Trong các tác phẩm của mình, Kim Dung đã đề cập đến nhiều nhơn vật võ công trác tuyệt. Nghiên cứu kỹ tài nghệ và đức tánh của một số trong các nhơn vật này ta có thể nhận thấy rằng Kim Dung đã dùng họ để tượng trưng cho một vài quốc gia đặc biệt trên thế giới, hoặc để mô tả một vài chánh khách nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc cận đại.
MỤC 1:
CÁC NHƠN VẬT TƯỢNG TRƯNG
CHO MỘT VÀI QUỐC GIA
ĐẶC BIỆT TRÊN THẾ GIỚI.
Luận võ trên đỉnh Hoa Sơn để xác nhận vai tuồng bá chủ võ lâm là một đề tài đã được Kim Dung khai thác trong ba bộ truyện võ hiệp VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP. Tên bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ thật ra không thấy có trong danh sách các tác phẩm được Ông Hàn Giang Nhạn cho biết là chắc chắn do Kim Dung sáng tác (theo lời Dịch giả cho bản dịch LỘC ĐỈNH KÝ, Quyển 1-2 trang 3). Bởi đó, chúng ta không thể biết chắc là tác phẩm này quả thật của Kim Dung hay do người khác viết rồi gán cho Kim Dung. Nhưng trừ ra một vài điểm nhỏ nhặt, còn thì phần lớn các chi tiết về các nhơn vật chánh yếu trong đó đều phù hợp nhau nên chúng tôi nghĩ có thể dùng bộ truyện này làm một trong các tài liệu để nghiên cứu về đề tài luận võ ở Hoa Sơn được Kim Dung nêu ra.
Kể cho đủ hết thì có đến ba kỳ luận võ như vậy. Nhưng thật sự thì kỳ luận võ thứ nhì không đưa đến kết quả gì, còn trong kỳ luận võ thứ ba thì các cao thủ võ lâm gặp nhau về việc này là người đã có danh vọng rồi, lại có tinh thần hoà hợp với nhau nên đã không tỷ thí với nhau để phân hơn kém. Vậy, rốt cuộc lại, chỉ có cuộc luận võ đầu tiên là thật sự quan trọng.
Trong cuộc luận võ đầu tiên này, có 5 nhơn vật tham dự. Họ được gọi chung là Võ Lâm Ngũ Bá và mang ngoại hiệu Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái và Nam Đế. Năm nhơn vật này đã có ý thật sự tỷ thí với nhau với mục đích phân hơn kém và quyết định xem ai là người được quyền giữ bộ CỬU ÂM CHÂN KINH. Sau cuộc tỷ thí rất gay go này, mọi người đều công nhận rằng TrungThần Thông có võ cao diệu hơn hết, còn những người khác thì tài nghệ suýt soát như nhau. Ngoài họ ra, còn một nhơn vật thứ sáu được xem là đồng tài nghệ với họ, nhưng không dự cuộc luận võ này. Đó là Bang Chủ của Thiết Chưởng Bang.
Nếu chỉ xét bề ngoài câu chuyện thì Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế và Bang Chủ Thiết Chưởng Bang là những người nhờ dày công tập luyện về nội công và võ nghệ, và có người còn nhờ thêm cơ duyên tiêu thụ được một vật quí hiếm có, mà trở thành những cao thủ siêu tuyệt trong võ lâm. Nhưng khi xem kỹ các chi tiết liên hệ đến họ, chúng ta có thể nhận thấy rằng họ đã được Kim Dung dùng để ám chỉ một số quốc gia đặc biệt trên thế giới. Trong số các quốc gia được ám chỉ như vậy, laị có những quốc gia được ít nhiều thể hiện bằng những chánh khách có thật, và những quốc gia không có chánh khách biểu tượng cụ thể. Mặt khác, có khi một nhơn vật đã được dùng để tượng trưng cho một khối gồm nhiều quốc gia có những đặc điểm chung nhau.
Nhưng điều chúng ta nên để ý là tác giả các bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP không phải dùng cốt chuyện của các bộ truyện võ hiệp này để kể lại cả lịch sử thật sự của các quốc gia được ông ám chỉ qua các nhơn vật võ lâm. Mục đích chánh yếu của ông là nêu ra các đặc tánh của các quốc gia hay khối quốc gia ấy. Các đặc tánh này dựa vào nền văn hoá và tâm lý nhơn dân, nó lại đưa đến những khả năng cá biệt của quốc gia trong cuộc tranh đấu với các quốc gia khác. Nói chung thì Kim Dung chỉ nêu ra một vài chi tiết liên hệ đến lịch sử các quốc gia ấy, theo cái nhìn của ông. Do đó, thời điểm tương ứng của các việc xảy ra trong các câu chuyện và của các cố sự mà nó ám chỉ không phải luôn luôn phù hợp với nhau. Mặt khác, vì quan điểm của Kim Dung đối với các quốc gia được ông ám chỉ bằng các nhơn vật võ lâm đã có sự thay đổi theo dòng thời gian nên trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, cách ông mô tả một vài nhơn vật trong số này cũng có hơi khác cách ông mô tả họ trong hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU.
Ta có thể nhận thấy ý Kim Dung muốn dùng các nhơn vật võ lâm để ám chỉ một số quốc gia trên thế giới trong đoạn ông mô tả cuộc luận võ đầu tiên ở Hoa Sơn. Trong một giai đoạn của cuộc luận võ này, Võ Lâm Ngũ Bá đã tỷ thí với nhau theo lối “ngũ quốc giao binh”, dịch sát nghĩa chữ là “năm nước tranh chiến với nhau.”. Theo lối tỷ thí này thì mỗi người chiếm một phương vị ngũ hành rồi dùng nội công kình lực công kích người khác theo thủ pháp nào cũng được. Năm vị cao thủ tham dự cuộc luận võ được tự do chọn lựa đối thủ, muốn đấu với ai cũng được mà muốn giúp ai cũng được. Vậy, Kim Dung đã trực tiếp dùng từ ngữ “ngũ quốc” tức là “năm nước” để chỉ các cao thủ luận võ với nhau. Ngoài ra, sự diễn tiến của cuộc tỷ thí theo ông mô tả đã cho thấy là những người có cảm tình với nhau có khi đã giúp nhau, nhưng cũng có khi đã thình lình đột kích nhau, và do đó mà đỡ đòn cho người họ không ưa thích. Điều này phù hợp với sự thật trong đời sống quốc tế, là các nước thân nhau có thể giúp nhau mà cũng có thể đánh nhau những đòn bất ngờ, trong khi các nước đối nghịch nhau thường chống nhau mà cũng có khi trợ lực cho nhau một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Với các dữ kiện trêông không đến nỗi quá tệ hại như Tây Độc, nhưng cũng có những thủ đoạn không chánh đáng, như việc bắt giam hay dùng mưu gạt gẫm Châu Bá Thông chẳng hạn. Đối với những người kế vị Trung Thần Thông để lãnh đạo phái Toàn Chân, Đông Tà nhiều khi đã tỏ ra thiếu sự kính trọng và đã có ý muốn lấn áp họ. Khi các đạo sĩ kế vị Trung Thần Thông lãnh đạo phái Toàn Chân lầm tưởng rằng ông đã giam sư thúc họ là Châu Bả Thông và tấn công ông, Đông Tà không thèm giải thích ngay để giải tỏa sự hiểu lầm và sự thù hận. Ông đã tận lực giao đấu với họ và có dụng ý phá tan Thiên Cương Bắc Đẩu Trận của họ rồi mới nói sự thật cho họ biết. Điều này hàm ý rằng người Nhựt không phải xem Trung Quốc như bạn và ngay đến những lúc không có chủ trương làm hại cho Trung Quốc, họ cũng muốn áp đảo Trung Quốc về mặt tinh thần. Tuy nhiên, Đông Tà cũng có khi giúp phái Toàn Chân. Ông đã cứu Châu Bá Thông thoát khỏi sự hãm hại của hai anh em Âm Trường Giang và Âm Trường Hà trên đảo Lục Hoành. Tuy mục đích cuối cùng của ông là đưa Châu Bả Thông về đảo Đào Hoa để dùng Châu Bá Thông trong việc nghiên cứu võ cõng của phái Toàn Chân, ông cũng đã làm một điều có lợi cho phái này.
