NẮNG ẤM CUỐI CHIỀU XUÂN

     ấy giờ là tháng bảy, những cơn mưa ngắn ngủi khô rất nhanh trên mặt đường. Thành phố biển oi nồng, vì hơi nóng tỏa ra từ các bức tường, vì mùi tôm cá ươn bốc lên trong các bến, vì làn bụi đậm suốt ngày lơ lửng trong không trung, và cả vì những chùm hoa giấy đỏ gắt vươn qua hàng rào các khu vườn. Ở Chợ Lớn, các cô bán dưa hấu cắp các mẹt hàng vào bụng hoặc đội trên đầu lượn quanh những dãy quán rao ơi ới. Đan vào tiếng rao của họ là tiếng rao của lũ trẻ bán kem, của mấy ông già bán bánh bò, bánh linh lăng, bánh cua ròn, và mấy bà nạ dòng bán bánh chuối tẩm bột. Đám người chợ búa xôn xao như bầy ong. Tất cả những âm thanh ấy gia tăng thêm sức nóng của mặt trời.
Tôi đứng chờ. Lòng bực tức không hiểu sao người ta lại đặt Ban khai hoang của tỉnh vào tòa nhà trước cửa chợ. Ngồi trong phòng cũng khó tĩnh tâm vì trăm ngàn tiếng động ném rào rào lên kính cửa. Thêm nữa, người tới làm việc đông, nhưng mấy cô văn thư luôn luôn tìm cách biến. Vòng ra sân sau, các cô sà vào hàng bún bò giò heo, bánh chuối rán, hoặc chè thập cẩm ngồi hàng giờ. Mặc cho khách chờ một con dấu ê lưng. Tôi không chờ một con dấu như họ. Tôi chờ một con người. Anh ta tên là Quắc, nguyên là cán bộ tài chính một tỉnh miền Trung chuyển vào đây sau giải phóng. Anh ta sẽ là phó giám đốc cho nông trường tôi tiếp quản. Một nông trường ngoài đảo, cách thành phố tám mươi tư hải lý. Nông trường này thành lập trước đây một năm, thu thập đám dân vỉa hè của các thành phố biển, những kẻ lang thang làm mướn khắp các miệt đồng, và những người bị rượt đuổi ở các chi khu quân sự sống lay lắt bằng đủ thứ nghề vặt vãnh. Nghe nói tình hình ngoài ấy xấu lắm nên họ cử tôi, một trung tá chuyển ngành ra nhận chức giám đốc, với một cán bộ tài chính sắt thép đủ năng lực chế ngự đám dân ô hợp đó.
Tôi đợi thêm nửa giờ nữa. Trong chợ xuất hiện một người đàn ông thấp lùn. Vai ngang, ngực nở, bận áo sơ mi màu da trời đã cũ và chiếc quần len đen. Một khuôn mặt ngắn, hai lưỡng quyền rộng vừa cao. Cặp mắt hẹp màu chì. Mũi hơi gãy và cằm bạnh. Người đàn ông len lỏi giữa hai dãy hàng quán đi tới trụ sở Ban khai hoang Ty nông nghiệp. Nhìn dáng điệu anh ta, tôi linh cảm đây là người mình chờ đợi, người cộng sự gần gũi nhất trong đoạn đời phía trước. Người đàn ông đã leo lên bậc thềm. Không thèm bỏ chiếc mũ cối chụp trên đầu, anh ta hỏi tôi:
- Anh tên là Hưởng?
Tôi ngạc nhiên nhìn những giọt mồ hôi rơi lã chã từ chiếc cằm bạnh xuống cổ áo.
- Vâng. Sao anh biết?
Người đàn ông đáp:
- Biết chớ. Tòi là Quắc. Tôi sẽ làm phó cho anh. Cấp trên bảo chúng ta phải ra đảo ngay hôm nay. Vé tàu tôi đã mua rồi.
Anh ta rút trong túi ngực hai chiếc vé:
- Bảy đồng tám hào. Anh trả cho tôi.
Tôi móc ví lấy tiền trả Quắc. Anh ta nói tiếp:
- Hai giờ chiều tàu chạy. Anh lo kiếm đồ ăn đi. Cả đêm nay với ngày mai nữa. Phần tôi, tôi có rồi.
Nói xong anh ta đi tuột vào trong trụ sở.
Tôi đứng thêm một lát, sững sờ vì cuộc gặp ngoài ý tưởng. Tuy nhiên, ánh nắng gay gắt bò tới chân thềm nhắc tôi rằng đã non trưa. Kiếm một quán cơm, tôi ngồi ăn thật no rồi mua máy ổ bánh mỳ, mấy cặp bánh ú và một túi dưa Hoàng Kim. Xong xuôi, tôi ra khỏi khu chợ, lững thững bước dọc theo kè đá đến bến tàu.
Con tàu nằm bên đám thuyền buôn vừa cập bến. Gọi là tàu nhưng nó nhỏ bé dúm dó đến tội nghiệp. Nước sơn tróc từng mảng. Rỉ sắt hoen quanh thân. Nơi ngàn nước hà bám thành vệt xù xì. Một tấm ván nứt toác bắc từ sàn tàu lên kè đá. Những bà lái buôn gánh dưa dẫm lên ván khiến nó nhún nhảy một cách kinh sợ. Tôi ngồi dưới hiên ngôi nhà nguyện của dòng Tin Lành, giờ cửa đóng im ỉm đứng lạc lõng bên cái bến tàu ồn ào dơ dáy. Gió mặn từ cửa biển phả lên làn hơi mát tanh ngái. Những cành hoa giấy đỏ vươn qua hàng rào. Bóng áo đàn bà thấp thoáng sau các vòm cây rung rinh nắng. Và tiếng rao của những người bán quà rong ở bến cảng lẫn các phố xung quanh vọng tới khiến tôi đờ đẫn dần. Tôi ngủ đi lúc nào không rõ. Cho tới khi một bàn tay nặng trịch đập lên vai:
- Xuống tàu. Hai giờ kém mười rồi...
Tôi mở mắt, Quắc đứng lừng lững trước mặt tôi:
- Đi thôi.
Nói xong, anh ta quay lưng bước. Tôi khoác ba lô bước theo. Chúng tôi đi qua tám ván nhún nhảy xuống tàu. Khắp sàn, những sọt dưa Hoàng Kim bộn bề chát ngất. Một bà lái buôn ngồi chom hỏm giữa đống dưa, khuôn mặt đen và gân guốc như mặt gã dô kề. Cuối cùng chúng tôi cũng tới được chỗ ngồi. Chỗ ngồi đây chỉ là những tấm ván bào sơ sài đặt song song trong khoang không có lưng tựa, cũng không ghi số thứ tự. May sao chúng tôi tìm được chỗ áp thành tàu. Ở đây có thể nhìn trời và biển qua ô cửa hẹp. Mặt khác, có thể dựa lưng nghỉ ngơi dù thành tàu bốc mùi nước mắm và đầy những vết dầu lem luốc. Tàu không nhổ neo đúng giờ. Đám thủy thủ la cà nhậu nhẹt trên phố mãi tới ba giờ kém mười lăm mới chệnh choạng bước lên cầu tàu. Ba giờ hơn họ nổ máy cho tàu rời bến.
- Không có luật tắc chi hết. Đã vậy lại ngu như heo.
Quắc làu bàu, nhổ nước bọt liên tiếp qua ô cửa. Tôi hỏi:
- Sao thế anh bạn?
Quắc đáp:
- Phỉ thui. Nó nhổ neo giờ này là giờ tắc tử. Dân đi biển rành không bao giờ ngu như vậy.
Những bãi nước bọt chưa tan trên mặt nước. Tôi thầm ngạc nhiên vì tính nết của người cộng sự. Với gương mặt chai sạn vả cục cằn ấy, không thể ngờ anh ta lại mê tín như một bà già.
“Dẫu sao Quắc cũng sẽ là người thân số một của mình trên vùng đất lạ. Phải biết bỏ qua những điều dị biệt. Và phải biết tin yêu nhau trên cơ sở lợi ích chung. Biết đâu tính cách của anh chàng lại thích hợp với công việc?...”.
Tôi nghĩ vậy để dẹp bớt vết cộm trong lòng. Tôi bảo Quắc:
- Cậu đói bụng chưa? Chúng mình cùng ăn cho vui.
- Anh cứ ăn trước. Tôi có phần của tôi rồi.
Nói xong Quắc vỗ bồm bộp chiếc sắc du lịch đã hỏng khóa được buộc kín bởi năm nút dây khâu vào hai bên. Tôi nhìn ra ngoài ô cửa. Nước chưa xanh vì còn quẩn bùn. Trong mùi sóng, thấy rõ những rác rến mà thành phố đã táp vào bãi sú. Con tàu rú còi, vượt cửa sông. Đêm ấy trăng đẹp làm sao. Mặt biển sáng lên như trái cầu bằng bạc. Tôi không ngủ. Tôi thắc thỏm hình dung ngày mai. Một nông trường đang gây dựng, náo loạn và có nguy cơ tan vỡ. Những con người xa lạ. Những khó khăn không thể nào lường trước. Tôi sẽ sống ra sao ở đó? Tôi sẽ làm gì?...
Quắc há mồm ngáy từng hồi. Tôi nhìn người bạn đồng sự, thấy nỗi cô đơn kề sát bên mình. Ngả lưng vào thành tàu, tôi cố gắng ngủ. Chiều hôm sau tàu cập bến. Hòn đảo hiện ra ngay dưới tầm mắt chúng tôi với những bãi cát phẳng lặng, những khu vườn tiếp giáp đồi cỏ và rừng non, những con đường cát đỏ. Thị trấn nhỏ bằng bàn tay nhưng ồn ào và sặc sỡ. Nhiều quán ăn và tiệm bán trái cây. Những người đàn bà cao lớn, da rám nâu, nói tiếng véo von như chim hót. Nghe mười câu mới hiểu nổi một câu nói của họ. Quắc nhìn tất cả bằng con mắt thận trọng. Tôi chưa thấy anh cười từ khi gặp mình nên châm chọc một câu:
- Cô bán cá kia xem chừng vừa đôi với cậu đấy. Đất lành chim đậu luôn đi.
Quắc gườm gườm nhìn cô gái xứ đảo tôi vừa chỉ, sì một tiếng thật to qua kẽ răng:
- Thứ đó tôi đá một đá văng qua mũi Cà Mau luôn.
Rút cục anh ta vẫn không chịu nhếch môi cười. Tôi thất vọng im lặng bước đi. Chúng tôi ra khỏi thị trấn chừng năm trăm mét gặp xe nông trường tới đón Cậu lái xe chỉ độ mười bảy, mười tám tuổi.
- Nghe tàu hú còi cháu cho xe chạy thí mạng mà vẫn không kịp. Hai chú bỏ lỗi cho... Dọc đường còn phải dừng mấy lần hỏi thăm. Cứ thấy hai người đàn ông một cao một thấp là ngờ ngợ - Cậu bé nói với một nụ cười.
Tôi hỏi:
- Sao cháu biết?
Cậu bé đáp:
- Bữa công văn xuống nông trường có cán bộ Ban khai hoang xuống luôn. Ảnh tả hình dáng các chú như vậy.
Nói rồi chàng trai lột chiếc mũ Cát-skét đội đầu vốn đã bẩn ghê gớm lau chiếc ghế rách lòi cả mút đệm bên trong mời tôi.
- Chú Hai ngồi đây cho êm. Còn chú Ba thì... - Cậu ta nhìn Quắc ngượng nghịu như mắc lỗi - Ghế đó…
Chiếc ghế dài phía sau đã bị gỡ. Thế vào đấy là một chiếc ghế gỗ vừa đóng bằng ván tươi bào sơ sài xiên xẹo, trông cục mịch như thứ ghế ghép vào xe trâu chở lúa.
Quắc hừm hừm trong họng đẩy tôi lên phía trước:
- Anh già hơn tôi lên đó mà ngồi. Tôi còn sức chịu được thứ quỷ này. Chắc từ đây về nông trường nó cũng dằn cho đít thành chai.
Chiếc Dép kéo theo rơ-móc. Thứ toa chở hàng kì cục đó nhảy tưng tưng trên đường. Quắc bảo tôi:
- Xe cộ gì trông như đồ thổ tả?
Rồi anh quay sang hỏi cậu bé lái xe:
- Mày tên gì?
- Dạ cháu tên Vọp.
- Xe ngựa của nông trường cả thảy có mấy chiếc?
- Dạ, chỉ có chiếc Dép khổ này thôi. Phải ghép rơ-moọc vào chở thực phẩm. Nghe nói trước kia có chiếc Pơ-giô ngon lành lắm. Nhung ông giám đốc cũ đem đổi cho tay Ba Hơn chủ trại lấy chiếc Dép này. Xe chi mà hệt cái thùng xả rác. Cháu mới nói tổ thợ mộc đóng cho chiếc ghế gỗ sau đó. Trước nó trông lơn lởn. Máy móc hư trơ trọi, vừa đại tu hết cả chục ngàn.
