, tôi có thể chứng thực điều này và hồ sơ cá nhân của tôi không một tì vết cho tới bây giờ, và tôi cũng không muốn nó bị nhơ uế vì một lô những lời gian dối và méo mó sự thật do các sĩ quan bất trung….
Blakely đặt câu hỏi:
-  Hạm trưởng, ông có muốn nghỉ đôi chút không?
-  Hẳn là không, thưa đại tá chánh thẩm. Nếu chỉ vì tôi mà tòa ngưng họp thì không nên. Tôi xin không nghỉ giải lao nếu tôi được phép quyết định.
-  Vậy thì tốt lắm. Chiếc Stanfield có bị trúng đạn không?
-  Nó không bị trúng đạn.
-  Nó có ở trong tầm đạn của địch không?
-  Có. Nó ở trong tầm đạn của địch.
-  Vậy mà hạm trưởng không làm cách nào để yểm trợ hải pháo cho nó. Hạm trưởng có tìm cách yểm trợ hay không?
-  Như tôi vừa nói. Nó ở trong hướng đại bác của tôi về phía bờ, và tôi đã ước định rằng trong tình thế đó bổn phận của tôi là quay trở về nhiệm sở chống tàu ngầm, chứ không phải chạy vòng vòng cho thiên hạ để ý với việc núp bắn lên bãi biển, và việc này là do quyết định chỉ huy của tôi, và tôi vẫn giữ cái lập trường đó, nó phù hợp với tất cả các học thuyết đương thời về hải chiến, thưa đại tá chánh thẩm.  Đó là vấn đề của công tác. Công tác của tôi là đi tuần.
-  Hạm trưởng, ông cho rằng phản pháo lại hỏa lực đối phương, nó nhắm trực tiếp vào ông hay là vào một đơn vị bạn gần đó, không phải là một sứ mệnh ưu tiên hơn các công tác khác sao?
-  Tôi đồng ý, với điều kiện là đường tác xạ của tôi không bị vướng. Tuy nhiên, lúc đó chiếc Stanfield đang ở trên đường tác xạ của tôi.
Blakely, đôi lông mày nhíu lại, nhìn quanh qua những vị thẩm phán khác, rồi gục gặc đầu với Greenwald. Vị luật sư nói:
-  Hạm trưởng, buổi sáng ngày 18 tháng chạp, lúc ông bị thay thế, chiếc Caine có ở trong tình trạng khẩn trương cùng cực không?
-  Chắc chắn là không!
-  Chiến hạm có bị một hiểm nguy trầm trọng nào không?
-  Tuyệt đối không. Tôi đã làm chủ hoàn toàn chiến hạm.
-  Ông đã có sống với mấy sĩ quan khác là ông có ý định đi về hướng bắc, như Maryk đã làm, lúc mười giờ… nghĩa là khoảng mười lăm phút sau khi thay thế ông?
Queeg thò tay vào trong túi áo lấy ra hai viên bi bằng kim khí sáng ngời.
-  Đúng, tôi có nói như vậy và đó cũng là ý định của tôi.
-  Tại sao hạm trưởng lại đổi hướng, không đi theo con đường của hạm đội, nếu bảo rằng không có một hiểm nguy nào cả?
-  
Sau một hồi yên lặng kéo dài, Queeg trả lời:
-  À, mà tôi không thấy có một sự thiếu mạch lạc gì ở đây. Tôi đã lặp lại nhiều lần trong lời khai rằng vai trò của tôi trước hết là sự an toàn của chiến hạm. Tôi vừa nói là chiến hạm đã không ở trong tình thế hiểm nguy nhưng bào tố vẫn luôn là bão tố và tôi vừa sắp sửa tính rằng chúng tôi nên ra khỏi chỗ này và hướng về biển thì tốt. Có thể là tôi đã cho thi hành quyết định của tôi vào lúc mười giờ, mà cũng có thể không. Lúc đó tôi đang duyệt xét lại tất cả yếu tố trong đầu, thế nhưng, như tôi đã nói, tôi vẫn điều khiển được chiến hạm, và ngay cả khi Maryk đã truất quyền chỉ huy của tôi – tôi vẫn luôn chú tâm tới việc làm sao cho chiến hạm ở trong tình trạng điều khiển được. Tôi không bao giờ rời bỏ nhiệm sở cả.
-  Trong trường hợp này, quyết định của Maryk đi về hướng bắc không phải là một lỗi lầm kinh hoảng, hay quyết định phi lý phải không?
-  Cái lỗi lầm về kinh hoảng này là là sự thay thế tôi. Tôi đã ngăn cản để sau đó anh ta không phạm thêm những lỗi lầm nguy hại hơn. Tôi không có ý định tự bào chữa cho mình trên sinh mạng của tới mọi người trên chiếc Caine.