Đối với các nước Tây Phương, nước Nhựt cũng vừa theo vừa chống. Khi áp dụng chánh sách canh tân tự cường vào hậu bán thế kỷ thứ 19, người Nhựt đã học hỏi nhiều nơi các nước Tây Phương. Họ đã thâu nhận một số lề lối làm việc của người Tây Phương. Nhưng ngay đến lúc nước họ đã kỹ nghệ hóa, họ vẫn duy trì một số phong tục cổ truyền của họ và vẫn tự phân biệt với người Tây Phương. Điều này đã được Kim Dung ám chỉ qua một số chi tiết trong hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU. Đông Tà tượng trưng cho nước Nhựt có lúc đã muốn gả con gái là Hoàng Dung cho Âu Dương Công Tử là cháu của Tây Độc, tượng trưng cho các nước Tây Phương. Tuy nhiên, Đông Tà cũng đã nhiều lần chống lại Tây Độc. Cuối cùng, ông đã cho Tây Độc biết rõ rằng ông không phải thuộc loại người của Tây Độc. Tuy có tánh cao ngạo, hay nói và làm ngược lại thế tục, ông vẫn kính trọng các anh hùng liệt sĩ và tôn trọng lẽ phải chớ không phải tàn ngược như Tây Độc. Tây Độc đã giết một ông thầy đồ chỉ vì ông này giảng dạy những điều mà Tây Độc bảo là đạo đức giả, nhưng Đông Tà đã đem chôn cái đầu của ông đồ ấy và tỏ vẻ cảm thương về cái chết của ông ta.
Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, tuy vẫn duy trì ngoại hiệu Đông Tà cho nhơn vật tượng trưng cho nước Nhựt, Kim Dung đã nói đến ông với nhiều thiện cảm hơn. Mặt khác, Đông Tà đã tỏ ra rất ưa thích Dương Quá. Ông đã dạy cho Dương Quá các môn công phu độc đáo của ông và đã kết bạn với Dương Quá mặc dầu tuổi tác hai người cách biệt nhau xa. Điều này đã được Kim Dung dùng để ám chỉ việc Nhựt và Mỹ đã trở thành hai nước thân hữu sau trận Thế Chiến II, mặc dầu một bên có nền văn hóa cổ truyền lâu đời, một bên là một quốc gia mới được xây dựng trong hai thế kỷ sau này.
C- SỰ GIAO THIỆP GIỮA LIÊN SÔ VỚI TRUNG QUỐC, NHỰT VÀ CÁC NƯỚC TÂY PHƯƠNG, BIỂU LỘ QUA SỰ GIAO THIỆP GIỮA BẮC CÁI VỚI TRUNG THẦN THÔNG, ĐÔNG TÀ, TÂY ĐỘC
Về Liên Sô thì lúc mới thành lập, nước ấy đã có một chánh sách thân hữu với Trung Quốc và đã giúp Trung Quốc tự tổ chức để chống lại các nước Tây phương. Liên Sô đã gởi sang Trung Quốc một phái bộ do Borodin cầm đầu và phái bộ này đã có một vai tuồng đáng kể trong việc xây dựng các cơ cấu của Trung Hoa Dân Quốc thời ông Tôn Văn cầm quyền. Phần Kim Dung thì khi viết các bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, ông hãy còn thiên tả. Bởi đó, ông đã mô tả Bắc Cái, nhơn vật tượng trung cho Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc Tế như lả một bực anh hùng cái thế và giàu lỏng nghĩa hiệp. Tuy có tỷ thí với Trung Thần Thông để phân hơn kém, Bắc Cái không nuôi ỳ đồ cướp đoạt CỬU ÂM CHÂN KINH trong tay phái Toàn Chân như Tây Độc, Đông Tà. Ông và Trung Thần Thông đã tỏ ra rất tôn trọng nhau và đã có giúp đỡ nhau. Trung Thần Thông đã từng cứu Bắc Cái khỏi thuật Chiêu Hồn và ngón đòn độc hại của Ô Vưu Đạo Nhơn. Trong cuộc luận võ đầu tiên ở Hoa Sơn, Bắc Cái lại nói khéo cho Trung Thần Thông lưu ý đến các âm mưu gian hiểm của Tây Độc, đồng thời dùng tiếng hú để nhắc Trung Thần Thông là phải có thái độ tích cực chớ không thể ngồi yên mà nghe tiếng đàn tranh của Tây Độc và tiếng tiêu của Đông Tà, vì hai loại âm thanh này phụ họa với nhau làm cho thần trí Trung Thần Thông khó tránh được sự dao động thành ra phải thua trận.
Đổi vớt Đông Tà, Bắc Cái không thân như đối với Trung Thần Thông, nhưng Bắc Cái vẫn có sự tôn trọng Đông Tà. Riêng đối với Tây Độc thì Bắc Cái ra mặt chống đối mạnh mẽ và liên tục. Phần Tây Độc cũng rất ghét Bắc Cái. Khi hai bên từ đảo Đào Hoa về đất liền và cùng ở trên một chiếc thuyền, họ đã gây sự đánh nhau. Bắc Cái đã tha cho cho Tây Độc một lần và đã cứu Tây Độc hai lần khỏi chết. Nhưng liền theo đó, Tây Độc lại thừa lúc Bắc Cái ơ hờ để tấn công Bắc Cái bằng công phu Cấp Mô Công làm cho Bắc Cái bị trọng thương đến mất hết công lực. Khi cho thấy Bắc Cái và Tây Độc luôn luôn xung đột và kích bác lẫn nhau, Kim Dung đã có ý làm nổi bật việc sau Thế Chiến II, Liên Sô và các nước Tây Phương đã trực diện đối đầu nhau về mọi phương diện và phản tuyên truyền nhau một cách mạnh mẽ. Nhưng trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung đã cho ta thấy Bắc Cái và Tây Độc ôm nhau cười và chết một lượt với nhau sau khi đã đấu võ với nhau và cảm phục tài nhau. Với hình ảnh này. tác giả bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP có thể muốn bảo rằng Liên Sô và các nước Tây Phương không bên nào nắm phần thắng lợi được trong cuộc tranh đấu với nhau. Nếu khinh suất gây chiến tranh hạch tâm để triệt hạ nhau thì cả hai bên đều sẽ bi tiêu diệt hết. Vậy, hai bên đã bị dồn vào cái thế phải chịu chung sổng hay là cùng chết với nhau. Đó là một thông điệp liên hệ đến chủ trương “Giảm Bớt Căng Thẳng” đã lưu hành trên thế giới từ cuối thập niên 1960.