Quắc gằn giọng:
- Xe mới giá cũng chỉ ngần ấy thôi. Làm ăn kiểu lưu manh... Này, hồi chạy chiếc Pơ-giô mày cũng ở đây sao?
- Đâu có? Cháu vừa được bổ sung ra đảo. Trước các chú một tháng sáu ngày. Vị chi năm chúa nhựt...
Nói xong cậu bé quay lại cười. Tôi thấy gương mặt cậu sáng ngời ngợi.
Xe chúng tôi đi qua những trái đồi thấp. Đường ở đây rất xấu. Vô số ổ gà. Thỉnh thoảng, một chiếc rãnh cạn lại xoáy sâu xuống nền đá cấp phối, đào trơ lượt đất đỏ dưới cùng. Hai bờ đường cỏ lau phơ phất trắng. Còn sau nó là những vườn đào lộn hột đang thay lá. Từng đám lá vàng xáo động giữa vòm xanh. Tôi lần lượt nhớ lại những điều người ta đã nói ở Ban khai hoang tỉnh. Chúng tôi phải gây dựng một vùng dân cư mới, sinh sống bằng cây hồ tiêu và những hạt đào rang xuất khẩu. Và cuộc sống đó bắt đầu với những con người bị trôi dạt sau chiến tranh, họ hoàn toàn xa lạ với mình. Tôi nhìn gương mặt nghiêng nghiêng của cậu bé Vọp, cố tìm câu trả lời. Nhưng chỉ thấy một bên má bầu bĩnh phơn phớt lông măng.
Vừa tới nông trường thu xếp nơi ăn chốn ở xong, Quắc rủ tôi xuống thăm các đội sản xuất. Hôm đó là ngày chủ nhật. Các nông trường viên nghỉ làm. Lán họ ở rải rác dọc theo khe nước. Từ nông trường bộ xuống các lán phải qua những vườn mít, vườn khoai của đám nhân viên hành chính. Đa số đã có gia đình và là nông trường viên ngoài Quảng Binh, Vĩnh Linh chuyển vào. Những người dân cần cù này tới đâu, tức khắc ở đó mọc lên những mảnh vườn rào kiên cố, những chuồng heo, chuồng gà và những luống cúc vạn thọ hoặc hoa mồng gà nhỏ xíu. Các mụ gà mái túc túc dẫn bầy con đi ăn dưới gốc mít. Vài con lợn ủn ỉn trong chuồng. Một đứa con gái tóc buộc túm đuôi gà ngồi thái cây chuối trên sân đất. Cảnh sinh hoạt của thôn ở hiện lên ngay trong chiếc cổng chào kết bằng lá dừa mang dòng chữ Nông trường Chiến Thắng.
Quắc có vẻ hài lòng khi nhìn những luống khoai mỡ xanh um. Anh gật gù bảo tôi:
- Cán bộ của mình chịu thương chịu khó thật. Tới đâu cũng gây dựng được đàng hoàng.
Tôi không nghĩ như anh. Nhưng tôi im lặng. Những ngọn cỏ bò trên mặt đường leo tới thềm các lán. Đám nông trường viên này không thu vén trồng trọt cái gì hết. Phía sau các lán chỉ thấy các thùng tô-nô chứa nước và thau chậu ngâm đầy quần áo. Trên bãi cỏ phía trước, một đám lửa cháy rừng rực. Ngọn lửa liếm quanh những cây củi bằng bắp vế. Giá ở đồng bằng những súc củi đó đủ cho thợ mộc sướng run, tha hồ xả ván đóng bàn đóng ghế. Ở đây, người ta đốt nó thành than hồng quay lợn, quay chim. Hai thanh niên lực lưỡng cởi trần đang quỳ trước đống lửa. Họ cầm những chiếc xiên lớn xâu đùi lợn, chim cu, thịt bò miếng trộn sả ớt lật đều đặn trên đám than vừa gạt.
Thấy tôi và Quắc đi với cậu lái xe đến, họ đứng lên:
- Xin chào...
Vọp nhắc:
- Chú giám đốc và phó giám đốc nông trường mới về đó.
Hai thanh niên đồng thanh:
- Chào ông giám đốc. Chào ông phó giám đốc.
Tôi chào lại họ rồi bước tới lán. Ở đó đang vang lên tiếng đàn ghi-ta và giọng ca nam. Trong lán, một đám người đứng ngồi lộn xộn khắp nơi: dưới đất, trên giường, trên nóc tủ. Một chiếc bàn kê giữa nhà đầy ly cốc, chai rượu, giấy lau miệng, vỏ lạc, lá chuối lót thịt nướng và những bao thuốc bọc giấy bạc óng ánh. Cả đám người đứng dậy chào chúng tôi, sau khi nghe Vọp giới thiệu. Cũng vẫn tiếng chào xa lạ đầy vẻ canh chừng:
- Xin chào ông giám đốc!
Tôi bảo anh chàng ôm ghi-ta nhỏ thó giọng như một kép hát loại ba:
- Anh cứ hát tự nhiên.
Nhưng anh ta mỉm cười sợ sệt. Chiếc móng tay dài, cong như móng chim khẽ cạo lên phím đàn. Trên nóc tủ, một người đàn bà liếc nhìn tôi vẻ ngạo nghễ. Tuy cô ta cũng cất tiếng chào như mọi người nhưng không chịu nhảy xuống, có lẽ đó là một người đàn bà quen được đàn ông chiều nịnh. Không nhìn kỹ nhưng tôi biết cô ta rất đẹp. Gương mặt trắng ngần, thuôn thả. Đôi mắt lớn dưới cặp mi đen không cần tô chì. Sống mũi thanh thường gặp trong các bức tranh Ki-tô giáo. Cô ta bận áo màu mận chín trễ cổ. Những món tóc hung nâu, quăn tự nhiên rơi xuống ngực. Hai cánh tay vắt trên gối, vẻ như mệt mỏi, chán chường. Những ngón tay rám nắng, thỉnh thoảng khẽ máy động. Hình như người đàn bà định làm một việc gì đó nhưng lại ngại ngần ngồi im. Tôi bối rối nghĩ: “Mình cư xử ra sao bây giờ? Chẳng lẽ quát nạt cô ta? Dù sao đó cũng là một phụ nữ. Nếu im lặng, đám người này sẽ cho rằng mình bị mê hoặc bởi nhan sắc. Đằng nào cũng lố bịch...”.
Trong lúc tôi đang tìm biện pháp giải thoát, người đàn bà vẫn lặng lẽ quan sát tôi bằng ánh mắt cao ngạo: A! Lại một thằng đàn ông... Để xem nó có gì khác những thằng đàn ông trước... Dường như cái nhìn của cô ta nói thế.
Quắc đứng sau tôi bỗng bước lên. Từ nãy đến giờ anh ta nhìn ngó mọi xó xỉnh trong lán. Giờ Quắc mới để ý tới người đàn bà ngồi vắt vẻo trên nóc tủ:
- Người kia, tên gì?
Anh ta quát to đến nỗi cả đám đông giật thột. Tay anh chỉ thẳng vào mặt người đàn bà. Cô ta cũng nảy lên hoảng hốt vả kinh sợ.
- Nhảy xuống!
Quắc lại gầm lên lần thứ hai. Người đàn bà bị tiếng gầm của anh làm nhủn trí, ngoan ngoãn nhảy xuống như một con chó con:
- Tên gì?- Quắc hỏi.
- Nguyễn Thị Chi Huệ.
- Từ rày không được phép vô lễ với cán bộ. Đừng giở thói mất dạy. Giờ hồn!...
Mặt Quắc sắt lại, những thớ thịt không lay động. Tôi vội vã kéo anh khỏi lán trong bầu không khí lặng lẽ như lễ tang.
Từ phút Quắc nhục mạ người đàn bà, Vọp mất hẳn vẻ tươi cười lúc đầu gặp gỡ. Thỉnh thoảng cậu bé liếc trộm chúng tôi với vẻ dè chừng. Trong thâm tâm tôi vừa chịu ơn Quắc vì anh đã cứu tôi thoát khỏi một tình thế trớ trêu lại vừa lo ngại trước bản tính thô bạo của anh. Đêm hôm ấy, chúng tôi ngồi ngoài thềm. Tôi lựa lời nói với người đồng sự. Nhưng chưa kịp nói anh đã lên tiếng trước:
- Anh vào Đảng năm nào?
Tôi đáp:
- Một chín năm tám.
Đốm lửa trên điếu thuốc của anh ngùn đỏ lên.
- Sau tôi hai năm. - Quắc rít hơi thuốc nữa, cấu tàn tro rồi nói thêm: - Tôi vào Đảng đúng thời kỳ cải cách. Hồi đó cả xã không có ai xứng đáng hơn tôi. Vừa kết nạp xong, lên huyện đoàn công tác liền.
Giọng anh đầy tự bào. Không hiểu sao anh vẫn giữ nguyên gốc tiếng Quảng Nam mặc dù sống ở miền Trung khá lâu. Rút điếu thuốc, tôi châm lửa và nói:
- Tôi cũng như anh đều thiếu kiến thức nông nghiệp. Có lẽ mọi sự sẽ khó khăn. Nhưng đất đai rất nhiều. Khí hậu đảo thích hợp với cây hồ tiêu và đào lộn hột. Cứ nhìn những vườn trại của dân là thấy rõ.
Quắc ngắt lời tôi:
- Muốn làm gì cũng phải rèn lũ người này đã. Nhìn qua cũng đủ biết một tụi cứng đầu. Chúng ta cần có bàn tay sắt.
Ném mẩu thuốc cặn ra đám cỏ trước sân. Quắc ngẩng lên hỏi:
- Anh là sĩ quan cấp tá mà sao mềm yếu vậy? Tôi chưa hề bắn một viên đạn nào trong đời. Nhưng tôi có cách trị bọn cứng đầu.
Tôi hỏi:
- Sau khi lên huyện đoàn, anh làm gì?
Quắc trả lời:
- Tôi sang phòng tài chính. Từ đó tới nay, tôi làm công tác thuế. - Anh nhếch mép cười - Bọn đàn bà tiểu thương thấy tôi rúm lại tựa gà thấy cáo. Chúng nó rạp xuống như cỏ vậy.
Đó là nụ cười đầu tiên từ khi chúng tôi gặp nhau. Người đồng sự nói tiếp:
- Vào đây, tôi vẫn ở bên Ty tài chính. Nhưng ông anh ruột trong Ban khai hoang kéo về trợ sức với anh làm lại cái nông trường này. May mà anh đã gặp tôi. Tại sao đã cầm súng ngần ấy năm mà anh bệt như vậy?...
Tôi im lặng rít thuốc. Quắc không đợi câu trả lời. Anh đứng dậy vặn lưng răng rắc rồi vào giường nằm. Phút sau tiếng ngáy đã vang lên.
Tôi ngồi im. Ban đêm đảo như thu lại và chìm xuống. Biển hóa gần hơn. Tiếng sóng vọng đầy không gian làm rung động ánh trăng và khiến núi đồi huyền bí như những con thú lạ.
Sớm hôm sau Quắc gọi tôi dậy sớm. Chúng tôi xuống khe rửa mặt đánh răng để đi sang khu vỡ đất xem mấy chiếc máy ủi san nền. Tôi trù tính cùng lắm tới mùa mưa phải hoàn tất những bìa cây chắn gió và trồng đủ số nọc tiêu. Sau đó sẽ gỡ dây gióng. Ban khai hoang đã cho chúng tôi một số tiền mua phân cá chở từ đất liền ra. Phần mình, chúng tôi lo gây dựng đàn bò để tạo nên nguồn phân tại chỗ. Ở những cánh rừng tiếp giáp rặng núi Bắc đảo có vô số dây leo lá mềm và rộng bản. Một thứ độn ủ phân hảo hạng. Những ý nghĩ đó làm tỏi phấn khích.
Hít một hơi dài trong không khí thoáng đãng, tôi bảo Quắc:
- Ít nhất ở đây cũng hơn trong thành phố vì không khí thanh sạch. Cứ ngửi mùi cá ươn và bùn rữa dưới các bến sông tôi đã chóng mặt rồi.
- Ồ! - Quắc gật đầu.
Rồi chúng tôi đi. Con đường mòn ngoằn ngoèo bò qua đồng tranh. Các nông trường viên cũng đã đi làm. Áo nón của họ nhấp nhô trên những lượn cỏ xám óng ánh lửa mặt trời.
