Nhóm dịch thuật Song Ngư
PHẦN HAI- CHIẾC TÀU CAINE
Chương 6
Lá thư của bác sĩ Keith

    
hi thiếu úy Keith đi theo sau người hầu vô tới phòng của anh tại khách sạn Mark Hopkins ở San Francisco, cảnh đẹp lộng lẫy của thành phố trong buổi chiều tà làm anh sửng sốt. những ngọn đồi lấp lánh muôn ngàn ánh sáng tỏa ra dưới những cụm mây muôn sắc ùn ùn tràn ngập cả bầu trời, màu hồng tươi ở phía Tây, trở thành vàng úa và tím sẫm bên phía đông. Sao hôm sáng tỏ trên trời đêm lơ lửng phía trên Golden Gate. Qua hướng Đông, những trụ đèn thắp sáng lên dọc theo các vòng bán nguyệt màu xám của cây cầu Oakland làm thành một tràng hạt bằng giọt màu hổ phách. Người hầu bật đèn, mở các ngăn kệ và bỏ đi ra, để một mình Willie với các hành lý và cái buổi chiều tắt nắng. vị thiếu úy tân khoa đứng một hồi lâu bên cửa sổ, đưa tay vuốt ve cái lon vàng óng ánh của mình, ngạc nhiên tìm thấy sự huy hoàng tráng lệ và cái đẹp đẽ mỹ miều ở một nơi xa tít thành phố New York.
Anh lẩm bẩm trong miệng vừa ngước nhìn lên ngôi sao Hôm:
-  Cũng trễ rồi, phải lấy hành lý ra chứ.
Và anh mở cái vali bằng da beo của mình. phần lớn những đồ đạc anh mang theo đều ở trong cái thùng gửi ở phòng gửi đồ của khách sạn. trong cái vali này anh chỉ có lèo tèo vài bộ áo quần để thay đổi. trên một lớp những chiếc áo sơ mi trắng có hai vật kỷ niệm của những giờ phút chót trước khi anh rời New York: một đĩa hát và một lá thư.
Willie xoay xoay cái đĩa trong ngón tay của minh, mà lấy làm tiếc là đã không đem theo cái máy hát cầm tay. Thật là một khung cảnh tuyệt vời của những ngày qua, lồng trong tiếng hát êm đềm của May với những dòng nhạc của Mozart. Nàng đã thu thanh đĩa nhạc này cho anh tại một quán ở Broadway trong một đêm cả hai người đều nhẹ nhàng ngất ngây trong mùi rượu champagne. Willie mỉm cười khi liên tưởng tới những đêm huyền diệu với May suốt trong mười ngày phép tháng tư vừa qua. Anh định nhấc điện thoại, rồi thôi, vì sực nhớ ra rằng giờ này đã gần nửa đêm ở Bronx, và tất cả tiệm bánh đều đã đóng cửa, đèn đuốc tắt ngấm. hơn thế, anh ghi nhớ rằng anh phải bỏ May vì anh không thể cưới nàng, mà cũng bởi vì nàng quá hiền lành để phải chịu cảnh huống mập mờ bất định. Anh đã dự tính là cùng sống bên nhau những giờ phút chót thật là đê mê ngây ngất, rồi bỏ đi mà không viết thư cũng như trả lời thư, và cái liên hệ giữa hai người sẽ từ từ buông xuôi chết ngấm trong êm dịu. may thì không được biết cái dự định này. Anh đã thực hiện phần đầu, bây giờ anh tự nhủ nhất định không thể quên phần thứ hai.
Anh để lại cái đĩa một bên và lấy ra lá thư kỳ bí của ông bố. khỏi cần soi lá thư trước ánh sáng, bì thư dày cộm kín mít hoàn toàn. Anh thử lắc nó, đưa lên mũi đánh hơi, và cứ tự hỏi cả trăm lần không biết nó chứa cái gì trong đó. Anh nhớ lại câu hỏi của ông cụ, trước ngày anh đi:
-  Chừng nào con mới tới chiếc Caine?
-  Con biết biết nữa, ba à…có lẽ chừng ba hay bốn tuần.
-  Không lâu hơn sao?
-  Giỏi lắm cho tới sáu tuần lễ là cùng. Họ nói là sẽ cho con đáo nhậm sớm.
Sau câu trả lời đó, ông già khập khiễng lết tới cái bàn lấy ra từ trong một tập hồ sơ bằng da một phong bì dán kín:
-  Khi nào con đi tới chiếc Caine, ngay ngày mà con xuống tàu, chỉ ngày đó thôi, không phải ngày trước hay ngày hôm sau, thì con hãy mở bức thư này.
-  Có cái gì trong đó vậy ba?
-  Nếu ba muốn con biết rõ ngay từ bây giờ, thì ba đã không chịu cực, chịu tay bị vọp bẻ để viết thư này.
-  Ba để tiền trong đó hay sao? Con đâu có cần tiền.
-  Không, không phải tiền bạc đâu con.
-  Vậy là như lệnh mật không được coi trước hả ba?
-  Cũng gần giống như vậy đó. Con hãy làm những gì ba dặn con.
-  Chắc chắn rồi, ba à.
-  Vậy thì tốt. hãy để nó qua một bên và đừng nghĩ gì đến nó nữa. cũng chẳng cần nói với mẹ con làm gì.
Năm ngàn cây số cách xa người cha mình và nơi anh đã hứa điều này, Willie dợm liếc mắt nhìn nhanh qua cái phần dấu kín trong phong bì, chỉ ngay ở trang đầu thôi, không muốn gì hơn nữa. anh dở cái miếng giấy khép của bì thư, chỗ này đã khô hẳn bị bóc ra dễ dàng mà không rách xước. lá thư được mở ra. Thế nhưng cái phần danh dự sót lại vẫn còn đó, không suy suyển. willie thè lưỡi liếm qua cái chỗ hồ khô dán bì thư lại, rồi vùi sâu vào đáy cái vali của mình. anh biết làm như vậy cốt để ráng giảm bớt cám dỗ được chừng nào hay chừng nấy.
