Chương 5

     ai em Gương Lành mất tích được hai tuần lễ, mọi người trong nhà không còn hy vọng biết được tin tức, thì một buổi sáng, người nhà bưu điện đưa đến một lá thơ. Nhìn ra chữ của em Lành, cậu Liêm la lớn:
- Thơ em Lành đây, bác ơi, ba má ơi!
Mọi người chạy tuôn đến, châu đầu vào nghe cậu Liêm đọc:
THƠ THỨ NHẤT
Hai con là Gương Lành kính gởi Ba, Ông bà và anh Hai được hay:
Thưa không biết người ta bắt hai con đem đi đâu đây. Chiều hôm đó, hai con trong lớp học đi ra đứng đợi anh Liêm trước cổng trường. Một lúc, không thấy anh Hai tới, hai con dẫn nhau đi thủng thẳng về nhà. Đi được một khúc, hai con thấy một chiếc xe sơn màu đen, đàng xa đến đậu lại cạnh hai con rồi có một cô gái độ 18, 19 tuổi mở cửa xe bước xuống, vui vẻ bảo hai con là ở nhà sửa soạn đi chơi, nên nhờ cô đến đón về cho kịp đi. Hai con thấy cô gái lạ hoắc, chưa hề đến nhà mình khi nào, nên không tin. Chị Gương bảo cô ta:
- Tai sao anh Liêm không đến đón hai em? Cô ở đâu mà anh Liêm nhờ cô đi đón?
Cô ấy cười lớn tiếng và bảo:
- Chị và anh Liêm quen biết nhau đã lâu, nhưng chị đi xa mới về ghé lại thăm anh Liêm. Anh Liêm nhờ chị sẵn xe đến đón hai em về để đi chơi phố một thể.
Vừa nói cô vừa nắm tay dắt hai con lên xe. Hai con thấy cô nói có lý, nên bằng lòng lên. Trong xe có bác tài xế, và có một bà lớn tuổi ngồi ghế phía sau mà cô gái bảo là má cô. Cô mở cửa cho chị Gương lên ngồi với bà, còn con ngồi cạnh cô ta. Xe chạy ngược lên phía nhà thờ Đức Bà, nhưng không thấy quẹo vô đường Catinat, con hỏi bác tài xế:
- Sao bác không vào đường này, nhà hai em ở đường Bona mà!
Nhưng bác làm bộ không nghe, cứ cho xe chạy thẳng và chạy mau hơn. Chị Gương và con thấy vậy thì la lên và đòi xuống, tức thì bà kia ôm chặt lấy chị Gương, đè chị nằm xuống và lấy khăn nhét vào miệng chị cho khỏi kêu. Phần con cũng bị cô gái kia ôm chặt lấy, một tay bóp cổ không cho kêu, rồi lấy khăn nhét vào miệng. Con vùng vẫy, hai tay xô cô ta ra, nhưng cô ta mạnh quá. Một tay cô nắm chặt lấy hai tay con, một tay cô vả vào mặt con hai, ba cái tóe lửa. Máu miệng con chảy ra, con đau quá đành phải ngồi yên. Chị Gương cũng bị bà kia đánh mấy cái. Xe chạy quanh quất vào các đường rất vắng vẻ. Mãi gần tối, xe đậu lại trước một căn phố, có hai người đàn ông trong nhà chạy ra bồng hai con vào, nhốt trong một cái buồng có đèn sáng lờ mờ và khóa cửa lại. Hai chị em con ôm nhau khóc. Chúng con biết rằng chúng con đã bị họ bắt cóc, và rồi không biết sẽ đem đi đâu. Chúng con vừa khóc la, vừa kêu anh Hai đến cứu, chắc anh Hai không thể nào nghe tiếng hai con được. Cửa buồng mở ra, cô gái hồi nãy đi vào tay cầm cây roi to tướng, cô ta nắm lấy con và đánh túi bụi. Con đau quá, khóc thét lên và chị Gương bưng mặt khóc to hơn.
Cô gái quát chị Gương:
- Con kia, mày thôi khóc đi, không thì tao đánh em mày chết!
Chị Gương nghe nói vậy, chị thôi khóc ngay. Và cô gái kia đi ra đóng cửa lại. Chị Gương ôm lấy con, chị rờ tay lên lưng con đầy lằn roi rướm máu và chị lại khóc sụt sùi. Con bảo chị:
- Chị đừng khóc nữa kẻo họ đánh em đau quá!