Ngày hôm đó chúng tôi làm được nhiều việc. Mải mê tới quá chiều Quắc mới bảo tôi cùng về. Rời khu chăn nuôi, hai chúng tôi trượt theo sườn đồi vòng về nông trường bộ theo lối mới. Lối này Vọp chỉ cho chúng tôi lúc cậu đem cơm trưa. Đoạn đường rút ngắn gần một nửa so với đường cũ nhưng gập ghềnh hơn. Và phải qua một thân gỗ bắc ngang khe nước. Dưới khe rất nhiều cây bị dân trong xóm đốn làm củi còn nhô lên những khúc thân vát chéo trông như những mũi tên khổng lồ. Trượt chân rơi xuống đó, chắc chắn không chết cũng nát xương. Tôi run sợ. Nhưng Quắc đã tụt dép bước nhon nhón trên cầu, tay vắt vẻo như đàn bà đi chợ:
- Đi di. Không có gì đáng sợ. Anh chưa bao giờ qua cầu khỉ trong này sao?
Anh gọi tôi, tiếng oang oang vọng xuống lòng khe. Tôi trấn tĩnh. Quả nhiên, tôi đã vượt qua vực sâu hiểm nghèo đó. Bên kia khe là dãy đồi thấp mọc đầy những bụi kim chi và trân châu. Chúng tôi vừa đi vừa tránh gai móc vào gấu quần. Đột nhiên một sinh vật hiện ra trên lối mòn. Chỉ chút nữa tôi dẫm phải. Đó là một đứa bé gái đang ngủ mê mệt. Nắng soi qua bụi kim chi rọi lên mặt nó những đồng xu vàng, ở những điểm ấy da con bé hồng mọng lên. Gương mặt mịn màng hơi rám nâu. Cặp môi nhỏ đỏ thắm. Những giọt mồ hôi li li đọng trên trán và hai cánh mũi. Một lũ kiến lửa bò trên tràng mày cong cong. Tôi cúi xuống phủi thật nhanh lũ kiến rồi bế con bé lên. Nó hé cặp mắt nhìn khiến tôi giật mình. Mắt đứa trẻ giống hệt mắt người đàn bà mặc áo màu mận chín hôm qua:
- Bác là ai vậy?
Con bé thỏ thẻ hỏi, không lạ lùng, không xa cách. Cặp môi nhỏ thắm he hé cười, để lộ những chiếc răng sữa nhỏ xíu.
- Bác là bác Hưởng. - Tôi trả lời.
- Bác Hưởng. Ôi, tên lạ hoắc.
Con bé lẩm bẩm rồi lại nhắm mắt. Dường như nó định ngủ thêm một giấc nữa trên tay tôi. Tôi gọi:
- Cháu dậy đi chứ. Chiều rồi.
Con bé vẫn nằm yên, mở mắt nhìn tôi, đáp:
- Nhưng đã đến giờ ăn đâu? Má con bảo đi chơi tới giờ ăn hãy về.
- Bao giờ mới tới giờ ăn?
- Buổi tối, má thắp đèn cầy, và... - Đứa bé giơ tay chỉ - Ông sao mọc trên rừng cây kia.
Tôi phủi những lá cỏ khô dính trên tóc con bé. Mùi mồ hôi chua chua và mùi thơm của da thịt non trẻ xộc vào mũi khiến tôi nao lòng. Tôi bế nó đứng lên:
- Đừng ngồi đây kiến đốt. Để bác đưa cháu về.
Quắc đi sau tôi gật gù:
- Con bé này cũng ngoan đấy - Anh hỏi nó:  - Mày là con nhà ai?
Đứa bẻ thỏ thẻ:
- Cháu con má Huệ.
Quắc giật giọng:
- Huệ nào? Nguyễn Thị Chi Huệ phải không?
Con nhỏ gật đầu:
- Dạ phải.
Người bạn đồng sự kéo áo tôi:
- Này, bỏ nó xuống. Mẹ nó là cái con mụ cứng đầu bữa qua.
Hình như đứa bé cảm thấy thái độ khác biệt của Quắc liền nhớn nháo nhìn quanh. Tôi vỗ lưng nó nhè nhẹ, bảo anh:
- Cậu đừng làm thế. Trẻ con không chịu lỗi thay cho người lớn.
Quắc im lặng. Tới ngả rẽ anh nói:
- Tôi về đây!
Anh qua những vườn mít, vườn khoai về nông trường bộ. Tôi theo lối mòn ngược lên khu lán ở của nông trường viên. Bấy giờ, mặt trời đã lặn. Mây chiều cháy rực trên những vườn tiêu. Con bé ríu rít bảo tôi:
- Bác xem kìa, đẹp không? Khi nào rảnh bác kiếm cho con một con chim thiệt đẹp bác nghe...
Giọng nói của nó thật dễ thương. Khó mà từ chối được một giọng thơ ngây dịu dàng như thế. Tôi ôm chặt đứa trẻ vào ngực, lòng tràn ngập niềm vui sướng. Mấy cô gái nông trường xuổng khe tắm trở về nhìn chúng tôi cười. Mắt họ ánh lên vẻ tò mò ngờ vực.
- Thây kệ! - Tôi thầm nghĩ: - Ai cũng có quyền yêu thương một đứa bé. Mình là người đàn ông độc thân. Mình cần tiếng thỏ thẻ của con bé ngoan ngoãn này.
Những lời lẽ đó không đủ giúp tôi trấn an. Tôi nghe tim đập thình thịch khi bước tới khu lán. Một đám người ngồi trong quầng sáng vàng vọt của ngọn đèn cầy. Những gương mặt bị lấp chìm nửa phần trong bóng tối. Người đàn bà ngạo mạn hôm qua tựa lưng vào tường. Cô ta mặc chiếc áo hoa không tay, mái tóc xổ tung xuống vai trần. Một chiếc vỏ chai lăn lóc trên giường phản chiếu ngọn lửa. Đối diện với cô là gã ca sĩ nhỏ thó bữa trước. Tay lướt trên phím đàn, gã cất giọng sầu buồn hát:
Hãy hôn anh em ơi
Cho anh hôn lần cuối
Một lần cuối trong đời...
Không hiểu sao một cảm giác cay đắng, hung bạo bỗng trào lên trong tôi. Hệt như nước ớt xộc vào mũi. Tôi biết mình đang rơi vào một trạng thái bất bình thường, mất hết khôn ngoan và bình tĩnh. Nhưng ý thức đến muộn quá. Tôi đã bật tiếng kêu:
- Ai là mẹ cháu bé này?
Tiếng nói đó nửa như tiếng kêu, nửa như tiếng thét, lại vừa như một câu hỏi đầy uy quyền. Âm thanh sai lạc và xa lạ đến chính tôi cũng không nhận biết được giọng mình. Tiếng đàn trong lán tắt ngấm. Đám đông ngồi náu mình trong yên lặng còn người đàn bà vén tóc chạy ra:
- A! Ly!... - Cô ta kêu lên sửng sốt.
Tôi nhìn gương mặt dưới ánh đèn cầy còn lộng lẫy hơn cả ngày qua, bỗng run lên vì tức giận:
- Cô rượu chè ca hát. Còn con cô lang thang ngủ ngoài đồi, kiến leo đầy mặt...
Hẳn nỗi giận dữ trong tôi thái quá và lạ lùng nên người đàn bà đứng lặng đi. Đám đông trong lán cũng im bặt. Lúc đó tôi nghe rõ cả tiếng gió lộng dưới khe, cả tiếng chim trong các vòm lá và cả tiếng nổ lách tách của ngọn đèn cầy.
Giá như tôi rút lui ngay lúc ấy!... Nhưng thần khôn ngoan đi vắng nên tôi đứng thẫn thờ. Vẻ cam chịu khiến gương mặt người đàn bà hiền và đẹp quá. Tôi muốn ngắm mãi những nét dịu dàng, cố gắng tìm một câu nói nào khác áp đảo cô ta. Nhưng Huệ đã trở lại ngạo mạn. Cô khẽ nhếch mép cười gằn, rồi cao giọng hỏi đứa con:
- Ly, mày ngu vậy hả? Ai cho lăn giữa cát mà chơi?
- Đâu có má... Con lạy má!...
Đứa bé sợ hãi giơ tay lên che đầu theo thói quen. Nó ép vào lồng ngực tôi run rẩy. Mắt người đàn bà long lên thách thức và kiêu ngạo. Hẳn cô ta đã nhìn thấu những giây phút bối rối của tôi. Biết mình thất thế, tôi lại khùng lên. Và lần này không còn sự đắn đo nào ghìm giữ tôi nữa. Nhìn thẳng vào mặt người đàn bà, tôi quát:
- Không được đánh nó!
Cô ta ngước cặp mày đen lên:
- Tôi sanh ra nó!
Hơi thở người đàn bà nồng mùi rượu. Bất giác, tôi nhăn mũi đứng lùi lại. Cử chỉ đó giống một cú đấm giáng xuống. Mặt Huệ tái nhợt, vành môi run rẩy. Người đàn bà đã hoàn toàn tỉnh táo và hiểu nỗi ghê tởm hiện lên trên gương mặt tôi. Mắt cô ta phóng lên những tia sáng căm thù. Bất chợt, cô ta xông tới, giằng đứa bé trong tay tôi và tát hai cái liền vào mặt nó.
- Má á á…
Con bé kêu thét lên trước khi ngã. Cặp mắt ướt loáng ngước nhìn như khẩn cầu, che chở. Lúc đó, mặt tôi nóng bừng, trong khi toàn thân lạnh và nặng như chì. Cử động thật chậm chạp. Hai tay run đến mức tôi phải tự bấu vào quần để khỏi ném vào mặt người đàn bà một cú đấm. Khó khăn lắm tôi mới bế được con bé lên. Nó áp má vào ngực tôi. Và cảm giác xót xa khiến tôi rung chuyển. Tôi nói:
- Tôi nghĩ rằng cô vẫn còn là một người mẹ. Hổ cái nó cũng còn biết thương con...
Giọng tôi bỗng mất hết nhuệ khí, chùng xuống, mệt mỏi. Người đàn bà trân trân nhìn. Hai giọt lệ long lanh từ từ trào lên khóe mắt. Trước khi chúng lăn xuống, cô ta đã kịp quay ngoắt đi, biến vào bóng tối...
Tôi quay về nông trường bộ. Con bé Ly vẫn ôm riết cổ tôi. Lúc đó, tôi nghe tiếng Vọp:
- Chú đưa cháu bế con nhỏ!
Cậu lái xe đã đứng sau lưng tôi từ lúc nào không rõ. Tôi đưa con bé cho Vọp. Chúng tôi thong thả bước đi. Bóng đêm đã bao phủ khắp vườn cây, khe nước và những mái nhà lợp cỏ. Chân tay mỏi rã rời. Lòng hoang hoải. Tôi tự dằn vặt mình:
- Tại sao bỗng dưng lại lâm vào tình thế lố bịch này? Thật ngu xuẩn...
Vọp đi sát bên tôi, khẽ nói:
- Chú đừng buồn... Đừng giận chị Huệ Lai... Chị ấy là con nhà lành nên không quen đối xử như...