Anh nghĩ thầm “Phải viết cho May một lá thư…chi một lá thư mà thôi. Nàng hẳn đang chờ thư của mình”. một khi đã xuống tàu rồi thì sự im lặng của anh sẽ được thông cảm, nếu không viết bây giờ thì thật là ác độc, anh không muốn tỏ ra ác độc với May. Anh tới ngồi trước bàn và viết một bức thư dài chứa chan niềm âu yếm. may phải được trời phú cho cái thị giác thứ hai để biết đó là bức thư giã biệt. anh đang viết hàng chữ cuối cùng thì tiếng điện thoại vang lên, đầu dây bên kia là Keefer:
-  Willie? Mày đó hả, có khỏe không? tao đã nhận điện tín của mày. Tao điện thoại kiếm mày cả ngày nay. Mà mày đã ở đâu?
-  Máy bay bị kẹt ở Chicago.
-  À này, qua đây liền đi, không nên phí thời giờ uổng. tụi này đang tổ chức một dạ hội bỏ túi…
-  Mày đang ở đâu? Fairmond phải không?
-  Tao đang ở câu lạc bộ sĩ quan…Powell Street. Ráng xoay sở lẹ lên. Có một nàng tóc hung độc chiếc, mày tới đây không uổng công đâu.
-  Keggs đang ở đâu?
-  Nó đi mất đất rồi, Willie, đi biển rồi. tất cả mọi người phải chờ ít nhất ba tuần ở Frisco để tìm phương tiện, trừ chú mặt ngựa đó, thật xui cho nó.
-  Tại sao vậy?
-  Cái thằng bạn cơ khổ của bọn mình vừa mới xuống xe lửa, tới trình diện sở chuyển vận đưa sự vụ lệnh ra để được phê chuẩn. rồi có tiếng điện thoại reo, đầu dây bên kia là ông già hạm trưởng của một trong những chiếc quan tài nổi này sắp khởi hành đi Trân Châu cảng, ổng nói rằng tàu mình còn chỗ cho ba sĩ quan. ấy thế là họ đẩy Keggs đi một cái rột. nó cũng chẳng cỏ đủ thì giờ để thay đôi vớ ở Frisco nữa. nó đi hôm thứ ba. không đem theo được cái gì cả, thứ gì cũng thiếu. cái thành phố này thiệt quá sức ngon lành. Này rượu, này gái đẹp đã đời đến độ không có sức mà vui chơi nữa. mày trèo lên xe đạp, nhanh lên….
-  Tao tới liền, Rollo.
Anh cảm thấy hơi đạo đức giả, rồi hoàn tất bức thư cho May. Nhưng anh cũng tự bào chữa là trước khi đi biển, mình cũng có quyền vui chơi thỏa thích nếu được.
Willie tự cho mình là một anh hùng không được đối xử xứng đáng, anh vẫn còn cảm thấy như bị nhục mạ khi bị thuyên chuyển xuống chiếc Caine. Như anh chàng đây, một kẻ đã vượt qua được cái trở ngại của bốn mươi tám điểm xấu và đã vươn lên trong năm phần trăm đầu đàn của trường, thế mà lại bị gửi đi rà mìn trên một chiếc xáng cũ kỹ quá từ thời đệ nhất thế chiến. thật là nhục nhã…mà bị nhục tới hai lần, nhưng lại có thứ hạng ra trường sau anh ta hơn hai trăm người, cũng được chuyển xuống chiến hạm tương tự. hải quân rõ ràng là đã sử dụng hai người này mà không hề đếm xỉa gì đến tài năng công lao tương ứng của mỗi người, chỉ có việc rất giản dị là thuyên chuyển hết người này đến người kia, như những con heo bị xua vào lò thịt. đây là quan điểm của Willie, ít nhất là như vậy.
Anh bị lôi cuốn trong những chầu nhậu nhẹt say sưa, và những buổi  dạ hội từ biệt kéo dài suốt ba tuần lễ. anh đi theo Keefer từ câu lạc bộ này đến câu lạc bộ khác bên cạnh các cô gái. Anh cũng sắp sửa nổi tiếng với cái tài đàn dương cầm của mình. các sĩ quan và các nàng say mê hát bài If You Knew What the Gnu Knew mà anh phải hát đi hát lại nhiều lần trong một dạ tiệc. anh thực hành một tiểu xảo mà anh đã sáng chết ra ở những năm trong đại học, là đặt ra những câu hát có vần với nhau và dùng tên của người này người nọ ráp vô. Như là câu hát sau đây:
“Minh Trị run lên nghe Keefer
Để yên tâm trí, hút riphơ..”
Willie có khả năng đi từ tên này qua tên khác của những người trong phòng, không mấy khó khăn. Anh ứng khẩu hát lên những đoạn ca trên một điệp khúc nhạc Jazz. Việc này làm khán giả say mê thán phục, nhất là về phía phụ nữ, các bà các cô cho rằng tài năng của anh không khác chi trò phù thủy. keefer và anh rong chơi trên những ngọn đồi sừng sững của Frisco trong những tiếng nổ rền trời của chiếc Ford mướn, họ dùng cơm tối nhiều lần trong các quán ăn Tàu, ăn bào ngư và cua, và ngủ rất ít. Họ được mời tới những khu nhà sang trọng và những câu lạc bộ rất đặc biệt. cuộc chiến tranh này thật vĩ đại.