D- SỰ GIAO THIỆP GIỮA CÁC NƯỚC THUỘC ĐỆ TAM THẾ GIỚI ĐẶC BIỆT LÀ THÁI LAN VỚI TRUNG QUỐC, NHỰT, CÁC NƯỚC TÂY PHƯƠNG VÀ LIÊN SÔ, BIỂU LỘ QUA SỰ GIAO THIỆP GIỮA NAM ĐẾ VỚI TRUNG THẦN THÔNG, ĐÔNG TÀ, TÂY ĐỘC VÀ BẮC CÁI
Trong chủ nghĩa Tam Dân, Tôn Văn đã bảo rằng Trung Quốc cần phải có thái độ thân hữu đối với các nước nhược tiểu và phải tận lực giúp đỡ các nước nhược tiểu. Riêng đối với Thái Lan, Trung Quốc đã có những liên hệ văn hóa trong quá khứ. Bởi đó, Nam Đế là nhơn vật tượng trưng cho các nước thuộc Đệ Tam Thế Giới nói chung và nước Thái Lan nói riêng, cũng được Kim Dung mô tả như là một thân hữu của Trung Thần Thông và có chịu ơn Trung Thần Thông. Trung Thần Thông đã giúp Nam Đế cứu được cha mẹ và lấy lại được ngôi báu đã bị người chú cướp đoạt. Vì vậy, mặc dầu có đến Hoa Sơn luận võ theo lời mời của Trung Thần Thông, Nam Đế đã tỏ vẻ rất kính trọng Trung Thần Thông và không có ý muốn giành lấy CỬU ÂM CHƠN KINH. Nam Đế và phái Toàn Chân không hề có sự xung đột với nhau, mặc dầu Châu Bá Thông đã tư tình với một vương phi của Nam Đế là bà Anh Cô. Đã thế, khi cảm thấy mình đã già yếu, Trung Thần Thông đã đến nước Đại Lý và dạy Nam Đế công phu Nhứt Dương Chỉ để Nam Đế có khả năng chống lại Tây Độc hầu giữ cho CỬU ÂM CHƠN KINH không lọt vào tay Tây Độc.
Đối với Đông Tà và Tây Độc, Nam Đế không có sự hiềm khích, và ngoài lần tỷ thí ở Hoa Sơn, ông không có dịp đấu võ với họ. Tuy nhiên, ông đã tỏ ra kính trọng Đông Tà hơn Tây Độc. Điều này có thể được Kim Dung dùng để ám chỉ việc giữa hai trận Thế Chiến, Thái Lan đã thân cận với Nhựt nhiều hơn các nước Tây Phương. Riêng đối với Bắc Cái, Nam Đế đã có nhiều cảm tình. Ông đã mời Bắc Cái đến vùng nước Đại Lý và khi xuống tóc đi tu, ông đã mời Bắc Cái dự kiến. Nói chung thì các chi tiết trên đây biểu lộ ý kiến của Kim Dung trong thời kỳ còn thiên tả. Vì lập trường thiên tả này, ông xem Liên Xô là thân hữu của các dân tộc nhược tiểu và có chủ trương giúp đỡ các dân tộc nhược tiểu chống lại các nước đế quốc thực dân.
Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Nam Đế đã trở thành Nam Tăng và đã được kính trọng nhiều hơn trước. Điều này hàm ý là các nước thuộc Đệ Tam Thế Giới sau này đã có một vị thế quan trọng hơn trên chánh trường quốc tế.
Đ- SỰ GIAO THIỆP GIỮA NƯỚC ĐỨC VỚI TRUNG QUỐC, CÁC NƯỚC TÂY PHƯƠNG KHÁC, LIÊN SÔ VÀ CÁ NƯỚC THUỘC ĐỆ TAM THẾ GIỚI, BIỂU LỘ QUA SỰ GIAO THIỆP CỦA CỪU THIÊN NHẬN VỚI PHÁI TOÀN CHÂN, TÂY ĐỘC, BẮC CÁI, NAM ĐẾ
Về phần Cừu Thiên Nhận, Bang Chủ Thiết Chưởng Bang, ông không có đụng độ với Trung Thần Thông. Nhưng người tiền nhiệm của ông đã hai lần xung đột với vị Giáo Chủ phái Toàn Chân mà lần xung đột sau đã xảy ra ngay tại căn cứ của phái này. Điều này có thể được dùng để ám chỉ việc nước Đức trước thời kỳ Hitler cầm quyền, đã lấn hiếp Trung Quốc và bắt Trung Quốc nhường đất Thanh Đảo cho mình làm tô giới.
Trong bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, Cửu Thiên Nhận đã hợp tác với Hoàn Nhan Liệt là một thân vương nước Đại Kim, một quốc gia đã từng lấn hiếp Trung Quốc và có thể xem như là tượng trưng của chủ nghĩa đế quốc. Tây Độc cũng đã được Hoàn Nhan Liệt mời hợp tác để tìm bộ Vũ Mục Di Thư và do đó mà cũng đứng về một phe với Cừu Thiên Nhận trong một cuộc đụng độ với phái Toàn Chân, Bắc Cái và Đông Tà. Các sư kiện này được dùng nói lên việc Đức Quốc Xã và Ý Phát Xít tuy có xung đột với các nước Tây Phương khác, nhưng vẫn áp dụng chánh sách đế quốc xâm lược như các nước ấy. Mặt khác, một số người trong Cái Bang đã vì binh vực dân chúng bị áp bức mà chọi lại hành động của Thiết Chưởng Bang. Sau đó lúc Cái Bang hội họp lại để chỉ định người làm Bang Chủ, Cừu Thiên Nhận đã đến nơi hội họp và khuyến dụ Cái Bang nên nhận lễ vật của Hoàn Nhan Liệt mà dời hết về phương nam để nhường phương bắc lại cho nước Đại Kim. Sau khi Cái Bang đã nhận Hoàng Dung làm quyền Bang Chủ, Cừu Thiên Nhận đã gặp lại Hoàng Dung và đánh bà này một đòn rất nặng làm cho bà bị trọng thương suýt chết. Với các việc này,Kim Dung đã nhắc lại một số biến cố thời Thế Chiến II. Hai phe Phải Xít và Cộng Sản vốn là kẻ thù của nhau. Nhưng trước khi mở cuộc tấn công các nước Tây âu, Đức Quốc Xã đã ký hiệp ước với Liên Sô để chia vùng ảnh hưởng ở Đông Âu, rồi sau đó, lại thình lình mở cuộc tấn công Liên Sô làm cho nước này suýt chút nữa là bị lâm nguy. Chúng ta nên lưu ý chỗ Hitler đã mở cuộc tấn công Liên Sô lúc nước ấy nằm dưới quyền lãnh đạo của Stalin, mà trong bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, nhơn vật tượng trưng cho Stalin chính là Hoàng Dung.
Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Bang Chủ Thiết Chưởng Bang đã trở thành Từ Ân Đại Sư và đã cố gắng tranh đấu với bản chất hung ác của mình để theo đúng lời thầy là Nhứt Đăng Đại Sư dạy. Điều này có thể đã được dùng để ám chỉ việc Tây Đức hiện nay đã theo chế độ dân chủ tự do và có thái độ thân hữu, sẵn sàng viện trợ cho các nước khác, nhất là các nước thuộc Đệ Tam Thế Giới.