Tối hôm đó, sau khi ăn cơm, Vọp kéo tôi ra sân nói chuyện, chắc hẳn cậu bé đã giành cho người đàn bà này không ít niềm trìu mến. Vọp kể rằng Huệ là con của một giám mục người Ý và một thiếu nữ nổi tiếng ngoan đạo. Thân thể cũng như nét mặt cô phảng phất như Đức Mẹ Đồng Trinh. Vì thế người ta gọi cô là Huệ lai. Giám mục đã bị gọi về Tòa Thánh Tây Ninh khi người thiếu nữ đẹp nhất dàn thánh ca mang thai. Từ đó ông ta biệt tích không trở lại vùng Châu Đốc. Mẹ Huệ lai dồn sức nuôi con như tất cả những người đàn bà rơi vào cảnh trớ trêu. Bà hy vọng con gái sẽ trở thành tài, Huệ học thông minh. Bao giờ cô cũng đứng đầu lớp. Hết trung học, bà gửi con lên Sài Gòn theo lớp văn khoa. Ở thành phố này, mái tóc hung, đôi mắt mơ màng và sống mũi nàng La Giô-công-đơ của Huệ lai đã khiến cho đám đàn ông giàu sang lẫn lũ bạn sinh viên cuồng dại. Huệ lai sống thanh bạch, buổi sáng ăn một ổ bánh mỳ muối tiêu trước giờ tới giảng đường. Trưa và chiều ăn cơm rau với bà dì bán bánh linh lăng nghèo khổ. Suốt năm bận bộ đồ đen hoặc áo dài lụa trắng. Nhưng những thứ màu giản dị đó lại ăn nhập với nhan sắc thánh thiện của cô. Vả những kẻ cuồng si ngày cứ nhiều thêm mãi. Tuần một lần, mẹ Huệ viết thư cho con. Thư nào bà cũng dặn con phải giữ thân, tu chí học hành. Cuộc sống lỡ dở của mẹ khiến cô gái sớm khôn ngoan. Cô bước qua tiền bạc, hạt soàn, khăn áo của những gã đàn ông săn đuổi mình, mái đầu ngẩng lên kiêu hãnh. Bà dì Huệ mắc chứng tê thấp. Trước bà còn gánh bánh bán rong. Sau bà ôm thúng bánh ngồi dưới cây cột đèn chờ lữ trẻ về học ghé qua mua vài xu lẻ. Tình thế ngoặt nghèo vậy mà cô cháu gái cứ ngoảnh mặt làm ngơ trước những xếp bạc dày cộm, những sợi dây chuyền nặng trĩu hạt soàn, khiến bà bực tức. Huệ đành bớt giờ học lội sông vớt củi bán. Khi cô sắn quần để lộ hai bắp đùi trắng như tuyết với cặp gót sen, cả đám dân nghèo dô kề chuyên vớt củi giật mình. Họ nhìn Huệ lai như nàng tiên giáng thế. Dòng nước sủi bọt đen tựa nước cống. Rác rến, xác súc vật chết lẫn với củi khô gỗ mục trôi bập bềnh. Người con gái vượt qua nỗi sợ, lội xuống con sông dơ dáy. Cô nhập vào dòng người lam lũ của đô thị. Để lấy cho được nhiều củi, chống thói ức hiếp của bọn lưu manh, Huệ lai phải tập võ. Mình cô có thể đánh ngã bay dăm bảy gã trai mèng. Và thế là sổ tay ghi chép của lũ trai si mê lại thêm những dòng sửng sốt. Tính cách cương cường của cô gái khiến cô trở thành thần tượng trong lòng họ. Kiếm đâu ra trong thế kỷ của tiền tài và danh vọng, một người con gái cao thượng như thế? Nhưng dù trong trắng và cao thượng, nữ thần vẫn không tìm được hạnh phúc cho mình. Cô vẫn bị số mệnh đánh lừa như những người đàn bà xấu số khác. Năm học thứ ba cô mềm lòng trước một đại úy dù. Gã trai cao lớn, râu hùm hàm én, tính tình khoáng hoạt. Huệ lai bị chinh phục bởi vẻ hảo hớn của gã với lũ đàn em. Cô nghĩ rằng gã đích thực là một gã đàn ông nên gạt phăng những túi hạt soàn của đám con trai thương nhân mà đi theo gã. Tình yêu của cô cuồng dại như một cơn bão, hoàn toàn tương phản với thái độ lạnh lẽo chai đá trước đây. Cô có con với gã nên phải nghỉ học. Lúc đó gã mới lộ nguyên hình là một thằng bẻm mép máu mê cờ bạc đến nỗi bán hết cả cơ nghiệp lừa từ bà cô ruột tới đứa em họ bán kem rong để lấy tiền nướng vào cuộc đỏ đen. Sau rốt, gã bỏ Huệ bám lấy một mụ già bốn mươi tám lấy tiền tiêu xài. Túng quẫn, đau đớn Huệ lại ôm đứa con gái về Châu Đốc, trước ngày giải phóng ít lâu mẹ cô buồn sầu mà chết. Và mẹ con Huệ theo đám người trôi dạt tới hòn đảo này.
Vọp ngừng lại. Ánh đèn trong nhà rọi vào lớp lông măng trên má cậu khiến nó ánh lên. Chàng trai hất món tóc trước trán nhìn vào mắt tôi:
- Chú biết hết các nông trường viên chưa?
Tôi lắc đầu.
Vọp trầm ngâm nhìn khoảng sáng hắt lên từ khu lán tranh rồi tiếp:
- Ở đây tụ họp dân tứ xứ, thượng vàng hạ cám đủ cả. Từ cỡ tú tài Đíp-lôm tới hạng một chữ ký không biết phải nhúng ngón tay cái vào mực tàu điểm chỉ giấy hành. Con nhà lành cũng có mà gái bất lương, trai bụi đời cũng có... chú biết thằng cha nhỏ thó chơi ghi-ta không?
Tôi gật đầu:
- Biết. Chắc anh ta là dân bụi?
Vọp lắc đầu:
- Sinh viên luật năm thứ ba đó chú à. Ba má hắn là hai đốc-tờ nổi tiếng ở Sài Gòn có phòng mạch riêng với ba mươi giường bệnh. Giờ họ sang Mỹ. Ở nông trường này chị Huệ lai thân nhất với hắn. Mà hắn cũng coi chị như chị ruột của mình.
Tôi nhìn Vọp:
- Thế còn cháu? Chú thấy cháu cũng thương mến, bênh vực cô ta.
Chàng trai gật đầu:
- Vâng. Chị Huệ là bạn học của anh trai cháu. Hồi ảnh trọ học ở Sài Gòn, lâu lâu má con cháu lên thăm.
- Giờ anh ấy đâu rồi?
- Ảnh bị dính đạn lạc chết ngày giải phóng. Nếu không thì đã... - Cậu bé buông lửng câu nói, đứng lên - Cháu bồng con Ly về trả cho chị Huệ. Chú ngủ đi. Đêm nay chắc có mưa rào.
Vọp vào nhà bế con bé Ly trở về khu lán. Khi cậu bé khuất trong bóng đêm, tôi vẫn còn ngồi giữa sân băn khoăn bởi chính mình:
- Tại sao ta lại chú ý tới người đàn bà đó một cách vô cớ như vậy? Và bỗng dưng chuốc vào thân biết bao nhiêu phiền nhiễu? Xét cho cùng, cô ta cũng chỉ là một kẻ xa lạ. Kẻ không can hệ, không tham dự vào cuộc sống của ta?
Nhưng tôi biết những ý nghĩ đó giả trá và không bền vững. Kẻ xa lạ kia cứ hiển hiện trước mắt tôi. Hai giọt lệ long lanh trên khóe mắt.
Trong tôi có cái gì đó bất ổn, nặng nề và thắc thỏm. Trạng thái ấy ngắt đứt giấc ngủ khiến tôi nửa mơ nửa tỉnh cho tới lúc bình minh. Quắc gọi tôi đúng giờ thể dục. Anh quả là một chiếc đồng hồ sống.
Hôm nay tôi dự định xem xét toàn bộ khe nước để cải tạo nguồn nước cho nông trường. Bởi lẽ nó là nguồn sống duy nhất cho cả vùng nhưng chưa bao giờ được để ý tới. Chiều qua tôi bàn với Quắc chuyện này. Thoạt tiên anh gạt phắt đi:
- Thiếu gì việc đáng lo? Đám đất vỡ, lô tiêu đang san nền, chuồng trại gia súc... Rỗi hơi hay sao mà lo chuyện nước nôi? Trước khi anh với tôi về đây đã qua hai ba đời giám đốc, có ai bày đặt việc này đâu?
Nhưng tôi chỉ cho anh xem những con cung quăng và bọ nước trong thùng nước của tổ chăn nuôi:
- Nguồn nước này không sớm thì chầy sẽ dẫn tới bệnh tật. Anh làm sao trồng được tiêu, hái được trái điều nếu không có công nhân?
Quắc lặng im. Thế nghĩa là anh đã chấp thuận. Sớm hôm nay chính anh lại xăng xái giục tôi:
- Nhanh tay lên. Tôi nghe nói khe này dài tới ngót chục cây số.
Bếp ăn cho người mang suất xôi sáng lên. Chúng tôi ăn ngay khi xôi còn nóng rồi xuống khe nước. Buổi sớm trời lạnh. Làn hơi bốc dưới đáy vực trắng như sa mù. Những đám lá hai bên dòng nước ướt đẫm. Mỗi lần một con sóc chạy, sương lại rơi lộp độp xuống ướt cả đầu tóc và vai áo. Lòng khe không có sỏi nên rất khó đi. Thêm vào đó, nước lạnh giá làm hai bàn chân tê cóng. Vừa đi Quắc vừa làu bàu rủa mấy con vắt nhảy dù vào cổ:
- Cái giống vắt này gớm thật. Giá có thứ thuốc nào diệt hết chúng đi?
Tôi cười:
- Có thứ thuốc diệt hết côn trùng. Nhưng đồng thời nó cũng làm cho cây cối bị thiêu hủy. Cái gì cũng bao gồm hai mặt. Mặt tốt đi kèm mặt xấu.
Quắc nói:
- Anh hay lý luận thật. Tôi nghiệm rằng anh chàng hữu khuynh nào cũng thích lý luận. Hồi chúng tôi chỉnh huấn, mấy tay ấy bị đánh đổ trước tiên.
Nói xong, anh tụt dép xách lên. Tôi không tranh cãi với anh nữa, vì phải vẽ sơ đồ dòng khe và đánh dấu những nguồn nước cần khai thông. Càng ngược lên, càng thấy khe nước đáng kinh sợ. Rác rến và lá mục tấp xuống lòng khe thành lớp dày hàng thước. Phân voi xác thú chết ươn sình nằm chắn trên các dòng chảy từ vách núi ra. Có những đám rễ cây móc lại cả bộ lòng thú hổ ăn thừa. Tất cả ngấm vào nguồn nước mà ba trăm con người ăn uống, giặt giũ và ngụp lặn, tắm táp đêm ngày... Khe nước dài trên trên một chục cây số, đúng như lời Quắc nói. Buổi trưa chúng tôi mới trở về, vừa đi vừa bàn một phương án tỉ mỉ nạo vét lòng khe, khai thông các nguồn nước. Sau đó, đẵn gỗ, bứt tranh xây dựng hệ thống nhà vệ sinh. Lúc sắp tới nông trường bộ chợt nghe tiếng kêu ré lên sau đám lá um tùm. Rồi một lũ các cô gái trần trụi từ lòng khe chạy tứ tung chui vào các bụi rậm.
Quắc nhổ nước bọt:
- Đàn bà con gái gì thứ quỉ đó? Ra ngoài mà cởi trần lông lổng.
Tôi nhìn vẻ mặt cau có của anh, nổi cáu thực sự:
- Tại sao cậu không trách những kẻ tổ chức nông trường này mà lại trút lỗi lầm lên đầu họ? Hàng trăm phụ nữ mà không có lấy một nhà tắm. Muốn họ làm việc thì phải lo cho họ sống đã.
Quắc lặng im. Từ đó tới lúc về nông trường bộ chúng tôi không nói với nhau một lời nào. Nhưng buổi chiều, Quắc đã điều các đội sản xuất tiến hành công việc đúng như tôi đã bàn với anh. Các đội trưởng nghe lời anh răm rắp. Vẻ mặt lạnh lùng thô bạo của Quắc có một uy quyền khó cắt nghĩa! Và điều đó rất có lợi cho công việc của một người lãnh đạo. Về mặt này, tôi thua kém anh. Hẳn là người ta đã sáng suốt khi ghép hai chúng tôi lại.
Tôi đang nghĩ lan man, cô văn thư vào đem theo giấy mời của ngân hàng huyện, mời tôi sáng mai lên làm việc. Tôi lục tìm những tài liệu chuẩn bị sẵn. Phải trình bày mạch lạc và chính xác các kế hoạch triển khai kinh tế của nông trường, thuyết phục họ cho vay tiền mặt và vay vốn. Ở đảo, bảy mươi phần trăm việc giao dịch, mua bán của chúng tôi phụ thuộc vào dân chúng. Đối với họ, chỉ tiền mặt mới có giá trị, còn séc là những tờ giấy vô nghĩa. Tôi chuẩn bị quần áo đem theo vì nghĩ rằng công vụ có thể kéo dài tới vài ngày. Nhưng thật may mắn, chỉ hơn một ngày, mọi việc đã xong xuôi. Khoảng mười giờ rưỡi sáng, tôi cùng Vọp ghé vào một quán chè trong thị trấn, ăn chè đỗ xanh, nước cốt dừa. Sau đó hai chúng tôi trở lại nông trường. Trời nắng như đổ lửa. Mặt biển ở cách chúng tôi chừng vài chục bước, chỉ qua một bãi cát hẹp là tới mép đường. Những lượn sóng trắng như muối liếm vào bờ, dịu hiền. Nước trong ngắt màu lam, tưởng như chỉ nhìn thấy đã nguôi cơn khát. Công việc xuôn xẻ khiến tôi nhẹ cả người, cứ tình hình này chắc đoạn đời còn lại cũng không vô nghĩa. Vọp nhìn tôi tủm tỉm cười:
- Hôm nay chú vui dữ. Chắc mọi việc qua ngon lành?
Tôi gật đầu:
- Cũng gần được như thế.
Xe tới nông trường lúc mười hai giờ kém hai phút. Vừa bước xuống tôi sững lại vì cảnh tượng kỳ cục trước mắt mình. Giữa sân, trước phòng điều hành sản xuất một thanh niên mặc quần cụt, lưng trần, đầu trần quỳ phơi nắng. Cậu ta cũng trạc tuổi Vọp. Chắc độ mười tám mười chín, gương mặt rắn rỏi, nhưng thanh tú, thân hình cân đối, mái tóc đen nhánh như lông hắc điểu. Hẳn cậu phơi nắng đã lâu, nên từ mặt xuống cổ đỏ gay gắt, mồ hôi tuôn thành dòng. Thấy tôi, cậu ngước mắt nhìn như thay một tiếng chào.