Keefer làm quen được với một sĩ quan Chuyển vận. hai người bạn do đó được quyền quá giang trên một Bệnh viện hạm về miền Tây.
Keefer hớn hở loan báo tin vui, hãnh diện:
-  Các cô y tá, dâu tươi….là những gì đang chờ đợi tụi mình đó nghe, Willie.
Họ xuống chiếc tàu Mercy trong một sáng sớm, sau một buổi dạ hội tiễn đưa tưng bừng, và tiếp tục cuộc sống vui đẹp trong suốt thời gian hải trình cho tới Hạ Uy Di. Mỗi buổi tối, các nàng y tá bu quanh Willie ngồi đàn dương cầm ở phòng khách. Những cuộc gặp gỡ giữa những người khác phái được quy định rất rõ rệt trên tàu Mercy này, nhưng Keefer đã hiểu biết nhanh chóng những ngõ ngách của chiếc tàu và sắp xếp để có thể hưởng thụ những vui thú một cách thoải mái bất cứ giờ giấc nào. willie và chàng ta không có nhìn thấy gì nhiều trên biển Thái Bình Dương. Họ rời tàu ở Honolulu, mỗi người có một cô y tá đợt sóng mới xoắn xuýt bên cạnh. Đại úy John và Đại úy Carter, họ trao đổi với nhau một nụ hôn ngắn ngủi dưới cái bảng hiệu đèn điện hình trái thơm thật lớn của tiệm Dole, và hẹn nhau ăn tối. hai chàng thiếu úy xách hành lý để lên chiếc taxi của một người Hạ Uy Di có cái mũi vịt, tươi cười, mặc một chiếc áo sơ mi hoa hòe đủ màu.
-  Anh làm ơn chở tụi tôi tới căn cứ Hải quân Trân Châu Cảng.
-  Dạ vâng, thưa quý ông.
Keefer xuống ở khu sĩ quan độc thân, một dãy nhà bằng cây sơn trắng. willie đi tới gặp sĩ quan phụ trách nhân viên trong một khu nhà bằng xi măng của căn cứ Hải quân Hạ Uy Di và nghe nói chiếc Caine đang sửa chữa ở ụ C4. Anh đem hành lý lên chiếc xe taxi kcđitz khu ụ nề của Hải quân công xưởng. cái ụ C4 chỉ còn một lớp nước nhầy nhụa mà chẳng có chiến hạm nào trong đó. Anh đi lang thang trong công xưởng giữa những toán thợ sửa chữa, hỏi người này người nọ từ các người thợ đến các thủy thủ, sĩ quan. Chẳng ai nghe nói đến chiến hạm Caine cả. chỗ nào cũng vậy, các bến tàu đậu hay ụ nề, có đầy các chiến hạm, tuần dương hạm, hàng không mẫu hạm, khu trục hạm, cả chục chiến hạm khổng lồ đủ loại màu xám đầy những thợ thuyền và thủy thủ. tuyệt nhiên không thấy chiếc Caine đâu cả. willie bắt buộc trở lại tìm gặp vị sĩ quan phụ trách nhân viên. Người đại úy mập ú trả lời:
-  Biết chừng đâu, họ còn đổi tới đổi lui cái chương trình các chiến hạm neo ngoài bãi…
Ông ta bèn lục ra một đống công điện còn nằm trong một cái hộp trên bàn:
-  Ý trời! xin lỗi nhá. Nó đã đi mất rồi. chiến hạm vừa nhổ neo sáng nay.
-  Mà nó đi đâu?
-  Rất tiếc. bí mật quân sự, tôi đâu có nói ra được.
-  Rồi bây giờ tôi phải làm gì đây?
-  Tôi cũng không biết nữa. đáng lẽ anh phải xuống được tàu này.
-  Tàu chở tôi mới tới đây chừng một tiếng đồng hồ.
-  Đâu phải lỗi tôi đâu nào.
-  Xin ông nghe đây, tôi chỉ muốn biết là làm thế nào có phương tiện từ đây đi tới gặp chiếc Caine.
-  Muốn như vậy phải qua hỏi bên chuyển vận. tôi chỉ phụ trách về nhân viên. Anh phải đi tới sở chuyển vận mới xong.
Viên đại úy đứng lên, bỏ một đồng tiền xu vào cái máy bán coca cola, lấy ra một chai lạnh ngắt và đưa lên miệng uống ngon lành. Willie đợi cho ông ta quay trở lại bàn, đặt câu hỏi:
-  Ai phụ trách ban chuyển vận và họ ở đâu?
-  Trời đất, làm sao tôi biết được?
Willie ra khỏi văn phòng. Bị chói nắng, anh nhận ra một tấm bảng ở cái cửa kế bên “Chuyển vận”. Willie lầm rầm trong miệng “Hắn quả thực chẳng có một chút hiếu kỳ gì cả”. và anh bước vô cái phòng đó. Một bà sồn sồn trạc bốn mươi ngồitrc một cái bàn. Thấy Willie, bà ta nói ngay:
-  Rất tiếc, chả còn chiếc xì cút tơ nào cả.
-  Tôi chỉ muốn đi tới chiếc Caine.
-  Chiếc Caine? Mà nó đi đâu?
-  Tôi không biết nữa.
-  Quỷ thần ơi! Rồi làm sao anh đi tới nó được?
Bà ta lấy từ trong cái hộc một chai coca cola mở nắp bằng lỗ khóa ở cánh cửa và bắt đầu uống. Willie nói tiếp:
-  Chả có ai muốn nói cho tôi biết là chiếc đó đi tới bờ bến nào. chiến hạm mới nhổ neo sáng nay.
-  Ủa? vậy thì ra nó không còn trong hải quân công xưởng hả?
-  đâu có. Nó đi ra ngoài biển rồi.