Nói chung lại thì sự giao thiệp giữa Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế và Bang Chủ Thiết Chưởng Bang với nhau cũng như với các nhơn vật liên hệ đến họ không phải mô tả hết lịch sử bang giao thật sự giữa Trung Quốc, Nhựt, các nước Tây Phương, Liên Sô, các nước thuộc Thế Giới Đệ Tam và các nước Đức Quốc Xã và Ý Phát Xít. Ta phải công nhận rằng nếu Kim Dung theo sát lịch sử bang giao thật sự đó thì ông rất khó có thể làm cho các bộ truyện võ hiệp của ông hấp dẫn được. Bởi đó, ông chỉ dùng một số chi tiết trong sự giao thiệp giữa các cao thủ võ lâm để ám chỉ các biến cố quan trọng trên trường chánh trị quốc tế và chúng tôi chỉ nêu các chi tiết này ra để cho quí vị độc giả suy nghiệm


- III-
-NHƠN VẬT TƯỢNG TRƯNG CHO CÁC NƯỚC TÂY PHƯƠNG :
TÂY ĐỘC, ÂU DƯƠNG CÔNG TỬ, DUƠNG QUÁ

     rong khi Đông Tà là một nhơn vật chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa và tượng trưng cho nước Nhựt thì Tây Độc, Âu Dương Công Tử và Dương Quá lại là những nhơn vật hoàn toàn xa lạ với nền văn hoá này và có thể xem như là những kẻ tượng trưng cho các nước Tây Phương, với Tây Độc và Âu Dương Công Tử tiêu biểu riêng cho các nước Âu Châu và Dương Quá tiêu biểu riêng cho nước Mỹ.
A. TÂY ĐỘC Và ÂU DUƠNG CÔNG TỬ,
TIÊU BIỂU CHO CÁC NƯỚC TÂY PHUƠNG NÓI CHUNG
Và CÁC NƯỚC ÂU CHÂU NÓI RIÊNG.
1. Các dấu hiệu vật chất cho thấy rằng Tây Độc và Âu Dương Công Tử tượng trưng cho các nước Âu Châu. Về mặt vị trí địa lý, các nước Âu Châu vốn ở phía tây Trung Quốc. Do đó, các nước mà nhơn dân có nguồn gốc chủng tộc và văn hóa ở Âu Châu được người Trung Hoa và các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa gọi chung là các nước Tây Phương.
Nhơn vật mang ngoại hiệu Tây Độc được xem là Bạch Đà Sơn Chủ, tức là chúa núi Bạch Đà, mà chữ bạch trong Hán văn lại có nghĩa là màu trắng. Mặt khác, ông ta cũng như Âu Dương Công Tử thường mặc áo trắng, các nô tỳ của họ cũng được trang phục với sắc trắng. Võ khí của Tây Độc là cây đàn tranh đúc bằng thép. Về phần Âu Dương Công Tử thì võ khí là một cây quạt bằng sắt. Theo vũ trụ quan của người Trung Hoa thì màu trắng thuộc hành kim và liên hệ đến phía tây. Việc chú cháu Tây Độc ở Bạch Đà Sơn, thường mặc áo trắng và dùng sắc trắng đề trang phục cho nô tỳ mình, đồng thời dùng một võ khí bằng thép hay sắt tức là chất thuộc kim loại, xác nhận vị tri của các nước Âu Châu ở phía Tây Trung Quốc. Ta lại có thể nhận thẩy rằng chú cháu Tây Độc họ Âu Dương, và trong danh hiệu của họ này có chữ ÂU dùng để ám chỉ Âu Châu.
2. Nếp sống của Tây Độc và Âu Dương Công Tử biểu lộ của văn hóa Âu Châu theo sự nhận xét của người Trung Hoa.
Trái với nếp sống của Trung Thần Thông và Đông Tà là một nếp sống đạo đức và chịu ảnh hưởng của Đạo Giáo nên hướng về sự thanh tĩnh vô vi, nếp sống của Tây Độc và của Âu Dương Công Tử là một nếp sống hướng về sự hưởng thụ vật chất và thiếu hẳn yếu tố đạo đức. Riêng mối liên hệ giữa Tây Độc với Âu Dương Công Tử đã là một biểu tượng của sự phản đạo đức. Kim Dung đã cho biết rằng Tây Độc vì thông dâm với chị dâu mà ngầm sát hại anh ruột mình, và Âu Dương Công Tử trên danh nghĩa là cháu gọi ông bằng chú, nhưng thật sự lại chính là con ruột của ông. Căn cứ của Tây Độc ở Bạch Đà Sơn có nhiều gái đẹp thuộc nhiều chủng tộc khác nhau. Họ được tập luyện để biết múa hát, và ngoài việc phục vụ cho thú nhục dục của chủ, họ còn được dùng làm một dụng cụ cho cuộc tranh đấu để giành địa vị bá chủ võ lâm mà Tây Độc đeo đuổi. Âu Dương Công Tử lại còn dâm dật hơn Tây Độc. Ngoài việc mua vui với các nữ tỳ đã có, ông còn đi bắt cóc thêm con gái đẹp nhà lành để thỏa mãn thú tánh. Qua tâm tánh trên đây của Tây Độc và Âu Dương Công Tử, Kim Dung đã cho thấy quan niệm của những người Trung Hoa theo truyền thống Đông Phương. Trong con mắt của những người này, đó là một nền văn hóa đặt nền tảng trên sự tự do cá nhơn và thiên về sự hưởng thụ vật chất nên có tánh cách phóng túng và đồi trụy.
Để có phương tiện ăn xài và thực hiện các kế hoạch của mình, Tây Độc đã dùng lối giết người đoạt vật để thâu thập tiền của. Căn cứ của ông ở Bạch Đà Sơn chứa nhiều vàng bạc và ngọc ngà châu báu. Ở đây, ta cần phải nhận thấy chỗ khác nhau giữa Tây Độc với Đông Tà: các bảo vật của Tây Độc toàn là loại bảo vật trân quí về mặt vật chất, trong khi Đông Tà, ngoài các bảo vật loại này, lại còn có những bảo vật trân quí về mặt tinh thần như các bức tranh đẹp, các sách hay v.v... Điều này không có nghĩa là các nước Tây Phương không biết thưởng thức hay không bảo trọng các bảo vật trân quí về mặt tinh thần, vì thật sự các nước ấy không thiếu các loại bảo vật đó và cũng rất trọng nó. Bởi đó, khi mô tả tài sản của Tây Độc, Kim Dung chỉ muốn nhấn mạnh trên tinh thần của người Tây Phương thiên về các quyền lợi vật chất chớ không phải đề cao đời sồng tinh thần như người các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa.
3. Con rắn, biểu tượng cho nền văn hóa Tày Phương phát xuất từ Âu Châu.
a. Sự liên hệ giữa tài nghệ của Tây Độc với con rắn.