- Cháu làm gì thế?
Tôi hỏi, băn khoăn và nghi ngại.
Chàng trai đáp:
- Chú thấy rồi đó, cháu bị phạt quỳ.
Tôi nói:
- Ai phạt?
Cậu bé đáp gọn lỏn:
- Thưa, ông Phức.
Trong giọng nói của cậu có cái vẻ cam chịu khiến tôi điên lên. Hẳn là cậu đã quen hình phạt này, và ở đây, người ta cũng coi nó bình thường.
Tôi quát:
- Đứng lên. Đi vào nhà rồi tôi hỏi!
Cậu bé đứng dậy rồi theo tôi vào nông trường bộ. Ở đó, vừa ngồi xuống ghế cậu vừa vớ chén nước nguội không biết ai uống dở trên bàn nốc một hơi. Khóe mắt cậu tụ những tia máu li ti thường có ở những người cảm nắng. Tôi lấy hai viên Xê-đa bảo cậu uống rồi hỏi:
- Tại sao cháu bị phạt?
- Thưa, vì cháu vào rừng bắn gà gô.
- Từ xưa tới nay có ai bị phạt như thế không?
- Thưa có luôn luôn. Vì tụi cháu phải thay nhau vào rừng bắn gà gô về nhậu. Quanh năm cơm nông trường chỉ có cá biển. Thỉnh thoảng mới được bữa thịt bò hoặc thịt heo.
- Rồi mỗi lần đó lại về chịu phạt quỳ?
- Thưa vâng!
- Quỳ bao lâu?
- Thưa, từ tám giờ sáng cho tới bốn giờ chiều. Nếu nửa chừng bị té thì ông Phức cho khiêng vô lán.
- Rồi sao nữa?
- Rồi chiến hữu đánh gió, đổ thuốc cho. Vì tụi cháu kiếm được gì cũng ăn chung.
Lời lẽ của cậu bé cứa vào tôi như những lá cỏ tranh già. Niềm vui dọc đường về tắt ngấm. Tôi bỗng thấy ánh mặt trời xứ đảo, màu nước xanh lộng lẫy kia, bộ áo lộng lẫy của cỏ cây nhuộm nắng... Tất cả đều biến khỏi cuộc đời.
- Đứng dậy!
Không hiểu sao tôi lại quát cộc cằn khiến cậu bé hoảng.
- Từ lần sau không được phép quỳ như vậy. Bất cứ ai cũng không được nhận hình thức kỷ luật ấy. Nếu có trắc trở gì lên gặp tôi. Hãy nói rằng giám đốc ra lệnh: Cấm phạt quỳ!
Nói xong, tôi ngồi xuống ghế, thấy mệt và ngột ngạt.
Trời lại im gió nên hơi nóng hầm hập tỏa khắp gian nhà. Cậu bé bị phạt chào tôi trở về lán. Cậu ta vừa ra khỏi, Quắc bước vào. Anh gỡ chiếc mũ lấy khăn lau khuôn mặt bóng nhoáng mồ hôi. Tôi hỏi anh:
- Anh đã xem kỹ lý lịch của đội trưởng Phức chưa? Cậu ta là người thế nào?
Quắc kéo ghế ngồi:
- Thằng ấy trước đây đã là lính xăm hầm chỉ điểm cho Mỹ ngụy. Quê nó cách xã tôi non hai chục cây số. Giá nó còn ở ngoài đó người ta sẽ băm vụn ra. Nhưng vừa giải phóng, nó đã khôn ngoan lặn miết vào đây. Dựa vào thế ông chú họ là phó chủ tịch tỉnh, nó được Ban khai hoang bố trí vào làm đội trưởng từ ngày thành lập nông trường. Hai ba đời giám đốc, đời nào nó cũng được sủng ái hết.
Tôi hình dung nét mặt bình thản của Quắc, cố tìm xem nó ẩn chứa điều gì nhưng bất lực. Tôi đành hỏi anh:
- Anh có biết hắn làm điều gì sớm nay không?
Quắc gật đầu:
- Biết. Nó phạt quỳ một đứa trong đội. Lúc đó tôi cũng có mặt.
Tôi gặng:
- Anh có biết? Tức là anh chấp thuận hành động của nó?
Quắc im lặng. Tôi cũng không nói gì hơn. Chúng tôi cứ ngồi như vậy hồi lâu trong bầu không khí ngột ngạt của trưa hè. Trong không khí đó, thời khắc như kéo dài vô tận. Bức bối tới mức khó chịu nổi, tôi định đứng lên ra khu vườn phía sau. Lúc đó Quắc nói:
- Đừng giận tôi anh Hưởng ạ. Tôi đã đồng ý cho thằng Phức làm thế không phải vì tôi quý hắn mà vì hắn được việc cho chúng ta. Tụi nông trường viên cứng đầu cứng cổ lắm. Không dùng những thằng ác ôn như thế làm sao yên ổn? Các cụ đã có câu: “Dĩ độc trị độc”. Câu nói đó không ngoa…
Tôi bảo anh:
- Tại sao đã biết lai lịch tên Phức như vậy anh còn giấu tôi?
Quắc đáp:
- Tôi biết anh sẽ đuổi cổ nó đi, ít nhất cũng cách chức đội trưởng. Nhưng nó được việc cho tôi. Hồi xưa làm ở phòng tài chính, tôi cũng đã từng sử dụng những thằng như nó.
- Còn anh, anh dùng cái gì để cai trị hắn?
- Quyền lực của cách mạng. Mình là người chiến thắng. Nó phải khuất phục. Nếu không nó sẽ chết.
Quắc phác một cử chỉ quyết liệt, môi nhếch lên cười. Tôi lại nhớ nụ cười đầu tiên khi anh nói tới đám người tiểu thương cúi rạp trước anh như đám cỏ. Tôi nói:
- Dù sao tôi cũng sẽ cách chức đội trưởng của tên Phức.
Quắc đứng lên:
- Đừng. Anh có thể chửi mắng nhưng đừng cách chức nó. Trong lĩnh vực này tôi nhiều kinh nghiệm hơn anh.
Tôi cũng đứng lên định phản bác ý kiến của Quắc, nhưng cô cấp dưỡng đã mang phần cơm của chúng tôi vào. Quắc cởi áo ngoài nói:
- Cơm thôi.
Tôi mệt mỏi ngồi xuống ghế. Rồi chúng tôi cùng nhau ăn cơm và đi nghỉ trưa. Hai giờ chiều, khi tôi tỉnh giấc Quắc đã xuống các đội sản xuất đốc thúc việc xây dựng nhà tắm và nhà vệ sinh. Chỉ mới hai ngày công việc đã hoàn thành quá nửa. Công bằng mà nói  anh là một người hành động đầy năng lực. Nhưng tôi không hiểu anh. Mặc dù ở bên nhau suốt ngày đêm, cho đến bây giờ tôi mới chỉ biết anh vào Đảng trước tôi hai năm, thời kỳ cải cách. Là một cán bộ Đoàn cấp huyện và sau đó là cán bộ tài chính. Anh lấy một cô vợ ở Đức Thọ, nơi anh sống rất lâu. Họ đã có ba con và hiện giờ cô vợ anh nghỉ việc, hưởng lương bảo hiểm vì đau ốm sau khi sinh đứa con út... Ngoài ra tôi không thể lục tìm được điều gì trên gương mặt như đá đẽo, thô bạo và quyết liệt. Có thể Quắc là một người đàn ông thâm sâu có quá khứ và những ý tưởng phức tạp? Cũng có thể anh ta là con người đơn giản tới mức thô kệch? Giữa hai khả năng ấy điều nào có lý hơn?... Tôi lan man nghĩ một lúc lâu không tìm được câu giải đáp. Cán bộ tài vụ của nông trường đem vào một tập giấy tờ, công văn sổ sách. Gạt bỏ những thắc mắc riêng tư, tôi cùng làm việc với anh ta...
Không khí oi nóng tăng dần lên cho tới khoảng bốn giờ chiều. Lúc đó gió biển bắt đầu xua đi làn hơi tích tụ trên mặt đất. Trời êm dịu. Cây cỏ núi đồi tươi lại trong gió. Những đàn bò diễu qua đồng tranh kêu mò ọ ọ vang lừng. Những bày dê kêu be be dọc đường mòn ven núi, vừa kêu vừa nhảy cẫng rượt đuổi nhau. Ngay những ngọn lau khô xác và những chùm lá linh chi đỏ cũng xào xạc không ngừng. Tôi ra khỏi phòng làm việc, đi dọc theo khe nước. Ở các khu nhà vừa dựng không còn bóng người. Chỉ độc nhất một chú bé gầy gò cầm bó lạt đi nuộc lại các mái tranh. Tôi hỏi:
- Tại sao chỉ có mình cháu ở đây?
Chú bé vòng tay cúi đầu đáp:
- Thưa ông giám đốc, mọi người vào rừng cả. Con tàn tật nên được nuộc lạt tranh.
Lúc ấy tôi mới biết chú ta bị thọt. Cái chân hư hoại đó vừa ngắn vừa bé quắt như ống nứa. Chắc chắn nó chỉ nhỉnh hơn cổ tay tôi chút xíu.
Khi tôi đi, đứa bé cúi thấp đầu chào. Xong nó lại cặm cụi lần theo từng bó tranh nuộc thêm mối lạt. Quanh các khu nhà còn quá nhiều bụi rậm. Cần phải phát sạch để tránh rắn rết. Cũng cần phải mua xi măng về xây bể chứa nước cho các lán. Tránh tình trạng sớm sớm chiều chiều hàng trăm người đi xuống khe... Tôi đang tính toán chợt một cành gai kim chi móc vào ống quần. “Roạt!” một tiếng, mảnh vải bục bị xé ra. Chiếc quần này tôi mặc đã bốn năm rồi. Màu cỏ úa đã bợt gần như trắng. Nhưng nó thoáng mát lại vừa vặn nên tôi chưa nỡ bỏ đi. Vừa cúi xuống tần ngần xem chỗ rách, tôi bỗng nghe tiếng kêu sau lưng:
- A? Bác Hưởng. Bác Hưởng có nhìn thấy con không?
Tôi quay lại. Những bụi gai kim chi, gai trân châu và dây hoa kim ngân nhấp nhô bao phủ trái đồi. Chưa nhìn thấy con bé Ly đâu cả. Nhưng tiếng gọi của nó vang lên trong trẻo:
- Con ở đây nè. Bác Hưởng ơi i i... Con ở đây nè…
Phải lát nữa tôi mới tìm thấy đứa bé sau bụi kim ngân trắng xóa. Hôm nay nó bận chiếc váy đầm thêu hình nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn. Đầu tóc sạch sẽ hơn lần trước. Ngay cả móng tay, móng chân cũng xinh xẻo hồng hào. Dưới chân nó, một tòa lâu đài xây bằng các cánh hoa kim ngân, những chùm quả trân trâu và kim chi, những túm hoa linh chi mỏng như giấy. Một con thỏ với một chiếc kèn nhựa đặt giữa thành trì nguy nga ấy. Tôi biết con bé cô đơn. Suốt ngày nó làm bạn với những vật vô tri này. Thấy tôi, nó mừng đến thế.
- Mấy hôm rầy bác đi đâu? Sao con hổng thấy bác tới bồng con như bữa trước? -Con bé hỏi.
- Bác bận. Bác phải lên huyện làm việc với ngân hàng. - Tôi đáp lại.
- Bác lên huyện hả? - Con bé ôm choàng lấy cổ tôi, hai mắt sáng rỡ: - Trên đó có cà-rem chớ? Cà-rem sữa, cà-rem trái sầu riêng ấy mà?
- Có. Có cả hai thứ kem đó.
Tôi gật đầu, hôn lên tóc nó. Con bé thò tay vào cổ áo tôi gãi gãi:
- Vậy bữa sau bác Hưởng cho con lên huyện với nghen. Con xin má con tiền. Rồi bác mua giùm cho con hai cây cà-rem.
Tôi bế xốc con bé lên, áp mặt nó vào cằm:
- Được rồi, bác sẽ cho con lên huyện. Nhất định bác sẽ cho con đi. Giờ bác bế con lên vườn tiêu chơi nhé. Con có lấy cây kèn với chú thỏ kia không?
Bé Ly lắc đầu:
- Hổng cần bác ạ. Con để ở đó nhiều lần mà đâu có mất? Kiến không cắn thỏ nhựa với kèn. Ban đêm thì có ma. Nhưng ma hổng chơi đồ của con nít.