-  Vậy mà làm sao anh đi tới nó bằng xì cút tơ cho được?
-  Tôi có muốn xì cút tơ gì đâu! Bà có nghe tôi đòi xì cút tơ hồi nào?
-  Ồ, nếu vậy anh tới đây làm cái quái gì, hả? đây là nhóm xì cút tơ.
-  Có chữ “chuyển vận” đề rõ ràng ngoài cửa.
-  Ừa, mà xì cút tơ không phải là một phương tiện chuyển vận hay sao chớ?
-  Thôi được rồi. tôi là người mới tới đây, chẳng biết gì cả. bà làm ơn cho tôi biết làm sao tôi có thể đi tới chiến hạm của tôi?
Bà ta suy nghĩ giây lát, hai hàm răng cắn nhẹ vào chai nước ngọt.
-  À, tôi nghĩ ra rồi, anh phải đi tới phòng chuyển vận Hạm đội. Ở đây chỉ là ban chuyển vận của hải quân công  xưởng mà thôi.
-  Cảm ơn bà nhiều. phòng chuyển vận hạm đội ở đâu bà biết không?
-  Trời đất, làm sao tôi biết được? anh thử hỏi ban nhân viên ở cửa bên cạnh coi.
Willie đành bỏ cả một ngày trời. nếu hải quân không có gấp rút để đưa anh xuống chiếc Caine, thì chính anh cũng đâu cần hăng hái cho lắm. anh trở lại khu sĩ quan độc thân, mệt đừ người vì phải vác một vali và hai cái túi từ taxi này qua taxi khác.
-  Mày về đúng lúc, bồ tèo à.
Keefer tươm tất trong  bộ áo quần kaki mới ủi. willie thì vẫn còn nhễ nhại với bộ quân phục xanh. Keefer cho biết:
-  Biến cố quan trọng. Đô đốc mở một dạ hội đãi các nàng y tá. Jones và Carter được phép dẫn bọn mình tới đó.
-  Đô đốc nào?
-  Ai mà biết được? họ lúc nhúc ở đây như những con rận trên lưng chó. mày đã tìm thấy tàu của mày chưa?
-  Nó đã nhổ neo hôi sáng nay. Chả ai nói cho tao biết là nó đi đàng nào.
-  Vậy là nhất rồi, số một. như vầy là mày hưởng được một sự trễ tràng đẹp đẽ. tắm một phát đi đã.
Buổi dạ tiệc của vị Đô đốc tổ chức trong tư dinh tráng lệ của ông trong căn cứ, bắt đầu trong sự yên lặng. phần đông khách được mời là những người lầndti trong đời đứng gần một vị Đô đốc, họ cẩn thận giữ gìn tác phong. Đô đốc, người cao lớn và đầu hói có đôi mắt sâu hoắm khác thường, tiếp đón từng người với một vẻ uy nghi hớn hở, trong phòng khách trải thảm dưới đất và đầy ắp những hoa. Khi mọi người vừa uống hết vài chai rượu, không khí bắt đầu sôi động. theo lời yêu cầu của Keefer, Willie rụt rè tới ngồi trước cây dương cầm, và bắt đầu đánh đàn. Ngay từ những nốt đầu tiên, gương mặt của Đô đốc trở nên rạng rỡ, ông ta tiến đến gần cái ghế của chiếc dương cầm. ông đánh nhịp bằng  cách đưa lên đưa xuống cái tay cầm ly rượu. ông day qua nói với một đại tá đứng bên cạnh:
-  Anh chàng này quả là có tài. Mấy đám trừ bị đem đến nhiều sinh khí hào hứng.
-  Đúng như vậy, Đô đốc.
Cuộc nói chuyện trao đổi lọt vào tai Keefer, anh chàng bắt ngay:
-  Mà này, Willie, chơi bản “Gru Knew” đi.
Willie lắc đầu nhưng Đô đốc nói:
-  Sao hả? cái gì vậy? đàn cái bản đó đi.
Bài ca làm nổi đình đám, vui vẻ. đô đốc để cái ly xuống để vỗ tay, và ai nấy cũng đều vỗ tay theo. Ông ta cười nhẹ thỏa mãn.
-  Anh đúng là một tàng long hổ phục. anh tên gì, thiếu úy?
-   Dạ Keith, Đô đốc.
-  Keith, họ hay đấy chứ. không phải họ Keith ở Indiana à?
-  Dạ không, Đô đốc. Ở Long Island.
-  Cũng là một cái họ đẹp. À này, thêm chút âm nhạc đi. mà này, anh có biết bài Who Hit Annie in the Fanny with a Flounder hay không?
-  Dạ không, Đô đốc.
-  Vậy mà tôi tưởng ai cũng biết bài đó chứ.
Keefer xen vô, đầy nhiệt tình:
-  Nếu đô đốc hát lên dường như, Willie tìm được giọng ngay chỉ vài ba giây mà thôi.
Đô đốc đưa mắt qua vị đại tá bên cạnh:
-  Tôi hát được chứ, nếu có Matson hát theo tôi.
-  Chuyện nhỏ mà, Đô đốc.
Willie tìm ra được dễ dàng âm điệu của ca khúc Who Hit Annie in the Fanny with a Flounder, rồi cả căn nhà vang lên những tiếng vọng của bài ca, tất cả đều đồng thanh hát. Các cô y tá cười nắc nẻ. Đô đốc la lớn:
-  Đây là buổi dạ tiệc vui nhất từ trước đến giờ. Có ai cho tôi một điếu thuốc được không? Anh nhiệm sở ở đâu? Tôi muốn anh trở lại đây thường xuyên.
-  Tôi đang cố gắng tìm đường đi tới chiếc Caine, thưa Đô đốc.