Một lúc sau, họ đem cơm nước vào cho hai con, nhưng hai con không thiết ăn uống gì cả. Suốt đêm, hai con ngồi dựa vào nhau khóc nho nhỏ. Chị Gương phàn nàn vì vội tin quá; phải chi hỏi họ coi có biết nhà mình ở đâu không đã rồi mới lên xe. Con lại nghĩ là có khi họ không biết chi cả, nhưng vì chị Gương hỏi sao anh Liêm không tới đón, họ mới biết tên anh và xưng là quen với anh. Bây giờ lỡ rồi biết làm sao? Hai con nhớ nhà quá, trông anh Hai đến cứu, mà biết hai con bị bắt đi đâu mà tìm?
Sáng ngày hôm sau, họ đem hai bộ quần áo khác bắt chúng con thay. Chị Gương giấu kín sợi dây chuyền vàng anh Hai cho khi trước. Còn con vẫn còn mang cái “lắc” anh Hai vào phía trong cùi tay vì chẳng ai thấy được mà lấy. Đến tối, hai người đàn ông dẫn hai con ra xe, bắt nằm phía sau, họ lấy mền phủ kín lại và bảo:
- Tụi bây nằm yên, kêu la thì chúng tao đập chết rồi vất xác xuống sông.
Hai con sợ nằm im thin thít. Xe chạy mãi, chẳng biết đi đâu. Hai con nằm như thế, rồi mệt quá ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Khi con tỉnh dậy thì trời đã sáng, và con thấy hai bên đường xe chạy, cây cối um tùm, chớ không có nhà ở. Xe đậu lại giữa rừng, họ cho hai con ăn uống, nghỉ ngơi một lúc rồi lại bắt lên đi nữa. Lần này họ cho chúng con ngồi, có một người đàn ông ngồi cạnh con. Thỉnh thoảng ông ta nói chuyện với người lái xe, nhưng họ nói tiếng gì lạ hoắc, con không hiểu gì cả! Đến gần trưa, xe chạy đến một thành phố, như thành phố Đà Nẵng mà không có biển. Họ đem hai con vào trong một căn phố. Họ nói gì với nhau, rồi một bà già dẫn hai con vào nhà trong, cho ở một cái phòng nhỏ, chỉ vừa đặt một cái giường. Bà già này nói được tiếng Việt Nam mà trọ trẹ khó hiểu. Chị Gương bị mệt nằm mê man, con rờ trán chị thấy nóng hung lắm, mà con chẳng biết làm thế nào. Con đắp mền cho chị, rồi đi tìm bà bà già xin nước nóng cho chị uống. Bà già này đi xin thuốc và đem vào cho chị. Bà hỏi con vài câu và an ủi hai con chịu khó đừng khóc mà họ đánh. Con thấy bà già tử tế, muốn hỏi thăm bà đây là chỗ nào, làm sao mà đưa tin cho ông bà và anh Hai được, nhưng bà ấy bảo là bà nói ra thì bà sẽ bị họ đánh chết. Cả đêm chị Gương rên rỉ, thỉnh thoảng chị lại khóc thét lên, có người chạy vào xem, con phải cho họ biết là chị đau mê man, không thì họ cũng đánh. Sáng hôm sau, bà già đem cháo vào cho chị Gương ăn và cho chị uống thuốc, còn con thì bà dẫn ra ăn chung với cả nhà. Người trong nhà đông, đàn ông, đàn bà, có đến 4, 5 người, còn con nít thì 6, 7 đứa trạc tuổi như con và chị Gương. Họ nói tiếng gì con không hiểu được. Con không thấy đói, chỉ ăn được một bát cơm rồi vào ngồi với chị Gương. Chị hôm nay khá hơn, nhưng chị khóc hoài. Con nói nhỏ với chị là con sẽ kiếm cách xin bà già dẫn đi chơi, may ra gặp ai biết để đưa tin về nhà. Một lúc sau, bà già vào thăm hai con. Bà nói những lời khi sáng: bà an ủi hai con bằng lòng theo số phận; đừng khóc mà họ đánh thêm khổ. Rồi bà kể cho hai con nghe đã có nhiều đứa bị đánh chết, họ đem xác chôn trong rừng, chẳng ai biết. Chi bằng cứ vui lòng chịu như thế nầy, rồi lớn lên tìm cách mà trốn đi. Bà nói nhỏ nhỏ chỉ hai đứa con nghe câu được câu mất. Bà tỏ ra thương hai con lắm, nên cũng đỡ khổ. Chị Gương khóc, bà lau nước mắt cho chị và an ủi chị. Con xin bà đi xem phố cho vui, bà hứa sẽ xin phép ông chủ rồi dẫn hai con đi, nhưng bà dặn con phải ngoan ngoãn, không được tìm cách trốn đi, và không được nói gì với ai, kẻo bà bị họ đánh. Con hứa với bà sẽ nghe theo lời bà dạy. và hôm sau, lúc chị Gương ngủ, bà dẫn con đi. Đi qua một chỗ có cây mát có chỗ ngồi, con xin bà lại ngồi nghỉ. Rồi con xin bà liệu cách sao cho con có giấy bút để viết thơ về nhà được. Ban đầu bà nói không được, nhưng con nài nẵng mãi, thì bà bảo là bà không có tiền mua giấy, mua tem. Con lấy cái “lắc” đưa cho bà, nhờ bà bán đi mua giấy và viết chì cho. Bà dẫn con đi vào một cái nhà, bà đưa cái “lắc” ra và nói gì một lúc, thì người chủ nhà đưa cho bà một xấp giấy, một cây bút chì và mấy cắc bạc nữa. Bà dẫn con về nhà. Bà cất giấy và viết chì vào trong áo bà và dặn con không được nói ra, nếu nói ra thì hai con cũng chết mà bà cũng chết.