- Ai bảo con thế?
- Má con.
- Dạo này má hay tắm cho con lắm à?
- Dạ bữa rày má tắm hoài. Má sợ bác chê như hồi trước.
- Má còn đánh con không?
- Hổng đánh nữa. Mà má cưng con dữ. Má gửi mấy cô chú tiếp phẩm xuống chợ mua kẹo cho con hoài…
Một con chuột trong đồng tranh chạy vụt qua. Tôi giật mình đứng lại. Bất giác, tôi đưa mắt nhìn quanh. Nếu có người nào đó nghe được câu chuyện tôi với bé Ly? Thật tai hại... Cả nông trường sẽ ầm ĩ lên vì ông giám đốc mới mê Huệ lai. Ông bồng bé Ly và gọi nó là con ngọt sớt. Ông trò chuyện với nó như một người bố dượng trò chuyện với con. Như vậy những lời mắng mỏ của ông bữa trước không phải để huấn thị mà chỉ bộc lộ tình thương một cách sớm sủa và mê đắm. Họ sẽ còn nói gì nữa? Nhưng đáng sợ không phải những dị nghị của đám đông trong nông trường mà là thái độ khinh thị của Quắc. Đối với anh, Huệ lai là một trong đám người chúng tôi có nhiệm vụ cai trị. Thương yêu cô ta là điều ngoài sức tưởng tượng của anh.
Những ý nghĩ ấy khiến tôi sợ hãi. Khi con bé Ly giơ tay chỉ đám nọc tiêu lô nhô trên các ngọn cây hỏi:
- Máy cây cột kia dựng nhà được không bác?
Tôi nghiêm giọng trả lời:
- Không!
Con bé thắc mắc:
- Tại sao chứ?
Tôi đáp:
- Vì kích thước của nó không đủ dựng nhà.
Con bé lại hỏi:
- Nhưng kích thước là cái chi hở hác?
Tôi trả lời:
- Lớn lên cháu sẽ hiểu.
Con bé không để ý tới nét mặt cùng sự thay đổi cách xưng hô của tôi. Trẻ con bao giờ cũng tin vào cảm giác đầu tiên. Sau đó nó không cần nghi ngờ và xét đoán lại như những người lớn. Bé Ly ôm thật chặt cổ tôi. Hơi thở nó tỏa mùi thơm măng sữa. Thỉnh thoảng gió tạt mùi mồ hôi chua chua bám sau gáy con bé làm tôi xao xuyến. Đứa con gái tôi cũng có mùi thơm giống hệt như vậy. Trước ngày một trái bom biến nó với mẹ và chị thành đất bùn. Tôi bước chệnh choạng như người say. Đã mấy lần tôi định đặt bé Ly xuống đất nhưng lần nào nỗi hổ thẹn cũng ngăn tôi lại. Khi bước lên một lô tiêu tôi bỗng bị mắc vào cành gai rấp ngoài bìa cây chắn gió. Gai xé toạc thêm chỗ rách ở gấu quần. Bé Ly nghe thấy, nó vội tụt xuống đất nhanh như sóc:
- Trời ơi, quần bác rách rồi nè! - Con bé kêu lên. Vừa kêu vừa cúi lom khom xem xét mảnh quần rách hệt một bà già.
- Không sao đâu. Mặc bác. - Tôi nói.
- Đừng... - Con bé kêu thật dài - Để con xcm đã. Ôi trời, chân bác bị gai cào chảy máu đây nè. Đứng im nghe. Rồi con chữa cho.
Nó quỳ xuống, nhấp nước bọt vào ngón trỏ, di lên vết da xước của tôi:
- Bác nhắm mắt lại đi. Một chút xíu thôi mà. Có xót chút xíu cũng ráng chịu cho ngoan nghe.
Giọng nói của con bé chứa đựng vẻ ân cần lẫn niềm âu yếm, dịu dàng. Tôi không còn nhớ tới những nỗi sợ hãi. Tôi quỳ xuống ôm chặt nó vào lòng:
- Bác khỏi rồi, cảm ơn con nhé. Con ngoan lắm. Con ngoan nhất trên đời...
Hơi thở ấm nóng của đứa bé lướt trên mặt tôi. Tôi nhắm mắt vì thấy mình run rẩy. Lát sau, khi mở mắt người đàn bà đã đứng trước mặt tôi tự lúc nào rồi. Cô ta khuất sau một bức rèm cây nên chúng tôi không nhìn thấy. Hẳn cô đã nghe hết những lời trò chuyện giữa tôi với đứa con. Nghĩ tới đó, người tôi nóng bừng. Lưỡi tôi cứng lại. Tôi vội buông đứa trẻ. Nó nhìn mẹ dè chừng và nói:
- Má hổng mắng con chớ? Hôm nay con chơi sạch quá mà.
Nói rồi con bé xòe hai bàn tay ra. Người đàn bà lặng lẽ không đáp. Cô ta nhìn tôi chăm chú. Ánh mắt trầm tĩnh nhuốm đôi chút buồn rầu. Tôi thu hết can đảm để nhìn vào đôi mắt đẹp của cô. Nhưng chỉ một giây, nó làm tôi choáng ngợp. Hôm nay Huệ lai lại mặc chiếc áo cũ. Gương mặt cô rạng rỡ như phảng phất làn ánh sáng màu trắng sữa. Tôi thấy cô hoàn toàn giống Đức Mẹ Ma-ri-a. Có lẽ vì câu chuyện của Vọp ám ảnh.
Người đàn bà đi tới bồng đứa con. Rồi trước khi trở về, cô ta nghiêng đầu chào tôi:
- Tại sao cô ta không nói lấy một lời? Cô ta căm ghét mình? Hay cô ta muốn đóng vai một người đàn bà hiền thục?
Tôi nhớ lại chiếc vỏ chai lăn lóc trên giường, dưới quầng sáng vàng đục của ngọn đèn cầy và băn khoăn mãi. Trên cặp mi đen tự nhiên, trong những tia nhìn đột nhiên sáng chói và trong dáng người của người đàn bà ấy có cái gì đó mà tôi không thể gọi tên, không thể nói thành lời?
Hoàng hôn tím dần trong những tro tàn ở phương tây. Đám nông trường viên tắm rửa đã trở về lán. Những ngọn khói ngoằn ngoèo từ khu gia đình nhân viên nông trường bộ bay lên. Mùi thơm của thức ăn phảng phất trong gió. Tôi theo đường cũ về phòng. Quắc đã ăn cơm trước đang nằm duỗi dài trên giường. Thấy tôi anh nói:
- Mai tôi cho toàn thể các đội sản xuất lên rừng chặt gỗ. Cần phải làm lại cả kho chứa lương thực, cả kho chứa phân và các vật liệu nữa.
Tôi đáp:
- Anh bảo bếp nắm cơm cho tôi. Phần việc của tôi xong rồi. Tôi muốn cùng làm với các nông trường viên.
Quắc bảo:
- Theo tôi, anh nên ở nhà. Nhưng nếu anh muốn đi thì cũng được.
Tôi ngồi xuống ghế lật chiếc rổ nhựa úp trên phần cơm. Một tô cơm gạo dối, một tô canh loáng thoáng mấy ngọn rau, hai con cá kho và mấy miếng thịt rán. Món thịt rán là xuất riêng cho tôi với Quắc. Còn tất cả các nông trường viên chỉ thứ canh lõng bõng, mấy ngọn rau và cá biển kho. Thực đơn này ít nhất cũng hàng tháng ròng không đổi. Nhớ tới cậu bé bị phạt quỳ. Tôi hỏi Quắc:
- Cậu có biết vì sao các nông trường viên phải thay nhau vào rừng kiếm gà gô không?
Quắc ngáp rất to. Rồi trả lời:
- Tụi vô kỷ luật. Để ý tới chúng nó làm gì cho mệt. - Anh bẻ xương lưng răng rắc; - Tôi ngủ đây. Ăn xong, anh nhớ bóc mấy bì công văn của công an huyện gửi về.
Nói xong anh im bặt. Tôi chắc Quắc đã ngủ say. Gương mặt chai đá thật bình thản. Hai gồ xương lông mày nhô cao khiến đường nét của anh nhang nhác giống người Chàm.
Một con bướm đêm đập cánh loạn xạ trên ngọn đèn cầy. Nó tung lên làn bụi trắng mịn khiến tôi bật ho. Giãy giụa mãi con vật phù du vẫn không thoáng chết. Chờ nó cụp cánh nằm cứng đơ trên mặt bàn, tôi mới lấy bút gẩy đi. Rồi tôi bóc những bì công văn Quắc đặt dưới hòn đá chặn giấy. Công an huyện thông báo hoạt động của tụi phỉ Bắc đảo. Cách đây một tuần, chúng mò xuống các xóm dân cướp gạo, cá khô và thuốc hút. Ngày hôm qua, chúng đã đốt trụi lâm trường, bắn chết hai cán bộ kiểm lâm. Nông trường của chúng tôi nằm giáp lộ lớn và chỉ cách thị trấn vài chục cây số nên không hiểm nguy lắm. Nhưng dẫu sao cũng phải dè chừng. Tất cả các kho vựa chứa thóc gạo, vật liệu xây dựng và máy móc xăng dầu đều bằng gỗ ván sơ sài mỏng manh. Chỉ cần một mồi lửa của tụi phỉ hoại là tiêu ma.
Tôi ngủ muộn. Khi tôi thức dậy nông trường bộ vắng tanh. Chỉ còn cậu tài vụ ngồi gảy máy tính. Xuất xôi sáng của tôi đặt trên bàn với mẩu giấy Quắc ghi lại:
Nếu anh mệt cứ ở nhà. Nếu thích vào rừng cũng được vì tôi đã báo bếp ém cơm đi.
Tôi ăn sáng vội vã, chụp chiếc mũ quân nhân lên đầu rồi ghé qua bếp mượn dao chặt củi. Mấy cô cấp dưỡng mặc quần xà lỏn, áo xẻ tà đang hì hục bổ củi nhao nhao cất tiếng chào:
- Chú ở nhà cho khỏe. Trên đó lắm vắt đói. Nó đốt trầy da luôn...
- Chú ở nhà đi. Mấy trăm người vô rừng ăn nhằm chi một mạng nữa?
 - Ở nhà hôm nay cánh tụi con nấu canh chua cá suối cải thiện à…
Đám con gái này loàn là dân quê. Họ mau gần gũi với người khác bởi tâm tính hồn hậu và cởi mở. Tôi chào các cô cầm dao đi về phía đồng tranh. Vượt qua đây còn phải đi chừng hai cày số rưỡi nữa mới tới bìa rừng. Ngang khu lán bất giác thấy mình liếc nhìn gian nhà mẹ con Huệ lai ở. Cánh cửa mở. Và giây thép căng trước hiên phơi những chiếc áo diêm dúa của người đàn bà. Tại sao cô ta lại ở nhà? Không lẽ cô ta ốm hoặc đứa bé ốm? Có một giây tôi định vòng qua cửa xem xét, nhưng kịp dừng lại. Thật may mắn vì vừa lúc đó trong khuôn cửa ló ra một bộ mặt héo úa. Một bà già không thể đoán tuổi người cao lòng khòng, tóc xơ xác như cỏ mọc đồng chua. Bộ mặt bà ta dài gân guốc với hàm răng cũng dài và vàng khè khói thuốc. Có lần Vọp bảo tôi:
- Chị Huệ kiêu lắm. Chỉ không chịu ở cùng lán với đám con gái bụi đời, thậm chí không cho họ bước chân vào phòng mình. Vậy mà chỉ thương mụ trăn tinh đó.
- Bà ta làm nghề gì? - Tôi hỏi
- Bán dầu cù là, kim chỉ, ba thứ đồ ngoáy tai, quết trầu của dân quê - cậu bé trả lời tôi rồi nói thêm: Vậy mà chú biết bà ta lên là gì không?
Tôi lắc đầu. Vọp chẩu môi đáp:
- Kiều Nga... Tên mụ trăn tinh đó là Kiều Nga...
Người đàn bà bước ra biên xúc miệng òng ọc nhổ. Rồi ngoái đầu vào nhà nói:
- Ly, ca đi con. Ca đi vài câu không mày lại díp mắt ngủ trước bữa ăn bây giờ.
Tôi nghe con bé Ly ứ ừ phụng phịu. Và người đàn bà quát to:
- Dì biểu con ca lên. Ca lên không dì quất cho mấy roi đây nè.
Những chiếc răng ám khói nhe dài như răng ngựa. Sau đó tức khắc giọng hát ri rỉ của đứa bé cất lên:
Em ơi đời em gió dập mưa vùi
Như cánh hoa trong cát bụi...