-  Chiếc Caine? Chiếc Caine? Chúa ơi, nó còn đang hoạt động sao?
Đại tá Matson nghiêng người nói nhỏ:
-  Được biến cải thành trục lôi hạm đó, Đô đốc.
-  À tôi biết rồi, nó đang ở đâu?
-  Vừa nhổ neo sáng nay, Đô đốc – ông ta hạ thấp giọng – Hành quân “Gạt tàn thuốc”.
-  Hừmmm
Đô đốc ngắm nhìn Willie:
-  Matson, ông có thể lo cho cậu bé này được không?
-  Dạ được, Đô đốc.
-  Vậy thì đàn lên nữa đi, Keith!
Khi mọi người chia tay vào nửa đêm, vị đại tá dúi cái danh thiếp vào tay Willie:
-  Tới gặp tôi ngày mai lúc chín giờ, Keith.
-  Dạ vâng, Đại tá.
Sáng ngày hôm sau, Willie tới trình diện tại văn phòng của đại tá trong khu chỉ huy trưởng hạm đội Thái Bình Dương. Vị đại tá đứng dậy và đưa tay ra bắt thân thiện.
-  Tôi rất thích tiếng đàn của anh, Keith. Chả bao giờ tôi lại thấy đô đốc vui như vậy. tôi đoan chắc với anh là ông ấy cần..cái đó làm ông ta sảng khoái.
-  Cảm ơn đại tá.
-  À, nếu anh muốn, tôi có thể cho anh một chỗ máy bay đi qua Úc. Anh có thể theo kịp chiếc Caine ở đó, mà cũng có thể không. nó đi hộ tống các đoàn công voa. Những chiến hạm làm công tác hộ tống này thật bận rộn, mấy chỉ huy trưởng Hải cảng thấy mặt là xỉa đi lung tung…
-  Dạ tùy đại tá.
-  Hoặc là, chúng tôi có thể tạm chỉ định anh vào khối sĩ quan tạp dịch trong lúc chờ đợi chiếc Caine trở về Trân châu cảng. chuyện này chừng vài tuần mà cũng có thể kéo dài nhiều tháng. Tất cả vấn đề là phải biết anh có gấp rút để đi chiến đấu hay…Lẽ tất nhiên, ở đó chả bao giờ dư người. dù thế nào nữa Đô đốc không thể ngăn cản nếu anh muốn đi.
Vị đại tá kết luận bằng nụ cười.
Willie đưa mắt nhìn qua cái cửa sổ lớn bằng kính để thấy ra mé biển và những ngọn đồi. đàng xa một vòng móng chuồn lơ lửng trên một sườn núi đầy những cây dừa nước. trên cái sân cỏ những bông dâm bụt màu đỏ thẫm phất phơ dưới ngọn gió nhẹ ẩm ướt, và một cái máy tưới nước tự động xoay quanh túa ra những giọt nước mịn màng trên lớp cỏ được cắt ngay ngắn. Willie chợt nói:
-  Cái khối Sĩ quan tạp dịch, tôi thích lắm đó, Đại tá.
-  Vậy được. Đô đốc sẽ rất vừa lòng. đem cái lệnh công tác của anh cho văn phòng tôi trong ngày hôm nay cũng được.
Willie vậy là chính tức được bổ nhiệm tạm thời vào khối sĩ quan Tạp dịch, và anh tới ở chung với Keefer ở khu sĩ quan độc thân. hắn đã được bổ nhiệm vào ban Truyền tin của Hạm đội thứ ba, mừng quýnh lên khi thấy Willie mở đồ đạc ra.
-  Hì hì, bây giờ mày thành thạo đời lính chiến rồi há.
-  Tao đâu biết được. có lẽ họ cần tao trên chiếc Caine.
-  Mày nói gì? Mày sẽ còn cả cuộc chiến này mà, ông bạn già ơi. Mày chỉ có việc ở lại đây vài tuần lễ để làm vừa lòng thằng già Keefer này với lại lão Đô đốc, chỉ có vậy thôi.
Anh ta đứng lên, sửa lại cái gút cà vạt đen:
-  Phải đi trực. tối nay gặp lại nghe mày.
Trong khi tháo mở các đồ đoàn, anh lại thấy cái phong bì của ông bố. anh do dự cầm lấy. có thể phải nhiều tháng nữa anh mới có thể thực sự đáo nhậm nhiệm sở của mình. bác sĩ Keith đã dặn dò anh chỉ mở cái bì thư ra ngay ngày anh tới đơn vị. anh đã đáo nhậm đơn vị, cho dù tạm bợ đi chăng nữa, nhưng nó có thể kéo dài. Anh đốt một điếu thuốc, mở phong bì, ngồi xuống đọc lá thư. Ngay từ những chữ đầu, anh đã giật nẩy người. anh tiếp tục đọc, ngồi dựa trên cái cạnh ghế, cầm bức thư run rẩy trên tay, điếu thuốc cháy giữa hai ngón tay, tàn thuốc rơi trên mặt đất mà anh không buồn để ý gì cả.
Willie con yêu,
Khi con đọc lá thư này, ba nghĩ rằng ba sẽ không còn trên cõi đời này nữa. ba rất buồn vì làm con hoảng hốt, nhưng ba không nghĩ được cách nào êm xuôi dễ chịu để báo cho con một tin như thế. cái đau đớn nơi ngón chân của ba là do một bệnh trạng hiểm độc gọi là melanoma, bệnh ung thư da. Kết quả thử nghiệm cho thấy một trăm phần trăm bất lợi. đã lâu nay rồi ba biết được tình trạng của mình và nghĩ rằng ba sẽ khó qua khỏi mùa hè này. Nhưng ngón chân của ba ngày càng tệ, nhanh hơn là ba đã dự đoán. Đáng lẽ ra ba phải vô nhà thương rồi, nhưng bởi vì chỉ còn có hai ngày nữa con đi rồi, mà ba không muốn làm con phải lo nghĩ trước ngày lên đường, vả lại dù sao đi nữa cũng chẳng còn hy vọng gì, nên ba mới trì hoãn việc nhập viện. ba sẽ cố trì hoãn thêm nữa cho tới khi con rời San Francisco. Mẹ con chưa hay biết gì cả. ba không nghĩ rằng từ đây ba có thể kéo dài thêm ba hay bốn tuần lễ nữa.