Về mặt khả năng, tài nghệ của Tây Độc có nhiều mối liên hệ với rắn. Họ Âu Dương ở Bạch Đà Sơn vốn chuyên nuôi độc xà ác mãng. Mặt khác, sở dĩ Tây Độc có một nội công thâm hậu là vì lúc trẻ, anh em ông đã may mắn được uống huyết và ăn thịt con Bạch Long Xà là một loại rắn thần hiếm có. Sau đó, họ đã lượm được bộ NGŨ ĐỘC KỲ KINH và dựa vào đó mà luyện những công phu lợi hại. Tây Độc chuyên sử dụng nọc độc của loài rắn. Với môn Độc Xà Thần Công ông có thể cho nọc độc của mười con rắn rút vào cơ thể của ông rồi dồn vào đầu mười ngón tay. Luyện được môn này rồi thì chỉ cần phát ra sức gió của ngón tay cũng đủ làm cho kẻ địch bị thương, và nếu đầu ngón tay xỉa trúng vào kẻ địch thì kẻ địch còn bị nguy hiểm hơn là bị rắn độc cắn. Trong cây đàn tranh mà Tây Độc dùng làm võ khí, có đặt hai con rắn giả nanh sắc bén được tẩm luyện trong nọc rắn độc để ngầm hại địch thủ một cách bất ngờ. Ngoài ra, Tây Độc còn một cây xà trượng có cái nanh thép sắc bén như cái nanh trong cây đàn tranh, đồng thời có hai con rắn độc quấn vào và thay phiên nhau, hễ một con bò lên thì một con bò xuống. Tây Độc cũng có luyện tập rắn để lập thành xà trận, và dùng một số nam nô đề điều khiển bầy rắn của mình. Sau hết, để đối phó với các tay cao thủ võ lâm lợi hại, ông đã ngấm sáng tạo một môn võ đặc biệt là Kim Xà Quyền.
Theo truyền thuyết các nước Tây Phương, con rồng không phải là một thần vật được tôn trọng như con rồng của truyền thuyết Trung Hoa. Con rồng Trung Hoa được xem như là một trong tứ linh là bốn con vật linh nhất trong vũ trụ. Nó có một khả năng biến hóa vô cùng và có nhiệm vụ giúp trời trong nhiều công việc, đặc biệt là công việc làm mưa đề cho nhơn gian có nước mà dùng. Do đó, người Trung Hoa rất tôn trọng con rồng và lấy nó làm biểu tượng cho nhà vua. Phần con rồng Tây Phương thì cũng được xem là một con vật có sức mạnh siêu phàm đáng sợ, nhưng đó là một quái vật chớ không phải là một linh vật. Nó không có nhiều khả năng biến hóa như con rồng Trung Hoa. Nó vẫn chỉ làm những việc có lợi cho nó mà có hại cho loài người, và tài đặc biệt của nó là phun ra lửa để hạ kẻ địch. Trong vũ trụ quan Trung Hoa, lửa thuộc hành hỏa và có liên hệ với màu đỏ. Vậy năm lằn sọc đỏ dưới bụng con Bạch Long Xà có thể đã được Kim Dung dùng để ám chỉ khả năng phun lửa của con rồng Tây Phương.
b. Sự liên hệ giữa con rắn và nền văn hoá Tây Phương phát xuất từ Âu Châu.
Con Bạch Long Xà thì tuy mang danh hiệu là rồng, nhưng thật sự chỉ là một con rắn. Loài động vật này được xem là đồng loại với rồng, nhưng lại là một động vật thường không có khả năng siêu việt. Theo quan niệm chung thì con rắn là tiêu biểu cho sự lừa dối và phản bội. Riêng trong Thánh Kinh của người Tây Phương, con rắn lại còn là một hiện thân của quỷ, lúc quỷ xúi giục thỉ tổ của loài người là Bà Eve và Ông Adam, làm cho hai vị đó cãi lời dạy của Đức Chúa Trời và ăn trái cây cấm mọc ở giữa Thiên Đường. Theo Thánh Kinh này, sau khi ăn trái cây cấm thì Eve và Adam biết mình trần trưồng và xấu hổ vì sự trần truồng đó nên hái lá cây sung kết lại để che hạ thể của mình. Vậy, trái cây cấm này là cái giúp người hiểu biết, tức là trí tuệ hay khả năng khoa học và con rắn chính là động cơ tâm lý thúc đẩy con người tìm tòi đề hiểu biết.
Ngoài câu chuyện kể trên đây trong Thánh Kinh, con rắn còn có một vai tuồng quan trọng trong các thần thoại và trong quan niệm của người Tây Phương. Thời cổ, hình hai con rắn quấn trên một cành nguyệt quế hay một cành cảm lãm là biểu hiệu chánh của Hermès (ở Hy Lạp) và Mercury (ở La Mã) là những vị thần chủ sự việc mua bán, du lịch, phát minh, biến chế và trộm cắp và do đó mà trở thành biểu hiệu cho Thương Mãi và Hòa Hợp. Các vị sứ giả và thông tín viên mang dấu hiệu này thì được hưởng quyền bất khả xâm phạm. Mặt khác, hình con rắn lại còn được dùng trong biểu hiệu của nghề y dược. Biểu hiệu của nghề y là một con rắn quấn trên một bó que còn biểu hiệu của nghề dược là một con rắn nhả nọc độc trong một cái ly. Đó là vì con rắn được xem là tượng trưng cho sự lanh lợi mà người y sĩ phải có để đổi phó với các chứng bịnh mình gặp và nọc con rắn tuy độc, nhưng lại có thể dùng để khắc chế chất độc khác theo nguyên lý dĩ độc trị độc.
Vậy nói chung lại thì trong quan niệm Tây Phương, con rắn vừa là động cơ tâm lý thúc đẩy người mở rộng phạm vi tri thức bằng hoạt động trí tuệ, và biểu tượng cho trí thông minh, sự khôn ngoan, khéo léo, lanh lợi cùng khả năng biến chế, vừa là một con vật tuy độc hại nhưng lại có một vai tuồng hữu ích trong vịệc chữa lành bịnh cho người. Như thế, con rắn có liên hệ mật thiết đến nền văn hóa Tây Phương và có thể dùng làm biểu tượng cho nền văn hóa ấy.
Với việc anh em Tây Độc nhờ được uống huyết và ăn thịt con Bạch Long Xà mà tăng thêm công lực, Kim Dung có ý muốn ám chỉ rằng các nước Tây Phương sở dĩ mạnh là nhờ có một nền văn hóa cổ cũng như Trung Hoa. Nhưng nền văn hóa cổ của Tây Phương so với nền văn hóa cổ của Trung Hoa thì không đáng được trọng vọng bằng. Tiềm lực của nền văn hóa cổ Trung Hoa được biểu tượng bằng cái nấm mọc trên bã nhơn sâm nên có tánh cách tinh túy và không mang thú tánh. Về tiềm lực của nền văn hoá cổ Tây Phương, nó được biểu tượng bằng con rắn có tánh cách như con rồng Tây Phương. Tuy cũng có sự hữu dụng, nó còn mang thú tánh và còn chứa đựng những khuynh hướng tàn bạo độc ác có thể mang những mối hại lớn đến cho người.
Với quan niệm nêu ra trong Thánh Kinh và trong các thần thoại của người Tây Phương, liên kết con rắn với trí tuệ hay khả năng khoa học và với sự khôn ngoan, khéo léo, lanh lợi cùng khả năng biến chế ta có thể bảo rằng khi cho biết là kỹ thuật chiến đấu của Tây Độc dựa nhiều vào con rắn, Kim Dung đã có dụng ý nói đến việc nền văn hóa Tây Phương đặt nền tảng trên trí tuệ. Do đó, Ngũ Độc Kỳ Kinh cũng có thể xem như là một quyền sách dạy về kỹ thuật khoa học, đặc biệt là kỹ thuật chế ngự để sử dụng các lực lượng thiên nhiên được biểu tượng bằng bầy rắn độc được luyện tập để lập thành xà trận.