Tôi bước vội để bà ta đừng thấy mình. Tiếng hát của đứa bé vẫn đuổi theo. Bài ca tan nát ấy chắc mẹ nó đã dạy. Cô ta đến làm hỏng đứa bé vì thói rượu chè và vì những bài hát sầu não như thế này. Chẳng lẽ nỗi thất vọng trong tình duyên ghê gớm đến mức làm cho Huệ lai không còn đứng dậy được nữa sao? Cô ta còn trẻ, còn khỏe mạnh. Và cô ta lại xinh đẹp đến như thế?... Quãng đường chói nắng như ngắn lại. Làn hơi rung rinh trong không khí cũng như những con chim cỏ chốc chốc lại vụt bay lên không còn làm tôi mê mải như mọi bữa. Tôi nôn nóng muốn tới rừng. Tiếng dao đẵn gỗ, tiếng rìu và cả tiếng cưa đã vọng ra rõ mồn một. Trong đám người đó có người đàn bà mà tôi đã không ngừng nghĩ tới. Mỗi lúc, tiếng rìu cưa, tiếng lao xao một rõ hơn. Thấp thoáng màu da rám đen hiện sau cây lá.
- A, chào ông giám đốc! Ông giám đốc lên úy lạo anh em!
- Chú Hưởng tới rồi nè. Chào chú!...
Mọi người đã thấy tôi trước khi thấy họ. Ngay tức khắc họ đã quây kín xung quanh. Đàn ông lẫn đàn bà. Các thiếu niên và các cô gái. Tất cả đều bận quần cụ và áo hở nách, một thứ trang phục khiến cho mọi người đều giống như một lũ híp-pi. Trời quá nóng. Không khí ẩm bị hun ngưng đọng giữa các tầng lá dày và mặt đất giống như trong nồi súp-dc. Chẳng có lấy một gợn gió. Ngay cả những dây bướm bạc mỏng manh leo khắp các bờ vực cũng đứng im phăng phắc. Vừa ở ngoài đồng tranh vào, tôi như ngộp thở. Mồ hôi bắt đầu vã ra sau lưng, trước ngực, chảy ròng ròng trên mặt và ướt đầm mái tóc. Tôi lật mũ ngồi xuống một thân cây vừa chặt. Đám người xúm quanh:
- Giám đốc lên, nghỉ đã anh em!
Một tay đội trưởng hô to. Tiếng anh ném vào các vách đá dội lại hai ba lần nghe cứ như người hét trong một chiếc thùng đậy kín nắp. Các nông trường viên tiếp tục kéo đến. Không thấy Huệ lai đâu. Đám đàn bà con gái cùng lán với cô ta ngồi thành cụm phía sau những chàng trai. Vài cậu lăn kềnh tấm lưng trần xuống đất:
- Trời ơi, sướng quá chừng...
Tôi bảo:
- Hơi đất ngấm vào dễ cảm lắm. Chịu đựng lát nữa sẽ có gió. Ngồi lên đi...
Một chàng trai nhỏm dậy. Cậu ta có gương mặt tròn trịa như mặt thiếu nữ. Nhưng lại để hàng ria con kiến trên môi:
- Trời đất. Bộ chú sợ con cảm hay sao?
Tôi gật đầu.
Chàng trai phá lên cười:
- Cảm như vậy làm sao sống nổi tới hôm nay?
Cậu ta cười sằng sặc như một kẻ điên. Trong tiếng cười đó ẩn giấu sự cợt nhả thật khó chịu. Lặng lẽ, tôi móc bao thuốc trong túi mời đám đông. Một người đàn ông trạc tứ tuần quẹt lửa châm thuốc cho tôi nói:
- Ông giám đốc chưa biết đó thôi. Chú em này là dân làm mướn miệt đồng. Đã là dân làm mướn miệt đồng làm sao còn sợ hơi đất?... Ông có thấy những túp rơm nhỏ xíu dọc các con lộ không?...
Tôi đáp:
- Trước giải phóng tôi ở trong rừng. Gần đây tôi cũng có vài lần thấy những túp rơm đó. Tôi nghĩ rằng người ta dùng để cất nông cụ cho khỏi han rỉ.
Người dàn ông dúi điếu thuốc tôi vừa mời vào tay một cậu mới tới, rồi móc chiếc túi đựng thuốc ở thắt lưng ra. Chiếc túi thuộc da đen bóng như lụa. Người đàn ông thong thả cuộn thuốc, mồi lửa và nói tiếp:
- Đó. Chính những túp rơm đó là nhà của dám dân này. Họ chỉ dựng nhà vào những dịp công việc vẫn nhiều, đàn bà sinh nở, hoặc không may có đứa bé nào đó mắc bệnh trọng. Còn quanh năm họ lang thang từ miệt đồng này tới miệt đồng kia. Mùa gieo cày vỡ đất gieo hạt mướn. Mùa gặt, gặt lúa, giũ lúa, chở lúa cho đám chủ ruộng. Rồi lượm hạt vãi hạt rơi. Kẻ làm mướn kiếm đâu ra nhà? Họ gần giống như thứ dân đánh cá đen. Tức thị là người trốn tù, bỏ xứ đóng một chiếc thuyền câu chui nhủi trong các mương rạch giữa rừng rậm mà bắt rùa, bắt vích, đâm cá qua ngày. Tới đâu, dân làm mướn gánh theo gia tài tới đó. Gia tài nhiều nhặn gì? Túi gạo, dăm ba cái bàu đựng nước, vài bộ quần áo, dăm chiếc chén ăn cơm. Ngày xưa là chén đá, giờ chén nhựa. Một tô đựng canh. Ít tiền tích cóp được. Làm mướn đồng nào mua thức ăn đồng ấy. Nấu nồi cơm, tô canh còn con cá nướng bày lên lá chuối. Tối đến chui vào nóp, úp chiếc nón lên mặt hệt như con sâu kèn.
Tôi ngắt lời anh ta:
- Nhưng còn những ngày mưa?
Người đàn ông bập một hơi thuốc thật sâu, nuốt khói rồi đáp:
- Ông giám đốc chưa sống qua một mùa mưa vùng ruộng nên chua biết, có gì khó khăn đâu? Mưa to mấy nước cũng rót xuống chỗ trũng. Vậy thì chọn gò cao quấn vải nhựa mà nằm, úp nón lên mặt. Cứ yên tâm chờ mưa lạnh, đứng dậy gỡ áo mưa ra hơ nắng một chặp là khô cong. - Nhìn vẻ mặt tôi, ông ta tủm tỉm cười nói tiếp:
- Chắc ông giám đốc sẽ hỏi, khi đàn bà sinh nở, bà già con trẻ đau ốm thì sao? Vậy nè: Đã dân phiêu bạt thì không có quyền được ốm. Đàn bà tới cữ sanh chồng lo kiếm rơm túp lên chóp lều cho vợ. Đó, những túp rơm ông đã thấy ven đường. Đứa bé khóc chào đời trong các túp lều, khi bố nó ngồi chực ngoài trời, còn mẹ nó thò hai cẳng chân cho mụ đỡ lau rửa các vết máu. Dẫu đêm tối hay trưa nắng rọi cuộc sống đứa bé vẫn bắt đầu như vậy. Rồi nó được bú mớm tránh nắng, tránh mưa trong các túp rơm tới ngày đầy tháng. Khi đó họ đốt mái lều, bế đứa trẻ ra đi...
Người đàn ông ngừng lại. Trong đôi mắt xa xôi của ông ta ánh lên một thứ tia sáng vừa như cười cợt vừa như buồn phiền. Sau làn khói thuốc, gương mặt ông ta càng thêm phiêu lãng. Tuy vậy tôi không đọc thấy nét dãi dầu chất phác của dân xứ ruộng. Trước đây ông ta làm nghề gì? Câu hỏi chập chờn trong óc tôi. Lúc đó, ông ta lại nói tiếp:
- Dân Tsư-gan ở châu Âu cũng sống lang thang trên các ngả đường. Gia tài chất trong chiếc xe ngựa. Nhưng họ không thể cày thuê, cuốc mướn như đám dân miệt ruộng của mình. Họ sống bằng nghề trộm cắp, bói bài, đoán mộng và nhảy múa. Ông giám đốc thấy không? Ngay cả loại người lang thang ở nước mình cũng cơ cục và cần cù hơn xứ khác.
Ông lại mở bao thuốc, bốc ra một nhúm. Lần này tôi thấy miệng bao da viền bạc và chốt bấm cũng bằng bạc tán. Vì dùng nhiều nên lớp da mềm óng mịn như vuốt sáp: Chắc chắn ông ta không phải dân làm mướn. Tôi thầm nghĩ.
Một giọng đàn bà cất lên:
- Anh Hai kể làm chi chuyện bao đồng. Ông giám dốc lo tính việc lớn chớ đâu cần biết túp lều của dân làm mướn?
Giọng Huệ lai. Cô ta ngồi giữa đám phụ nữ với dáng điệu của con công đứng giữa bầy gà. Chiếc áo vải mỏng bó trong lưng quần Soóc. Thân thể và cặp đùi trắng như bọt biển phô diễn trọn vẹn sức hấp dẫn đàn bà. Nhưng vẻ mặt tinh quái của cô ta lại giống như một thiếu niên. Thấy tôi đưa mắt nhìn Huệ lai mỉm cười. Nụ cười đó xóa đi giọng nói đầy khích bác. Nó thật hồn nhiên và vui tươi. Cậu bé làm mướn miệt đồng đang lăn dưới đất nói với tôi:
- Chú đừng giận chị Huệ lai nghen. Quanh năm bả nói rỡn không mà...
May mắn sao cơn gió đầu tiên đã thổi tới. Những vòm lá xào xạc đu đưa khắp bốn bên. Tôi đứng dậy nói thật dõng dạc để trấn áp nỗi ngượng ngùng:
- Mát rồi đấy. Tiếp lục làm đi thôi.
Đám đông quanh tôi đứng dậy. Từng tốp một tản mát sau các bụi rậm, các thân gỗ ngổn ngang. Tôi đi sâu vào phía trong tìm Quắc. Chắc chắn anh đi cùng với đội sản xuất của Phức tiến sang dãy núi bên kia.
Từ ngày hạ lệnh cấm phạt quỳ và cảnh cáo Phức tôi chưa hề gặp mặt anh ta ngoài những cuộc họp chung của các đội trưởng. Có lẽ con người này cảm thấy sự khó chịu của tôi nên luôn luôn tìm cách lẩn tránh. Có lần thấy tôi bước lên cây gỗ bắc ngang vực, anh ta đã nấp vào bụi rậm chờ tôi đi khuất mới ló mặt ra. Mấy cô nấu bếp vào rừng kiếm lá thơm nấu thịt bò chứng kiến đã kể lại với Vọp. Rồi Vọp kể lại với tôi. Cậu lái xe còn nói thêm rằng Phức nịnh Quắc thật ghê gớm. Kể cả hai giám đốc trước anh ta cũng không quỵ lụy đến như vậy. Quắc đi đâu, bất kể vào rừng hay ra xóm dân chơi, xuống thị trấn hay dạo mát quanh vườn, Phức đều đeo súng đi theo bảo vệ. Ngoài chức đội trưởng sản xuất, anh ta còn là đội phó đội tự vệ của nông trường. Huyện đội đã phát súng cho họ từ ngày đầu thành lập:
- Chú cứ tưởng tượng xem. Chú Quắc đi trước còn ổng bồng súng đi sau. Hệt như sĩ quan cận vệ đi hầu đại tướng...
Thế nhưng năng suất lao động ở đội Phức bao giờ cũng nhất nhì nông trường. Điều đó khiến tôi hoang mang. Đã ba lần Quắc bảo:
- Anh cứ xét thành tích cụ thể thì biết. Sách lược dùng người của tôi hơn bài bản chánh trị suông không?
Tôi biết rõ Phức vẫn dùng mọi cách hăm dọa kỷ luật các đội viên trong đội. Mặc dù đã phải bãi bỏ hình thức phạt quỳ phơi nắng. Không lẽ roi vọt và sự nhục hạ lại làm tăng phẩm chất lao động của con người? Không lẽ có những thứ người chỉ thích hợp với cách thức giáo dục bằng bạo lực? Mọi lý lẽ của Quắc đều hàm chứa chiều sâu đời sống và sự nghiệm sinh. Anh tự tin hơn tôi và kiên quyết hơn tôi. Có lẽ anh là một người đàn ông đích thực. Có lẽ trong tôi có một khoảng trống mà cuộc sống thời chiến không thể lấp đầy. Các chiến thuật, sự tinh nhạy, sức chịu đựng dẻo dai, tình bằng hữu... Tất cả những phẩm hạnh giúp con người vượt qua mọi nan nguy trong chiến tranh giờ đây chưa được thử nghiệm. Nó vẫn là các ẩn số giống như những cánh buồm bập bềnh trong lớp mù khơi. Có thể đó là những con thuyền. Cũng có thể đó chỉ là ảo giác của người trên bờ biển. Chưa có gì chắc chắn.