Ba cũng còn hơi trẻ để ra đi, nếu chỉ dựa theo những bảng thống kê về tử vong của các hãng bảo hiểm, và ba  cũng phải nói rằng ba chưa có sẵn sàng, bởi vì có lẽ trong đời, ba đã không đạt được gì nhiều. nhìn lại đời ba, Willie, thì chẳng có cái gì đáng kể. mẹ của con là một người đàn bà tuyệt hảo và về điều này ba không hề có một hối tiếc nào hết. thế nhưng ba có cái cảm tưởng rằng ba đã có một cuộc sống của một người phụ thuộc trên mọi khía cạnh…không phải chỉ là so sánh với cuộc đời của ông nội con, mà đối với khả năng của riêng ba, ba say mê về nghiên cứu. khi ba yêu mẹ con, thì ba đã nghĩ rằng ba không thể cưới bà nếu như ba không hành nghề bác sĩ toàn khoa trong một khu phố sang giàu. Ý định của ba là kiếm tiền thật nhiều trong vòng mười tới mười lăm năm, rồi sau đó ba trở lại công việc nghiên cứu. ba đã tin tưởng rằng ba có thể làm được một cái gì đó trong địa hạt ung thư. Ba đã có một lý thuyết hay một khái niệm thì đúng hơn, mà chưa có một chữ nào ghi trên giấy cả. việc này đòi hỏi phải tra cứu quy mô suốt ba năm liền. chưa có ai dấn thân vào con đường nghiên cứu này cả. ba tiếp tục theo dõi những công trình này. Tên tuổi của ba có thể là đã được tiếng tăm không khác gì như của ông nội con. Nhưng bây giờ không phải là lúc giải bày những ý kiến của ba. cái bất hạnh nhất là ngày hôm nay ba có cảm tưởng rằng mẹ con đã theo ba và chịu sống một cuộc đời khiêm tốn nếu như ba đã thực sự cố gắng nài nỉ thuyết phục.
Thế nhưng ba đã sống thật là thoải mái, ba có thể nói như thế. ba luôn luôn ưa đọc sách và chơi golf, và ba chả bao giờ thiếu những thứ đó. Ngày lại ngày, đi qua thật quá nhanh.
Ba rất tiếc là không gặp được cô gái mà con có lần nói tới. ba nghĩ rằng cô ấy hay hải quân, hoặc cả hai, đã có ảnh hưởng sâu đậm trêncon người con. Và, con tin ba đi, Willie, điều đó là tư tưởng tốt đẹp và trong sáng nhất từ trước tới nay mà ba mang theo được với ba vào bệnh viện. ba thật ra đã hơi lơ là chăm nom con, có thể chỉ bởi vì lười mà thôi, thêm vào đó, mẹ con dành quyền chăm sóc con…Thật là đáng tiếc ba mẹ không có thêm nhiều con. Không được may mắn chút nào. mẹ con đã ba lần sẩy thai, có thể chuyện đó con không biết.
Ba sẽ nói với con một điều, và điều này sẽ làm con ngạc nhiên. ba vẫn có cảm tưởng rằng ba coi con có nhiều khả năng hơn là mẹ con nhận xét về con. Bà cho rằng con là một đứa bé vô vọng mà suốt đời phải luôn luôn được cưng chiều. thế nhưng ba đã kết luận rằng tuy con được nuông chiều như vậy, thực ra con rất là mạnh dạn, rắn rỏi trong đáy sâu của tâm hồn. bởi vì là, con luôn luôn làm được theo ý con, tuy vẫn cho mẹ con có cảm tưởng như vẫn dẫn dắt đưa đẩy con. Ba chắc hẳn rằng không phải vì con đã khéo tính toán, mà con chỉ tự nhiên làm như vậy thôi.
Con chưa từng gặp những vấn đề khó khăn nào trong đời cho đến khi con vào Hải quân. Ba đã theo sát con trong vụ bốn mươi tám điểm xấu. dưới một khía cạnh nào đó, nó có vẻ rất khôi hài, nhưng thực ra phải kể là một thử thách không nhỏ. Con đã đứng lên đương đầu một cách rất đáng khen ngợi.
Có thể là vì biết không gặp lại con nữa, Willie, bây giờ đây ba trở nên dễ cảm. ba thấy rằng con giống cái xứ sở của mình quá, con còn trẻ, ngây thơ, hơi bị hư hỏng vì có tiền của và cũng bởi may mắn, nhưng con lại có cái sắt đá nội tâm và đó là do nguồn gốc tốt. bởi vì cái xử sở của mình, tựu trung, là do công lao của những kẻ tiền phong đi khai phá, những người di dân này. Ba mẹ, Ý và Do Thái, những người này cũng như những người tới trước họ, tất cả đã rất đảm đang xông xáo để ra đi tạo dựng một cuộc sống khả quan tốt đẹp hơn trong cái thế giới mới. con sẽ gặp một số lớn thanh niên xa lạ trong hải quân, mà phần đông có thể có trình độ yếu kém hơn con, nhưng ba đoan chắc rằng – ba lại không thể sống lâu thêm nữa để có thể thấy- họ sẽ làm thành một hải quân hùng mạnh nhất chưa từng thấy trên thế giới này. Ba tin rằng, trong vài năm nữa đây, con sẽ thành một sĩ quan Hải quân ưu tú. Có thể cũng lâu hơn, nhưng con sẽ trở thành một sĩ quan hải quân ưu tú thôi.