Nói chung, kỹ thuật khoa học của người Tây Phương có thể dùng để phục vụ con người, nhưng cũng có thể dùng vào việc chiến đấu và tàn hại con người. Khi gặp điều kiện bất thuận lợi, nó có thể quay lại hại người sử dụng. Như môn Độc Xà Thần Công khi dùng để tấn công địch mà bị địch phản kích làm cho đòn mình đánh ra bị dội ngược lại, thì chính chất độc mình luyện để hại người lại trở lại hại mình. Ta có thể so sánh việc này với việc dùng bom hơi độc khi có chiến tranh. Người ta có thể dùng bom hơi độc để tàn phá nước địch, nhưng nếu gặp gió mạnh thổi hơi độc trở lại vào nước mình thì nước mình không khỏi bị thiệt hại nặng.
Mặt khác, việc thiên về trí tuệ và khả năng khoa học cũng làm cho các nước Tây Phương thường áp dụng một chánh sách hợp lý. Điều này đã được Kìm Dung nhắc đến khi ông bảo rằng Tây Độc thường thành công trong các mưu đồ của mình là vì ông ta biết hành động đúng lúc, phải chỗ, không để lòng nông nổi lôi cuốn.
4. Kỹ thuật tranh đấu của Tây Độc, biểu tượng cho lề lối tranh đấu của người Tây Phương.
a. Võ thuật của Tây Độc bộc lộ sự dị biệt căn bản giữa hai nền văn hóa Trung Hoa và Tây Phương.
Về mặt võ thuật, Tây Độc thường dùng môn Thần Đà Tuyết Sơn Chưởng Pháp. Nhưng công phu lợi hại nhất của ông là Cáp Mô Công. Cáp Mô là danh từ dùng để chỉ chung loài cóc nhái. Riêng con cóc là một con vật hình dáng xấu xa, da xù xì vì có nhiều mụt nổi lên, mà các mụt này lại có chứa đựng chất độc. Tây Độc không những luyện tập bằng cách hút các chất độc này vào cơ thể rồi hòa hợp nó với chân khí của mình, mà còn bắt chước tư thế con cóc khi sử dụng công phu này. Qua hình ảnh đó, Kim Dung cho thấy rằng võ thuật của người Tây Phương dựa vào sức mạnh một cách cục mịch nên không có sự tế nhị và sự huê dạng của các đòn võ thuật Trung Hoa hay Nhựt. Mặt khác, khi mô tả cuộc hoà tấu giữa Tây Độc với Đông Tà trên đảo Đào Hoa, Kim Dung lại cho biết rằng công phu của Tây Độc thể hiện bằng tiếng đàn tranh thuộc cương tánh. Điều này xác nhận thêm tánh cách thô bạo thuần dựa vào sức lực của môn quyền thuật Tây Phương.
Trong giai đoạn sau của đời mình, Tây Độc đã bị Hoàng Dung gạt và luyện tập CỬU ÂM CHƠN KINH theo nguyên tắc ngược chiều, nên từ kinh mạch đến các chiêu thức đều trái ngược với đường lối bình thường, thậm chí đến dộng đầu xuống đất, trở cẳng lên trời khi di chuyển và đánh nhau với kẻ khác. Với hình ảnh này, Kim Dung đã cho thấy rõ sự di biệt căn bản trong hai nền văn hóa Trung Hoa và Tây Phương. Nền văn hóa Trung Hoa đặt nền tảng trên đạo đức cho nên lúc nào cũng xem tâm quan trọng hơn trí. Nền văn hóa Tây Phương lúc đầu cũng trọng đạo đức nhưng đến mấy thế kỷ sau này, lại thiên về việc mở mang trí tuệ nhiều hơn và lần lần xem trí quan trọng hơn tâm. Theo cái nhìn của Kim Dung, đó là một sự thay đổi trái với thiên lý, chẳng khác nào như việc trở cẳng lên trời, dộng đầu xuống đất.
b. Cách xử sự của Tây Độc biểu tượng chánh sách được các nước Tây Phương áp dụng.
Trong việc xử sự bình thường cũng như trong việc mưu đồ tranh đoạt ngôi bá chủ võ lâm, Tây Độc đã dùng sự trí trá. Ông không lui bước trước thủ đoạn tàn độc nào để đạt mục đích và không hề nghĩ đến công ơn kẻ khác đối với mình. Điều này hàm ý rằng theo Kim Dung, các nước Tây Phương đã đi xa hơn nước Nhựt trong việc áp dụng nguyên tắc “cứu cánh biện minh cho phương tiện”.
Trong cuộc luận võ đầu tiên ở Hoa Sơn, Tây Độc đã dùng mỹ nhơn trận và xà trận để đối phó với Trung Thần Thông, mà hơi độc do bầy rắn của ông phun ra trong không khí lại có khả năng kết tụ lại chớ không tan. Tiếng đàn tranh ông dùng để điều khiển bầy rắn cũng như để lung lạc tinh thần của đối phương có tánh cách khích động dục tình của con người rất mãnh liệt.
Các hình ảnh này có dụng ý cho thấy rằng người Tây Phương bản tánh bồng bột mà lại đề cho tình cảm tự do biểu lộ chớ không kềm chế nó như người Trung Hoa. Trong sự bành trướng thể lực, người Tây Phương chẳng những đã dùng sức mạnh vật chất mà còng dùng lối phổ biến nếp sống phóng túng của họ đề làm yếu các nước khác. Các tư tưởng của họ được phát thanh cho cả thế giới nghe bị xem như là hơi độc mà bầy rắn của Tây Độc phun ra trong không khí, có thể làm cho người hít phải nó bị ngộ độc mà chết. Ở đây, tư tưởng Kim Dung cũng giống như tư tưởng của các nhà lãnh đạo bảo thủ của Trung Cộng hiện nay, cho rằng Trung Hoa bị nạn “ô nhiễm tinh thần” khi chịu mở cửa tiếp xúc rộng rãi với các nước Tây Phương.
Sự kiện Tây Độc có nhiều nam nô và nữ tỳ (để phục vụ mình nhắc lại ba việc trong lịch sử các nước Tây Phương: một là việc người Tây Phương đã áp dụng chế độ buôn bán nô lệ, hai là họ đã đi chinh phục nhiều thuộc địa, ba là họ đã dùng các nô lệ cũng như dùng người dân ở các thuộc địa của họ trong việc phục vụ nền kinh tế cùng chủ trương bành trướng thế lực của họ. Việc Tây Độc trở mặt đánh Bắc Cái sau khi ông này đã cứu mạng mình có thể là hình ảnh để ám chỉ một cố sự lúc các nhóm dân Âu Châu mới đến Mỹ Châu. Các nhóm này đã gặp những khó khăn nan giải trong việc mưu sinh và tưởng đã phải chết hết, chỉ nhờ người thổ dân giúp lương thực cho, họ mới tồn tại được. Nhưng về sau, họ lại lấn lên, chiếm lấy đất đai và tàn sát những người thổ dân đã từng cứu giúp họ.
5. Sự điên cuồng và mất trí của Tây Độc, biểu tượng cho sự vong thân và sự mất vị thế đại diện cho Tây Phương của người Âu Châu.