Tối hôm ấy, bà già lại đem cháo cho chị Gương ăn và bà nói với hai con là bà đã xin được ngày mai dẫn hai con đi chơi suốt buổi sáng cho khuây khỏa. Bà dặn nhỏ là bà sẽ kiếm chỗ cho con ngồi viết thơ về nhà, rồi bà sẽ gởi đi cho. Con cố xin bà cho biết ở đây là xứ nào, mà bà lắc đầu không chịu nói. Cả đêm con nằm nghĩ lại mọi sự trước sau, để viết lá thơ này cho Ba, ông bà và anh Hai rõ. Chị Gương dặn con thêm là chị nhớ Ba, ông bà và anh Hai lắm. Chị khóc tức tưởi, nói không biết khi nào lại thấy được mặt Ba, ông bà và anh Hai!
Sáng hôm sau, ăn cơm sáng xong, bà già đem áo quần cho hai con thay và bà bím tóc cho chị Gương. Bà lấy thứ nước gì đen đen xoa mặt mũi và chân tay hai con cho khác dạng đi. Giá mà Ba, ông bà và anh hai có gặp được hai con bây giờ e không nhận ra. Con nhìn chị Gương giống như cố gái Chiệc, con bắt tức cười. Bà già dẫn hai con đi loanh quanh. Dọc đường bà kể cho hai con nghe bà là người Tàu, sang Sàigòn từ hồi còn nhỏ. Bà có chồng mà chết rồi. Bà có một người con lớn như chị Gương mà cũng chết rồi. Bà không biết làm gì để sống, nên phải lên đây ở thuê. Bà nói bà chủ và người con gái đã bắt cóc hai con, thường ở Sàigòn. Hễ dụ dỗ được đứa nào thì cho người đem lên đây rồi đem về bên Tàu. Bà nói thấy hai đứa con bị bắt thì bà thương, mà không biết làm thế nào. Bà an ủi hai con rán chịu cực, khi lớn thì hãy tìm cách trốn, chớ đừng trốn bây giờ, họ bắt được thì họ đánh chết uổng mạng. Nghe bà nói hai con sẽ bị đem qua Tàu, thì con rùng mình lo sợ, nước Tàu chắc là xa lắm. Bà dẫn hai con vào trong một cái miếu bỏ hoang, rồi bà đưa giấy cho con viết thơ này. Vì con không biết được nơi con đang ở là đâu nên con đề là Thơ thứ nhất. Con mong Ba, ông bà và anh Hai bắt được lá thơ nầy. Cầu trời cho con lại gặp được Ba, ông bà và anh Hai.
Nay kính thơ,
Hai con là Gương Lành ký
Nghe đọc xong lá thơ dài của em Lành, cả nhà òa lên khóc. Ông Thành Hưng lấy bao thơ xem kỹ, thấy dấu bưu điện Vạn Tượng (Lào) ông liền bảo mọi người:
- Thôi chúng ta dẹp chuyện buồn. Còn nước còn tát. Đây là dấu nhà Bưu Điện Vạn Tượng nước Lào, như thế chắc chắn là hai đứa nhỏ bị bắt cóc còn đang ở trên Vạn Tượng. Ta hãy lo giấy tờ cho Liêm và một người nhà lên đó tìm, đồng thời xin sở cảnh sát ở đây gởi hình hai đứa lên cho sở Mật thám ở trên đó xét chỗ người Tàu ở, xem có hai đứa nhỏ nào hình dạng như thế không!