-  Hạm trưởng, ông có đọc sổ bệnh của Maryk giữ hay không?
-  Thưa đại tá, có, tôi có đọc cái tài liệu thú vị này. Đó là một kết hợp khổng lồ giữa dối trá và bóp méo sự thật chưa từng thấy, và tôi xiết bao hân hạnh được đại tá hỏi tôi bởi vì tôi muốn tất cả những cái đó được ghi vào biên bản.
-  Hãy cho biết quan điểm của ông, hay là những sự kiện ông muốn trình bày về những câu chuyện ghi trong cuốn sổ.
-  À. Tôi phải bắt đầu bằng chuyện mấy quả dâu. Sự thật là tôi bị phản phúc, lôi cuốn lừa phỉnh bởi viên hạm phó của tôi và anh chàng Keith quý phái này, đã hủ hóa tất cả sĩ quan, làm cho tôi trở thành đơn thân độc mã một mình đối chọi với lại tất cả mọi người trên chiến hạm, không được một sĩ quan nào hỗ trợ…Cái chuyện những quả dâu…nếu cái biến cố này không phải là âm mưu toàn diện để bảo vệ một kẻ bất lương trước công lý…Maryk cũng đã cẩn thận tiết lộ một sự kiện nhỏ là tôi đã chứng minh một cách hùng hồn phương cách tiêu trừ để biết ai là người có cái chìa khóa phòng lạnh. Anh ta nói rằng mấy người tiếp viên ẩm thực đã ăn những quả dâu nhưng nếu phải bỏ công ra thì tôi có thể chứng minh trước tòa một cách toán học rằng không phải những người này. Cũng không khác gì cái chuyện nước, khi mà thủy thủ đoàn tắm bảy lần một ngày, và những máy thoát hơi nước làm việc có phân nửa trong mùa nóng nực, tôi đã cố gắng cho họ nhớ cái nguyên tắc bảo tồn nước, nhưng không, ông Maryk, người anh hùng của thủy thủ đoàn lại muốn âu yếm chìu chuộng họ và ….ngài lại muốn đề cập đến chuyện cà phê…không có đâu, chuyện những quả dâu trước nhất…tất cả đáng lẽ phải được giải quyết bởi một khám xét kỹ càng cho phép tìm ra được cái chìa khóa, nhưng rồi lần nào cũng vậy, Maryk với sự giúp của Keith đã phá hoại tất cả. Hai người này chỉ có múa may quay cuồng để rồi không chứng thực được điều gì và như tưởng rằng để cái máy lượt cà phê chạy cả ngày cả đêm, tài sản quốc gia, là một sự vui đùa thú vị, và đó là điều mọi người đều nghĩ như thế, từ Maryk đến người thủy thủ chót bét, không có một ý thức trách nhiệm gì cả, mặc dù tôi đã không ngớt nhấn mạnh rằng cuộc chiến không còn kéo dài mãi mãi, và cũng phải có một lúc nào đó thanh lý tất cả ân oán cuộc đời. Đó là một cuộc tranh đấu không ngừng, lúc nào cũng chỉ vì một mục đích, Maryk và Keith phá hoại uy quyền của tôi, luôn luôn bằng tranh cãi, trong khi cá nhân tôi rất yêu mến Keith, có công nhiều đào tạo cho anh ta để bị đâm sau lưng khi…Tôi thiết nghĩ rằng tôi đã giải quyết xong chuyện những quả dâu và …ờ, chuyện tòa quân sự xử Stilwell. Một chuyện không khá được, rất là đặc thù riêng biệt…
Hạm trưởng Queeg quay sang chỉ trích tòa quân sự xử vụ Stilwell, ông ta nói, là một âm mưu của Keith và Maryk để làm hạ uy tín của ông ta. Ông ta đề cập đến sự sơ sót chểnh mảng của ban giặt ủi trên chiến hạm, sự bê bối trong ban quân tiếp vụ với những sai lầm trong việc kiểm kê, ông ta nói từ chuyện này qua chuyện khác với cái kiểu như vậy, liệt kê ra một loạt những bất bình trách móc đối với sĩ quan của mình, nhất là Maryk và Keith. Ông ta mệt mỏi nghỉ một chút xíu để lấy hơi. Ông ta coi bộ không ngừng nổi mà nói liên hồi. Ông ta càng kể lể người ta lại càng khó hiểu, những ngày tháng, nơi chốn lẫn lộn, không ai phân biệt được gì cả. Ông ta nói không ngừng, vừa nói vừa lăn hai viên bi trong bàn tay, gương mặt ông ta rạng rỡ thỏa mãn mỗi khi thực hiện được một bào chữa cho mình. Greenwald trở về bàn và đứng dựa vào đó, lắng nghe một cách trịnh trọng.  Mấy vị thẩm phán nhìn chòng chọc vào nhân chứng mà ngơ ngẩn ra. Challee cúi đầu xuống, cắn móng tay. Những câu nói của nhân chứng càng dài lê thê và càng quanh co khó hiểu. chánh thẩm Blakely bắt đầu liếc nhìn đồng hồ.