Trong cuộc luận võ kỳ hai ở Hoa Sơn, Tây Độc đã vì điên cuồng và có những đòn ngược chiều quá kỳ quặc nên đã làm cho cả Đông Tà lẫn Bắc Cái phải hoang mang sợ hãi. Nhưng vì bị Hoàng Dung trêu chọc, ông đã đồng thời mất trí và không còn nhớ mình là ai. Sự kiện này mang nhiều ý nghĩa khác nhau.
a. Trước hết, nó biểu lộ một sự kiện mà chính các triết gia Tây Phương đã gọi là hiện tượng vong thân: vì bồng bột, lại thiên về trí hơn tâm thành ra có xu hướng nghiêng về sự thái quá chớ không theo đạo trung dung của người Trung Hoa nên người các nước Âu Châu cuối cùng đã để cho các mục tiêu của họ lấn lên làm chủ lấy họ. Họ không phải xem tiền của danh vọng như là các yếu tố giúp vào sự sổng của họ mà lại sống cho mục đích tìm tiền của danh vọng. Điều này đã làm cho dân Âu Châu trải qua một cuộc khủng hoảng tinh thần trầm trọng sau Thế Chiến 1. Mặt khác nói chung thì trong quá khứ người Âu Châu đã nhiều lần xung đột mãnh liệt với nhau. Họ đã gây ra những cuộc nội chiến, như các cuộc xung đột đẫm máu giữa người theo Công Giáo La Mã và người theo các hệ phải Tin Lành; họ cũng đã gây ra những trận chiến tranh tàn khốc giữa các nước Âu Châu với nhau làm chết không biết bao nhiêu nhơn mạng. Điều này đã được Kim Dung đặc biệt nói đến qua việc Tây Độc giết anh ruột mình.
b. Ngoài ra, ta còn có thể nhận thấy rằng ban đầu các nước Âu Châu là biểu tượng cho tất cả các nước Tây Phương, nhưng về sau, lúc khối Tây Phương trở thành mạnh nhứt thế giới thì vai tuồng của các nước Âu Châu đã bị lu mờ, và khi nói đến Tây Phương, người ta lại nghĩ nhiều hơn đến nước Mỹ. Tuy phần lớn cũng là do dân Âu Châu mà ra, dân Mỹ lại không phải ở Âu Châu. Việc các nước Âu Châu một vị thế tiêu biểu cho khối Tây Phương đã được Kim Dung ám chỉ khi ông cho biết rằng Tây Độc mất trí, không còn biết mình tên là Âu Dương Phong và tưởng Âu Dương Phong là một nhơn vật khác hơn mình.
B. DUƠNG QUÁ: TIÊU BIỂU CHO NƯỚC MỸ.
Việc người Mỹ cuối cùng vượt lên hơn người Âu Châu để làm tiêu biểu cho cả khối Tây Phương đã được Kim Dung đề cập đến với sự xuất hiện của Dương Quá trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP. Nhơn vật này vốn là đứa con do Tần Nam Cầm sanh ra sau khi bị Dương Khang hãm hiếp, và đã phải sống trong cảnh cô độc không có gia đình từ thuở nhỏ, thành ra đã phải lưu lạc khắp nơi. Phần Tần Nam Cầm thì xuất thân từ một gia đình sống về nghề bắt rắn độc, mà rắn, như chúng ta đã thấy, lại có tánh cách biểu tượng cho nền văn hóa Tây Phương phát xuất từ Âu Châu.
Ngoài ra, Dương Quá lại có mối liên hệ đặc biệt với Tây Độc. Vì quá thương nhớ Âu Dương Công Tử, đứa con của ông đã bị Dương Khang giết chết nên Tây Độc muốn nhận Dương Quá làm con. Phần Dương Quá thì cảm thấy mình cô độc và nhận chân rằng Tây Độc thật sự thương yêu mình nên cũng đã nhận Tây Độc làm nghĩa phụ. Tây Độc đã truyền dạy cho Dương Quá các công phu siêu tuyệt của mình.
Qua nguồn gốc và thân thế Dương Quá, Kim Dung đã nêu lên lánh cách hỗn tạp của nhơn dân Mỹ. Những người đến lập nghiệp ở Mỹ vẫn là những người phiêu lưu đã phải rời bỏ quê cha đất tổ vì đói khó hay vì lý do tôn giáo hoặc chánh trị mà bị đàn áp. Họ thuộc nhiều chủng tộc khác nhau vô cùng. Tuy nhiên, dân Mỹ vẫn mang tánh cách Tây Phương rõ rệt vì đa số các chủng tộc cấu tạo thành nhơn dân Mỹ đã phải xuất từ Âu Châu, và nền văn hóa Mỹ, trong căn bản, cũng cùng tánh chất với nền văn hóa Âu Châu. Dầu vậy dân Mỹ cũng có một số đặc điểm làm cho họ khác với dân Âu Châu.
1- Sự tương đồng và dị biệt giữa người Mỹ và người Âu Châu được mô tả qua các chi tiết liên hệ đến Tiểu Long Nữ và đến sự giao thiệp giữa Tiểu Long Nữ với Dương Quá.
a. Tiểu Long Nữ là một phụ nữ thường mặc áo màu trắng và dùng làm võ khí một dải lụa trắng có đính trái cầu bằng kim loại. Ngoài ra, nhơn vật này còn nuôi một bầy ong sắc trắng để lấy mật mà dùng, đồng thời bảo vệ chỗ cư trú của mình chống lại sự xâm nhập của người lạ mặt. Màu trắng và chất kim loại của các vật liên hệ đến Tiểu Long Nữ xác nhận rằng nhơn vật này là người thuộc nền văn hóa Tây Phương nói chung. Về phần con ong nó biểu tượng cho sự siêng năng cần mẫn và tinh thần làm việc tập thể. Các đặc tánh trên đây chính là đặc tánh của người Mỹ là giống dân đã phát minh ra phương pháp làm việc lối dây chuyền. Bầy ong trắng của Tiểu Long Nữ có nọc rất độc có thể làm chết người, nhưng người bị loại ong này chích chỉ cần lấy mật của nó để điều trị là thoát hiểm. Với chi tiết trên đây, Kim Dung ám chỉ rằng phương pháp tổ chức và làm việc của xã hội Hoa Kỳ có nhiều tệ hại, nhưng cũng cung phụng được cho người nhiều quyền lợi, đồng thời lại chứa đựng những yếu tố để tự sửa chữa và cải thiện.
b. Từ nhỏ, Tiểu Long Nữ đã học võ thuật của phái Cổ Mộ nên chẳng những sống biệt lập một mình mà còn phải diệt các tình cảm của mình. Tuy nhiên, về sau, bà lại yêu Dương Quá rất mực và tỏ ra chí tình với Dương Quá. Phần Dương Quá là người dồi dào tình cảm và từ nhỏ cũng đã côi cút, nhưng trái với Tiểu Long Nữ, ông đã trôi nổi khắp nơi và thường bị người khác lừa dối, gạt gẫm và chèn ép. Do đó, ông thích phiêu lưu. nhưng có lúc cũng muốn tìm nơi ẩn dạt, xa lánh loài người. Trong thời kỳ 16 năm xa cách Tiểu Long Nữ và sau khi đã luyện được võ công trác tuyệt, ông đã đi khắp đó đây và ra tay tế khổn phò nguy nên đã nổi danh là đại hiệp.