Không phải là một lời phê bình chỉ trích, Willie, Chúa biết rằng ba hơi đớn hèn. Có thể là ba lầm. cũng có thể là con sẽ chẳng bao giờ trở thành một sĩ quan Hải quân giỏi. biết đâu chúng ta sẽ thất trận. nhưng ba không tin như vậy. ba tin rằng chúng ta sẽ thắng cuộc chiến này và con sẽ trở về trong vinh quang, xán lạn hơn là con mong đợi.
Ba dư biết rằng con đã thất vọng khi được thuyên chuyển xuống một chiến hạm như chiếc Caine. Bây giờ đây con đã thấy nó, có thể là con chán ngấy. mà được, con nhớ kỹ điều này giùm cho, con đã ăn trên ngồi trước trong cách sống riêng của mình đã khá lâu rồi, và tất cả sự non nớt thiếu trưởng thành của con là do điều đó gây ra. Con chưa có chạm trán với sự thật phũ phàng, con cần một cái gì giống như một vách tường đá…để có được ít nhiều tập dợt về đời sống thực tế. ba tin chắc con sẽ thấy vô số những bức tường đó trên chiếc Caine. Ba không ganh tị với con về cái kinh nghiệm đó, nhưng thật sự ganh tị cái rắn rỏi con thâu thập được từ những kinh nghiệm đó. Nếu như trong những năm tháng thời son trẻ, mà ba có được cái kinh nghiệm tương tự, thì ba đã không chết như một người thất bại.
Đây là những lời lẽ khắc nghiệt, nhưng ba vẫn cứ nói. chúng không làm ba đau đớn hơn, và hơn thế nữa, bản thân ba không có thể tự xóa bỏ chúng được. hiện tại ba là một người sắp chết, nhưng chính con sẽ là người quyết định được là đời ba là một thành công hay là một thất bại. nếu con thành công, ba  còn có thể tự cho là đã đạt được một kết quả nào đó trong đời này khi ba ở bên kia thế giới, nếu cái thế giới bên kia hiện hữu.
Riêng về việc con đã chọn cái nghề đàn dương cầm hơn là văn học sử đối chiếu…có thể là những quan điểm của con sẽ thay đổi sau chiến tranh. con đừng có mệt mỏi phải lo nghĩ tới cái tương lai xa vời của mình. hãy ráng làm việc đắc lực trong hiện tại. bất cứ nhiệm sở nào trên chiếc Caine, con cũng nên nhớ là nó đều xứng đáng cố gắng hết mình. đó là cách đúng đắn trong việc tham gia cuộc chiến.
Cũng hơi kỳ lạ là ba không có gì nhiều để nói với con thay thế lời giã biệt. ba còn phải viết thêm chừng hơn chục trang nữa, tuy nhiên ba có cái linh tính rằng con có thể tự mình đi suốt con đường đời của con không trở ngại gì. Tất cả những gì mà ba có thể nói cũng không ăn nhập gì với nhau nhiều lắm đâu, bởi vì con thiếu cái kinh nghiệm cá nhân để cho cái chất liệu vào những lời ba có thể nói với con. Nếu có thể, con đừng quên điều sau đây: trên cõi đời này, không có gì quý bằng thời gian. Con vẫn cứ tưởng rằng con có một kho tàng hầu như vô tận về cái thời gian, nhưng không phải vậy đâu con. Những giờ phút mất đi hủy diệt đời con vào thuở ban đầu hay vào cuối đời…chỉ khác một cái là ở chặng cuối cuộc đời, người ta thấy rõ hơn. vậy con hãy lợi dụng thời giờ nếu có, Willie, để tạo nên một sự nghiệp cho đời mình.
Về tôn giáo, ba e rằng ba đã dạy dỗ con thiếu sót, vì ngay cả ba và mẹ con cũng không có hiểu biết nhiều trong địa hạt này. Nhưng rồi ba cũng sẽ gửi cho con một quyển Thánh kinh trước khi vào bệnh viện. có rất nhiều đoạn khô khan trong thánh kinh nói về chiến tranh và những nghi thức Do Thái, các đoạn văn đó có thể làm con chán ngán, nhưng con đừng phạm lỗi lầm là bỏ qua phần Cựu ước. phần này, theo ý Ba là nguồn gốc của tất cả tôn giáo, và dẫy đầy nét đạo đức hàng ngày mà con phải có khả năng nhận biết chúng. Cần phải có thời gian con mới có thể nhận biết chúng ngay được. trong khi chờ đợi, con hãy làm quen với các từ ngữ. con sẽ chả bao giờ hối tiếc đâu. Bản thân của ba đây, ba tìm được thánh kinh, cũng như tìm thấy những thứ khác trong đời sống, khi đã quá trễ.
Chuyện tiền bạc, ba để lại tất cả những gì của ba cho mẹ con. Chú Lloyd là người chấp hành di chúc. Có một khế ước bảo hiểm mười ngàn đô la mà người thụ hưởng là con. Nếu con muốn lập gia đình hay tiếp tục việc hoc, thì số tiền này cũng đủ cho con thực hiện được những dự tính của con. Tiền bạc là một cái gì đó rất dễ chịu. Willie, và ba tin rằng con có thể đổi bất cứ vật gì một cách khôn ngoan nhất để lấy tiền, ngoại trừ công việc mà con thực sự muốn làm. nếu con bán thì giờ cho một cuộc sống tiện nghi và con từ bỏ công việc mà con hàng mong muốn, thì ba tin rằng con đang đổi chác thua lỗ. bởi lẽ trong lòng con sẽ còn một sự bất bình, chính cái bất bình này sẽ tước đoạt đi cái tiện nghi mà con đánh đổi được.