Queeg tiếp tục nói như vậy thêm cỡ chín mười phút nữa, rồi mới kết luận:
-  Lẽ dĩ nhiên là tôi chỉ nói đại khái vậy thôi, theo như những gì mà tôi còn nhớ được, mà nếu tôi có quên điều gì thì quý vị chỉ cần đặt ra câu hỏi chính xác và tôi sẽ ráng trả lời từng điểm một, nhưng tôi tin rằng đã giải thích những điều chính yếu.
Greenwald đáp lại:
-  Cảm ơn hạm trưởng đã trả lời rất chi tiết và đầy đủ.
Nói xong Greenwald lôi ra từ trong một tập hồ sơ trên bàn hai phóng ảnh bằng giấy bóng loáng:
-  Hạm trưởng, đây là những sao y bản chánh của hai báo cáo của hạm trưởng phê đại úy Maryk. Hạm trưởng có nhận biết hai tài liệu này không?
Queeg cầm lấy hai tờ giấy, liếc mắt nhìn qua nhanh rồi nói với giọng thiểu não:
-  Có, tôi nhận biết.
-  Xin hạm trưởng đọc cho tòa nghe những lời phê của hạm trưởng về Maryk vào tháng giêng năm 1944.
-  Tôi đã nói rồi. Lúc đầu thì anh ta rất hăng hái năng động, nhưng sau đó thì từ từ mất cả nhuệ khí…
-  Chúng tôi đã ghi nhận lời khai của hạm trưởng. Xin hạm trưởng cứ đọc lời phê.
Queeg với giọng nghẹn ngào, đọc lời phê khen tặng hết lời về khả năng của Maryk.
-  Cảm ơn hạm trưởng. Đó là vào hồi tháng giệng. Bây giờ là tháng bảy, sáu tháng sau đó, chiếc Caine đã có trải qua hai cuộc hành quân đổ bộ Kwajalein và Saipan hay không?
-  Có.
-  Những biến cố tôi kể sau đây: cúp nước, điều tra vụ cà phê, tòa quân sự cho Stilwell, bãi bỏ việc chiếu phim trong số nhiều chuyện khác nữa, đã có xảy ra chưa?
Queeg hơi do dự:
-  Tôi nghĩ là có rồi.
-  Xin hạm trưởng đọc lời phê về đại úy Maryk vào đầu tháng bảy.
Queeg nhìn tờ phóng ảnh một hồi lâu, nghiêng người về phía trước, lưng cong lại, bắt đầu đọc lầm rầm:
-  “Từ sau bản báo cáo vừa qua, khả năng của viên sĩ quan này lại càng tiến triển. Anh một mực trung thành, làm việc không biết mệt, có lương tâm chức nghiệp, can đảm và hiệu quả. Hiện tại anh có đầy đủ khả năng để chỉ huy một khu trục lôi hạm cỡ 1200 tấn. Lòng nhiệt thành trong nghề nghiệp và sự mẫu mực đã làm cho anh thành một gương sáng cho tất cả các sĩ quan khác, hiện dịch cũng như trừ bị. Tôi không có khen ngợi quá lố vị sĩ quan này để trình bày lên thượng cấp. Tôi cho ý kiến rất thuận lợi trên đơn xin vào ngạch hiện dịch của đương sự”.
-  Cảm ơn hạm trưởng. không có câu hỏi gì khác nữa.
Greenwald trở về chỗ ngồi. Nhân chứng nhìn qua vị ủy viên công tố tỏ ý khẩn cầu, kêu cứu. Challee từ từ đứng dậy, mệt mỏi như một ông cụ bị phong thấp. Ông ta tiến tới gần nhân chứng như muốn nói điều gì, rồi ông quay lại phía chánh thẩm Blakely:
-  Không có phần chất vấn gì cả.
Blakely phán:
-  Hạm trưởng có thể rời nơi đây.
Queeg ra khỏi phòng xử y hệt như Maryk đã thấy ông ta đi ngang đài chỉ huy cả ngàn lần: hai vai nhô lên, đầu hạ xuống vừa đi vừa kéo lê đôi chân và lăn hai viên bi trong bàn tay.
Greenwald nói:
-  Bên biện hộ đã chấm dứt phần  trình bày.
Blakely phán:
-  Tòa đinh xử cho tới một giờ.