Các chi tiết trên đây về Tiểu Long Nữ và Dương Quá rất phù hợp với đặc tánh của người Mỹ. Lối xử sự của người Mỹ nói chung là một lối xử sự không tình cảm. Trong lịch sử, dân Mỹ nhiều khi đã theo chủ trương cô lập chỉ lo công việc của nước mình và mặc kệ các nước khác mà họ cho là thường hay gây sự đánh nhau một cách phi lý. Nhưng mặt khác, người Mỹ lại nhiều lúc biểu lộ tinh thần hào hiệp, can thiệp vào các vấn đề thế giới và dùng võ lực hoặc tiền của để giúp đỡ các dân tộc bị xâm lăng hay nghèo đói.
c. Sự liên hệ giữa Tiểu Long Nữ với Dương Quá cũng biểu lộ một đặc tánh của dân Mỹ. Trong các cộng đồng người Âu Châu đến Mỹ lập nghiệp đầu tiên cách đây mấy thế kỷ về trước, số phụ nữ ít hơn số đàn ông. Họ lại thường là những người can đảm và tảo tần. Bởi đó, người phụ nữ Mỹ đã được đặc biệt nể nang và đã đóng một vai tuồng quan trọng. Mặt khác, xã hội Mỹ đã do người phiêu lưu thành lập nên không có những câu thúc lễ giáo chặt chẽ như người Âu Châu.
Những điều trên đây đã được Kim Dung ám chỉ khi nói đến Tiểu Long Nữ và Dương Quá. Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Dương Quá đã tuyên bố rằng: người đời trọng nam khinh nữ, nhưng riêng tôi là Dương Quá thì trọng nữ khinh nam. Đó là một câu nói biểu lộ thái độ chung của người dân Mỹ đối với đàn bà. Về việc Dương Quá cũng như Tiểu Long Nữ đều bị xem là học trò mà làm trái lại đạo của thầy mình, nó đã được dùng để ám chỉ sự kiện dân Mỹ tuy theo văn hóa Tây Âu, nhưng lại có những chủ trương ngược lại quan niệm người Âu Châu. Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Tiểu Long Nữ là người lớn tuổi hơn, lại đã từng làm thầy dạy Dương Quá. Nhưng cuối cùng, hai người đã yêu nhau. Chẳng những lấy nhau làm vợ chồng, họ còn nhiều lần biểu lộ tình yêu của họ trước mặt mọi người, bất chấp sự chỉ trích chê bai của dư luận. Điều này biểu lộ tinh thần người Mỹ, vốn phóng túng và không câu nệ lễ giáo như người Âu Châu.
2. Những điểm đáng lưu ý trong sự giao thiệp giữa Dương Quá và Bắc Cái.
Sự giao thiệp của Dương Quá và Bắc Cái cũng là điều đáng được lưu ý. Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Dương Quá đã tỏ ra rất khâm phục Bắc Cái. Ông đã được Bắc Cái truyền cho một số bí quyết và chiêu thức của Đả Cẩu Bổng Pháp. Như chúng tôi sẽ trình bày trong đoạn nói về Bắc Cái, môn võ này đã được Kim Dung dùng để ám chỉ chủ trương giai cấp tranh đấu. Tuy nhiên. Dương Quá đã nhứt định từ khước không chịu nhận Bắc Cái làm thầy, và đã không thiên về bên nào trong cuộc tranh đấu giữa Bắc Cái với nghĩa phụ mình là Tây Độc.
Các chi tiết trên đây đã được dùng để ám chỉ quan niệm của người Mỹ về mặt xã hội. Nước Mỹ vốn do người phiêu lưu thành lập nên không có sự phân biệt giai cấp theo huyết thống một cách cứng rắn, cũng không có sự đặc biệt tôn kính hạng trí thức khoa bảng như các nước Âu Châu. Nói cách khác, tuy người Mỹ chịu ảnh hưởng văn hóa Âu Châu, xã hội Mỹ lại không có một cánh hữu gồm những nhà quí tộc và khoa bảng được trọng vọng như các xã hội Âu Châu. Điều này đã được Kim Dung nói đến một cách bóng bẩy qua việc Dương Quá bị Quách Phù chặt đứt mất cánh tay mặt nên chỉ còn có cánh tay trái mà thôi. Về mặt pháp lý, người lao động Mỹ được xem bình đẳng với các hạng người khác trong xã hội và khi đã tập họp lại được để có sức mạnh cần thiết, họ đã có thể đương đầu lại các hạng người khác trong xã hội để bảo vệ quyền lợi của mình. Với chủ trương không phân biệt giai cấp, người Mỹ đã có một quan niệm khác với người Âu Châu do Tây Độc tượng trưng, nhưng xã hội Mỹ lại là một xã hội tư bản nên dân Mỹ cũng không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản của Liên Sô mà Bắc Cái là tiêu biểu.
3. Các ngoại hiệu Thần Điêu Đại Hiệp và Tây Cuồng cùng việc Dương Quá học võ thuật của Độc Cô Cầu Bại.
a. Mặt khác, chúng ta có thể nhận thấy rằng Dương Quá có ngoại hiệu là Thần Điêu Đại Hiệp mà chim điêu (tiếng Anh là eagle) lại được người Mỹ dùng làm biểu hiệu cho nước mình và quốc huy của nước Mỹ có vẽ hình loại chim này. Mặt khác, trong cuộc luận võ ở Hoa Sơn lần chót, Dương Quá đã được xem là người kế vị cho Tây Độc làm một bá chủ võ lâm, nhưng vì ông không ác hại như Tây Độc nên được gán cho cái ngoại hiệu Tây Cuồng. Trong số năm cao thủ võ lâm của kỳ luận võ cuối cùng này, Dương Quá là người trẻ nhứt, lại học được hầu hết các môn võ thuật của các cao thủ khác. Bởi đó, tuy không được chánh thức xem là đệ nhứt bá võ lâm, thật sự thì danh hiệu đó chắc chắn là phải lọt vào tay ông. Ngoài ra, trong thời kỳ hành hiệp giang hồ, Dương Quá đã được mọi người tôn trọng và ông đã điều khiển được rất nhiều cao thủ không chấp nhận tùng phục các bá chủ võ lâm khác. Từ các ngoại hiệu Thần Điêu Đại Hiệp và Tây Cuồng đến các dữ kiến liên hệ đến cuộc luận võ ở Hoa Sơn lần cuối cùng, các chi tiết được nêu ra đều cho thấy rõ Dương Quá là biểu tượng của Hoa Kỳ, nước Tây Phương cường thạnh nhứt hoàn cầu sau khi trận Thế Chiến II chấm dứt và nhờ dùng chánh sách viện trợ các nước mà gây được cảm tình của nhiều dân tộc khác trên thế giới.
b. Điểm chót mà chúng ta nên lưu ý là Kim Dung đã viết bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP trước năm 1975 là năm mà người Mỹ đã thất bại ở Việt Nam, khiến cho người Mỹ phải chịu thua trận lần đầu tiên trong lịch sử của mình. Từ khi lập quốc cho đến đó, dân tộc Mỹ đã đánh đâu thắng đó nên Kim Dung đã bảo rằng Dương Quá học được võ thuật của một vị tiền bối võ lâm đã khuất bóng từ lâu nhưng lúc sanh tiền thì không hề thua ai trong một trận chiến đấu thành ra tự mang danh là Độc Cô Cầu Bại. Chi tiết này xác nhận thêm rằng dưới ngòi bút của Kim Dung, Dương Quá quả thật là nhơn vật tượng trưng cho nước Mỹ.