Những ý nghĩ đó bám lấy tôi. Chân tôi bước hoàn toàn theo thói quen. Những thân gỗ thẳng, những cành tươi cong queo hay nứt nẻ, những đám lá đung đưa sàng sẩy ánh nắng xuống khoảng rừng thưa... Tất cả lướt qua mắt tôi như những cột số lướt qua mắt kẻ bộ hành.
- Á á á…
Một tiếng thét thất thanh đột ngột xé rách màng nhĩ. Đầu tôi choáng váng như uống rượu say trúng gió. Tôi đứng lặng giữa lối đi không hiểu chuyện gì đã tới. Thoạt tiên, tôi chỉ đoán biết đó là tiếng hét của con người. Sau đó tôi nghĩ tới tai nạn lao động xảy ra. Hoặc có người trèo cây ngã xuống vực. Hoặc ai đấy bị gỗ đè. Những khả năng tồi tệ nhất đã phải tính trước, lúc bắt tay vào việc. Nghĩ thế tôi nhìn quanh. Bên trái tôi, Huệ lai đứng như pho tượng. Không hiểu bằng cách nào mà cô đã rơi sát bên tôi. Gương mặt người đàn bà biến dạng. Đôi mắt bạc phếch, làn da trắng mịn biến mất những gợn hồng li ti trở thành mảng da trắng. Cặp môi xinh xắn nhợt màu run run không khép lại được. Cô ta đứng gần đến nỗi chỉ quay đầu thêm chút nữa, mặt tôi sẽ chạm vào má cô. Tôi nhìn rõ từng sợi mi cong tròn làn mi đen thẳm và đám lông tơ dưới những sợi tóc mai. Tôi cũng nhìn rõ cả những giọt mồ hôi trong suốt đọng trên cánh mũi. Trong khi tôi lặng lẽ nhìn người đàn bà, chính cô ta cũng giương mắt trân trân nhìn tôi. Nhưng ánh mắt sợ hãi man dại của cô khiến tôi thấy mình giống như một thây ma và bước lên từ nấm mồ hoặc một sứ giả của hành tinh khác. Tôi lùi lại. Lúc đó, tôi nhìn thấy con rắn xanh trong tay Huệ lai. Đó là một con rắn lục. Những ai đã từng ở trong rừng sâu đều hiểu thế nào là tai ách này. Trong mọi thứ hiểm họa, nó là thứ hiểm họa đáng kinh hãi nhất. Loài rắn bé nhỏ có màu diệp lục thường lẫn trong những đám lá khiến người đi đường trở nên mù lòa và bất cẩn. Những đám lá rắn ẩn náu thường có chiều cao ngang với tầm cao của con người. Thế là từ vị trí độc ác ấy, nó phóng tới mổ kẻ xấu số. Nọc rắn lục độc hơn cả nọc rắn hổ mang hoặc mai gầm. Vết thương lại thường ở trán, gáy và mang tai nên vô phương cứu chữa. Tôi đã nghe kể về thứ rắn khủng khiếp này từ ngày mặc áo lính. Nhưng bao nhiêu năm sống trong rừng, từ rừng Việt Bắc đến rừng Tây Bắc. Từ rừng Lào tới rừng phương Nam, tôi chưa hề đụng độ.
Vậy mà, tôi gặp nó ở đây. Con quỷ xanh ngọ nguậy điên cuồng trong bàn tay trắng muốt của người đàn bà. Huệ lai đã cứu sống mình. Tôi chợt hiểu...
Con rắn lục cong đuôi quấn quanh cổ tay Huệ lai như chiếc vòng. Tôi vội nắm chặt bàn tay ấy đặt lên khúc rễ cây chồi trên mặt đất. Bắt buộc người đàn bà phải ngồi xuống bên tôi. Hơi thở cô khiến một bên tai tôi buồn buồn. Tôi nhặt hòn đá gần đấy đập nát cái đầu dẹt và xanh của con rắn. Giữa hai hai hàm răng chiếc lưỡi chẻ của nó vẫn phóng lo loe không ngừng. Người đàn bà chỉ lỏng tay chút xíu con rắn sẽ quay sang đớp cổ tay cô ta. Và lúc đó... Tôi rùng mình. Cái đầu rắn đã nát bét trên khúc rễ cây, tôi vẫn đập mãi như hóa cuồng. Hai má người đàn bà đã nổi lên những mạch máu li ti giống hệt hai cánh hoa hồng xứ Bắc. Cô ta nhìn tôi cười nghặt nghẽo:
- Thôi, kẻo rắn không chết mà tay tôi bấy ra đây nè...
Chợt tỉnh, tôi dừng lại. Cả tay tôi lẫn tay Huệ lai đều chi chít vệt máu rắn. Đầu con vật độc ác đã bẹt như mảnh vỏ cây trộn lẫn với rễ cây và đất cát xung quanh.
Hai chúng tôi cùng đứng dậy. Lúc đó sự gần gũi khiến tôi luống cuống. Tôi định nói: “Cô đã cứu sống tôi. Xin cảm ơn cô...”. Nhưng ý nghĩ ấy chỉ hình thành trong óc não. Lưỡi tôi trở nên vụng dại và tôi đứng đờ ra. Người đàn bà đã linh hoạt. Cặp môi cô lấy lại sắc hồng cười ngạo nghễ:
- Bữa nay ông được mẻ hoảng hồn. Về nhà nhớ cúng tiên tổ nghen...
Cái giọng nói ngạo nghễ của Huệ lai không còn làm tôi khó chịu. Nó bao hàm tính nghịch ngợm và hài hước của một chú nhỏ hơn là sự kiêu sa của một người đàn bà. Tôi cũng cười và đáp:
- Nếu biết cúng tôi sẽ cúng ngay. Hay tôi nhờ cô làm giúp?
Huệ lai cười thành tiếng rồi biến sau một đám cây. Tôi tiếp tục sang trái núi bên kia tìm Quắc. Nhưng suốt đường đi một thứ rượu ngọt ngấm vào huyết mạch khiến tôi nửa như say, nửa êm ái như ngâm mình trong suối mát. Những cơn gió ngoài đồng tranh thổi mọi lúc mỗi mạnh hơn. Làn hơi ẩm và nóng ngưng tụ giữa mặt đất với các tầng lá dầy bị gió lùa như một con thú khổng lồ đi qua cọ vào thịt da ta tấm thân mềm mại và ấm nóng.
Năm giờ chiều, khi chúng tôi ra khỏi rừng cây. Trời bỗng đổ mưa. Thoại tiên chỉ nghe tiếng gió hụt hơi chìm xuống. Và lúc đó không trung ngưng trệ oi ả khiến người ta tức thở. Sau khoảnh khắc vờ vĩnh đó, cơn giông từ khơi xa kéo về. Những đợt gió lạnh ẩm ướt chồm lên nhau phóng qua đất đai, rừng núi. Cứ mỗi cơn gió lại có những tiếng rền xa xôi từ khoảng trời mịt mùng âm u nào vẳng tới. Âm thanh đó giả trá như những âm thanh trong cơn mê của kẻ mắc chứng tâm thần. Rồi đột nhiên, một tiếng sấm nổ rền cuối chân mây. Những núi mây đen trồi lên như hung thần nhô từ đáy nước. Ngay tức khác cả vòm trời tối sầm lại. Rồi đột ngột, lộp độp những hạt mưa giáo đầu ném xuống vai kẻ bộ hành. Mỗi hạt mưa lớn bằng đồng xu. Chưa có cơn mưa rừng, mưa biển nào tôi đã gặp trong đời lại có những hạt mưa lớn như vậy. Khi in lên mặt đất nó để lại vô số những ngôi sao nhiều cánh vừa vặn một đồng bạc đánh cảm mà các bà già vẫn đeo trong túi bảo bối bên mình. Mỗi hạt mưa nặng như một viên sỏi ném xuống khiến ai nấy tưởng thiên nhiên trừng trị mình vì những tội lỗi còn ủ trong bóng tối. Khi làn mưa giáo đầu chấm dứt, những tràng pháo trắng xóa nổ tung khắp nơi. Mặt đất chìm trong một trận gieo nảy điên cuồng, ồ ạt. Những roi nước vụt xuống liên hồi không ngưng nghỉ. Ngàn ngàn tiếng động trầm đục đan hòa nhau. Mưa quẫy lộn như một con giao long cuồng dại. Chân trời bị đục ruỗng bởi tiếng mưa khoan xoáy. Rừng cây, xóm trại, đồng cỏ, đồi núi chìm dưới dòng thác tàn nhẫn.Thỉnh thoảng tia chớp xé vòm trời lóe lên ngọn lửa nồng nhiệt, để sau đó sấm bùng nổ giữa thinh không như tín hiệu của một cuộc tế lễ uy nghi.
Từ ngày tới đảo, đây là cơn mưa đầu tiên. Cũng là lần đầu tiên tôi chứng kiến cảnh thiên nhiên hùng vĩ thế. Rừng cây đang gào rú sau lưng. Tôi chưa tìm đâu ra chỗ trú, đã có bàn tay ai lay nhẹ:
- Chạy đi. Vào lều đốt than kia kìa.
Tiếng nói bị quất chìm ngay xuống. Cả bóng người cũng lướt qua mắt tôi như một vệt nước trắng đục. Tôi bỗng cảm thấy đó là Huệ lai. Và không kịp suy nghĩ, tôi chạy theo vệt nước xối, giống như những người dân bộ lạc chạy theo tiếng gọi của ngẫu thần.
Cách cửa rừng chừng ba trăm mét, có một dãy lều nhỏ. Đó là lều trú ngụ của những người đốt than. Người ta dựng chúng lên vào thời khắc an nhàn nhất trong năm. Khi các vườn điều đã thu trái. Các đồi dứa đang còn xanh và những chuyến xe từ miệt biển chưa đem theo mùi tanh nồng nặc của những lồ cá trích, cá phèn. Dân đảo dùng thứ cá đó làm phân bón tiêu, bón trái đào lộn hột và bón củ mì. Những nguồn sống chính không còn bận rộn, dân xóm trại vào rừng đốt than. Các cánh rừng thay đổi luôn vì mỗi ngày các bì than thêm đắt và do đó thêm quyến rũ những ai ham kiếm tiền. Những cánh rừng ít hiểm trở bị dân đốt than bóc trơ trọi. Mùa than qua, họ phóng lửa đốt tiêu những lều canh và các hầm than há hốc cái miệng đen sì tang thương như mõm con cá sấu bị bỏ hết răng. Đôi khi, họ không đốt mà bỏ mặc những mái lều đó ải dần, tới lúc sập xuống. Nhờ vậy chúng tôi tìm được chỗ trú thân.
Tôi đến quá muộn. Người dẫn đường của tôi đã đứng giữa đám chị em vuốt những lọn tóc ướt sũng. Khi tôi bước vào, cô ta không thèm quay mặt ra mà chăm chăm nhìn vào ngọn lửa vừa nhóm. Đám đàn bà nhanh chân vào trước đã kịp kiếm những cành củi vương vãi trong lều nhen lửa. Những cành nhỏ còn khô bén bát đầu cháy. Nhưng những cành ướt bên trên bốc khói trắng mù. Mấy bà mấy cô thi nhau thổi. Sau lưng họ, trai tráng đứng ngồi thành từng cụm. Họ nhìn dòng thác trắng đổ ào ào ngoài mái tranh. Nét mặt họ thản nhiên chẳng nôn nóng cũng không bực tức. Họ ra đảo đã hai năm và quen với thứ mưa này.
- A, khá thiệt, khá thiệt… Coi chừng mà mưa đá đó nghe…
Người đàn ông khi nãy nói chuvện với tôi kêu trong tiếng gào thét của rừng cây bị gió giật và mưa xói. Cậu bé miệt đồng nói theo:
- Chú nói năm nay mưa lớn hơn năm trước không? Cháu e như vậy?
Người đàn ông gật gù giơ tay gạt lớp bụi nước bắn vào mặt. Nhìn qua làn nước ngoài mái tranh, tôi thấy lờ mờ những bóng người trú ngụ trong các lều lân cận. Lều nào cũng đã nhen lửa vì từng cuộn khói như một thứ bông bẩn không tan được quần tụ lửng lơ trong các khoảng trống nhỏ hẹp mà khối nước mênh mông kia còn chừa ra.
Người đàn ông có bao thuốc bằng da quay lại nhìn tôi:
- Ủa, ông giám đốc cũng vô lều này sao? Mời ông tới sưởi lửa.
Tôi lắc đầu:
- Cám ơn. Không cần đâu.
Người đàn ông kéo tay tôi:
- Ông sẽ lạnh ngay bây giờ. Coi chừng bịnh đó.
Ông ta bảo mấy cô gái:
- Dẹp ra tụi bay. Con gái gì vô ý vậy? Lẽ ra thấy mấy ông già là phải qua một bên nhường chỗ chứ?