Hai tuần lễ sau, cậu Liêm và một người nhà xin được giấy phép lên Vạn Tượng. Đến nơi, vào gặp ông Chánh sở Mật thám, thì họ cho biết là đã dò tìm hết sức trong vùng người Tàu ở, mà không thấy có đứa bé nào như trong hình gởi lên cả. Cậu Liêm buồn rầu, ở lại Vạn Tượng hai tuần lễ để tìm kiếm may ra biết được tung tích gì không. Mới được mười ngày, ở nhà lại đánh điện lên gọi về gấp. Cậu vội vã về nhà, thì ra ở nhà lại được lá thơ của hai em Gương Lành. Lá thơ này thì em đề địa chỉ ở Vinh.
THƠ THỨ HAI
Vinh.
Thưa Ba, Ông bà và anh Hai:
Hôm con gởi cái thơ thứ nhất được một tuần, thì một buổi sáng, con đang quét nhà, chị Gương đang hái rau với bà già thì thấy mấy người lớn chạy ra chạy vô, nói xầm xì với nhau. Rồi họ dẫn hai con lên trên lầu nhốt vào trong phòng tắm và họ bảo phải ngồi yên, không được cựa quậy và không được nói gì với nhau. Không vâng lời thì họ sẽ giết chết. Hai đứa con lo lắng không biết vì sao. Mãi đến trưa, bà già đưa cơm lên cho hai con ăn cho hay là hồi sáng có mật thám đi xét, và bà bảo tối nay họ sẽ đưa hai con ra Bắc, rồi đem sang Tàu. Bà đưa cho con khúc viết chì và mấy tờ giấy cùng hai cắc bạc. Bà vuốt ve và an ủi hai con, cùng nhắc lại lời bà dặn hôm trước: hai cháu rán chịu cực ít năm, lớn lên rồi tìm cách trốn, chớ đừng trốn bây giờ không lọt tay họ đâu, mà rồi họ giết chết uổng mạng. Chiều hôm đó còn có người đến cắt tóc chúng con. Tóc chị Gương họ cắt ngắn đi, còn con thì họ cạo trọc lóc. Tối đến cơm nước xong, hai người đàn ông vào trói tay chân và bịt miệng chúng con lại, bỏ mỗi đứa vào cái bao vải, rồi đem ra xe. Xe chạy mau, đường thì gập ghềnh, hai con bị trói như con heo, cực khổ quá chừng. Ban đầu con còn nghe chị Gương khóc thút thít, một chặp xe dằn quá, con không nghe chị khóc nữa, con tưởng chị chết, con lo quá. Xe cứ chạy cho đến gần sáng mới dừng lại, họ cởi trói và cho chúng con nghỉ một lúc. Chị Gương mệt quá, đứng không vững nữa, con phải đỡ chị. Sáng sớm, xe lại chạy mãi, chỉ dừng lại ăn cơm tối thôi. Đến tối họ đem chúng con vào trong một căn nhà và giam chúng con trên gác. Chúng con nằm xuống sàn gác, ngủ mê mệt. Đến sáng ngày có một cô gái đem cơm lên cho chúng con ăn. Thấy cô có vẻ hiền từ và chăm chú nhìn chúng con, con đánh bạo hỏi cô:
- Thưa cô, có phải cô là người Việt Nam không?
Cô ta nhìn xuống dưới rồi đáp nhỏ:
- Phải! Mà họ cấm chị không được nói gì với mấy em. Họ biết được thì họ đánh chết. Nghe nói tối nay, họ sẽ đem hai em qua Tàu.
Con nài nỉ:
- Em nhờ cô bỏ giùm cho em cái thơ được không?
Cô ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
- Em cứ viết đi, rồi chiều chị đem cơm lên chị sẽ lấy đi gởi cho, mà phải kín đáo, họ biết được thì chết cả lũ!
Con viết thơ thứ hai này tin cho Ba, ông bà và anh Hai được rõ. Có lẽ từ đây chúng con không còn gởi được lá thơ nào nữa, nhưng chúng con hy vọng mấy năm nữa, chúng con lớn lên sẽ tìm cách trốn thoát. Cầu trời cho chúng con được gặp lại Ba, ông bà và anh Hai.
Hai con là Gương Lành ký
Cậu Liêm đọc xong bức thơ, gục đầu xuống bàn khóc: thế là hết hy vọng tìm được hai em! Nước Tàu rộng bao la, hai em nhỏ dại bị bắt về đó, chẳng khác gì đôi chim sẻ giữa rừng xanh, biết lối nào mà ra, biết đâu mà tìm... Nghĩ lại những chuyện cũ từ ngày gặp các em cho đến ngày các em bị mất tích: ngày vui ít, ngày buồn nhiều, mà còn kéo dài không biết cho đến khi nào, cậu Liêm sụt sùi khóc thương số kiếp long đong của hai em.