Willie con ơi, cái đồng hồ nhỏ xưa cũ bọc da của ba đã chỉ ba giờ sáng rồi. ngoài xa là một ánh trăng tàn yếu ớt lóe lên phía sau các cửa sổ thư viện và những ngón tay của ba đã  cóng buốt vì viết hơi nhiều. ngón chân của ba đau đớn biết chừng nào. ba phải đi nằm với một liều thuốc ngủ hiệu nghiệm. cảm ơn Chúa về những viên thuốc an thần.
Hãy lo cho mẹ con nếu mẹ được trường thọ, nên có hiếu với mẹ để khi con trở về từ miền binh lửa con đã đủ lông cánh để sống với mẹ. mẹ có nhiều tính xấu, nhưng lại rất tốt. mẹ đã rất thương con cũng như mẹ đã thương ba, một cách chân tình.
Willie khóc nức nở, anh đọc đoạn cuối lá thư trong nước mắt chan hòa.
Có những lúc trong đời con phải dừng trước một ngã tư đường con hãy nghĩ tới ba và đến những điều tương tự mà a đã trải qua. Hãy vì ba, một người cha đã có lúc đi sai đường, con hãy sáng suốt chọn đúng hướng đi của mình, và nhớ mãi trong lòng những lời chúc lành và sự dẫn giải của cha mình.
Vòng tay ba luôn luôn mở rộng với con. Đã bao năm rồi, cha con mình đã không có dịp ôm nhau. Ba còn nhớ lúc con còn thơ dại, ba vẫn thường hôn con. Ngày ấy con thật dễ yêu và là một đứa bé có bản chất tốt với đôi mắt to tuyệt diệu. trời ơi, ngày ấy thực đã lâu lắm rồi.
Vĩnh biệt con yêu quý. Hãy xứng đáng là một đấng nam nhi, nhé con.
Ba của con
Viên thiếu úy đứng lên gạt nước mắt và đi xuống nhanh tới một phòng điện thoại. anh bỏ một đồng tiền vào cái khe:
-  Tôi muốn nói chuyện với Hoa Kỳ…
-  Rất tiếc. liên lạc tư nhân phải gọi từ trụ sở trung ương với sự cho phép của giám viên. Thời gian chờ là tám ngày – điện thoại viên trả lời với giọng đặc biệt Hạ Uy Di.
Willie đi ra  chạy từ căn cứ và đi hết phòng này tới phòng kia, cho tới khi anh tìm được văn phòng của điện tín viên. Anh gửi ngay một điện tín “Cho biết tin của Ba ngay”, anh trả tiền phụ trội khẩn và cho địa chỉ nhà mình cho điện tín viên. Sáng ngày hôm sau lúc tám giờ, Willie chờ văn phòng mở cửa. anh ngồi chờ trên tam cấp cho tới mười một giờ rưỡi mới được người ta đưa cho cái điện tín trả lời “Ba đã mất ba ngày nay. Lời cuối cùng Ba dặn nói với con, Ba thương con vô cùng. Nhớ biên thư cho Mẹ, Mẹ”.
Wilie đi thẳng tới văn phòng của đại tá Matson, được ông ta tiếp đón niềm nở:
-  Rồi sao, Keith, họ đã cho anh việc làm chưa?
-  Đại tá, sau khi suy nghĩ tôi muốn đi tìm chiếcCaine, nếu có thể được.
Gương vị đại tá dài ra:
-  Ấy, có việc đó sao? Bộ người ta gởi tới tấp cho anh nhiều công điện mã hóa hả?
-  Không phải, Đại tá.
-  Tôi đã thông báo cho Đô đốc là anh đã được bổ nhiệm tai đây, ông ta  chịu lắm.
-  Đại tá, tôi xin phép nói là, tôi không có cảm tưởng tham dự cuộc  chiến…bằng cách chơi dương cầm cho Đô đốc.
Vị đại tá nghiêm giọng:
-  Ở đây đâu có thiếu việc làm. anh sẽ thấy là phục vụ tại một nhiệm sở trên bờ cũng quan trọng không kém bất cứ nơi nào khác.
-  Tôi cũng nghĩ như vậy, Đại tá…
-  Anh  đã được chỉ định vô khối sĩ quan Tạp dịch theo như lời thỉnh cầu của anh.
-  Dạ đúng, Đại tá, tôi biết, nhưng mà….
-  Việc bổ nhiệm của anh đã được ghi nhận và chuyển qua văn phòng. Tôi thấy không có lý do gì để can thiệp vô nữa. lời thỉnh cầu không được chấp thuận.
Viên sĩ quan cầm một tờ giấy trcmc và đeo cặp kính vào.
-  Xin tuân lệnh, Đại tá.
Willie nói xong, rồi trở ra.
Và như vậy mà Willie ở lại Trân Châu Cảng, giải mã các công điện nói tới những cuộc đụng độ dữ dội bên phía Rendova và Munda, chiến thắng huy hoàng của trận đánh đêm ở Vella Lavella, và những cuộc chuẩn bị tấn công. Một ngày nọ có một công điện nói tới chiếc Caine đang ở trong vùng khói lửa. bên kia trái đất, quân Đồng minh thả bom, pháo kích đảo Sicily và ở bên Ý, lãnh tụ Mussolini bị lật đổ. trong lúc đó, Willie lả lướt đàn dương cầm cho chư vị Đô đốc và  các cô điều dưỡng nhởn nhơ thường thức.