Dịch giả: LÂM HOÀNG MẠNH - NGUYỄN HỌC
CHƯƠNG XI
TÁI KIẾN THIẾT VÀ CUỘC KHÁNG CHIẾN

     ai tháng sau khi kết thúc chiến tranh Thái Bình Dương, tình hình ở Hà Nội lâm vào cảnh hiểm nghèo gần như thảm hoạ. Gánh nặng đặt lên Hồ Chí Minh, vị trí người lãnh đạo của Đảng và chính phủ. Trong khi những người hiếu chiến trong nội bộ Đảng cộng sản Đông Dương đòi mạnh tay dẹp các nhóm đối lập, Hồ kiên trì chính sách hoà giải, thương lượng nhằm chia rẽ và cô lập kẻ thù của Đảng. Dù nhiều người Việt Nam chống đối người Pháp trở lại ở miền Bắc, ông đánh tiếng chấp nhận sự hiện diện của Pháp - miễn là họ đến như những người bạn, không phải là những kẻ xâm lược.
Chính phủ Hà Nội đang tìm kiếm một giải pháp chính trị thì cũng bắt đầu chuẩn bị chiến tranh. Chính phủ cố gắng tổ chức những đơn vị tự vệ, du kích ở Bắc Kỳ và các tỉnh Trung Kỳ. Mùa Thu, những đơn vị tự vệ, được Hồ Chí Minh ca ngợi là “bức tường thép của tổ quốc”, được tổ chức ở hầu hết thôn xóm, xã, đường phố và nhà máy khắp các vùng thuộc chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong một số trường hợp, có đơn vị gồm một hoặc hai trung đội. Đơn vị có nhiều trung đội được biên chế thành tiểu đoàn. Ở Hà Nội, dân quân tự vệ gồm toàn thanh niên ở thành phố và con số lên đến hàng chục ngàn người. Những đơn vị đó đặt dưới quyền cán bộ đảng địa phương được chính phủ huấn luyện quân sự, nhưng họ phải tự lo vũ khí và lương thực. Lực lượng bộ đội địa phương gồm những chiến sĩ xung kích tuyển chọn từ Hội Thanh Niên Cứu Quốc, chủ yếu là công nhân và sinh viên. Họ được Bộ Quốc Phòng cung cấp vũ khí, có doanh trại riêng, được huấn luyện tại Trường Huấn luyện Tự vệ Hồ Chí Minh.
Lực lượng quân đội chính quy dựa trên Việt Nam Giải Phóng Quân vừa mới đổi tên thành Vệ Quốc Đoàn. Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân đội gồm những tiểu đoàn, trung đội. Trường đào tạo kháng Nhật được thành lập ở Việt Bắc trước Cách mạng tháng Tám bây giờ chuyển thành Trường Quân Chính Việt Nam, mặc dù nó được trá hình là chương trình huấn luyện cán bộ để xoa dịu quân Tưởng. Nhiều tháng sau khi kết thúc chiến tranh, lực lượng quân đội chính quy đã được tăng cường bằng cách tuyển những sĩ quan và binh lính từ Bảo An Binh. Sức mạnh của nó gồm những đơn vị chiến đấu ở miền Nam, ước tính khoảng tám mươi ngàn bộ đội.[1]
Một trong những vấn đề chính là thiếu vũ khí. Chính phủ có trong tay các loại vũ khí khác nhau, một số vũ khí cổ lỗ sĩ từ thế kỷ trước, một số ít mìn chống tăng, tiểu liên thu được từ quân đội Nhật Bản đầu hàng. Nhưng nhiều đơn vị chỉ có gậy, giáo hoặc súng kíp do thợ rèn địa phương tự chế. Trong một cố gắng tuyệt vọng để có vũ khí mới, Hồ Chí Minh biết phải đồng ý kế hoạch lấy tiền của nhân dân để mua vũ khí. Trong “Tuần lễ vàng” tổ chức cuối tháng 9-1945, nhân dân các tỉnh miền Bắc được vận động hiến những trang sức bằng vàng, những thứ đồ giá trị khác cho chính phủ để mua vũ khí từ quân đội chiếm đóng.
Theo Archimedes Patti, Hồ Chí Minh không tán dương về kế hoạch thu hút tiền từ quảng đại quần chúng, vì ông tin người nghèo sẵn sàng hy sinh, thể hiện lòng yêu nước, còn người giầu chỉ hiến một số lượng tượng trưng. Sự lo sợ của ông có lẽ đúng vì những người giàu có ở miền Bắc chỉ hiến một lượng tương đối ít, Hồ “cảm thấy giống như một kẻ phản bội” đã để “trò hề” diễn ra. Cuối cùng, chính phủ quyết định đánh thuế thực phẩm. Khi một quan chức chính phủ tính đến khả năng đánh thuế thịt gà, vịt, trâu, thì “công dân” Vĩnh Thuỵ có thể không có ý chống đối nhưng đế vào một câu “Ông còn quên thịt chó đấy”. Người đầu tiên cười ngặt nghẽo là Hồ Chí Minh.[2]
Để bổ xung nguồn vũ khí ít ỏi, chính phủ phát động thu gom hoặc sản xuất vũ khí bổ xung. Các thợ rèn địa phương mở lò rèn giáo, mác và mã tấu trang bị cho những đơn vị tự vệ thôn xóm. Thiếu nhi được huy động thu nhặt sắt vụn, còn người lớn góp những vật dụng gia đình, như mâm đồng, chảo gang, thậm chí đồ thờ, như lư hương và đỉnh đồng, tất cả được biến thành vũ khí. Tuy thế, Hồ Chí Minh luôn luôn vạch ra rằng vũ khí chủ yếu của quân đội là sự ủng hộ của nhân dân. Khi tới thăm các trung tâm huấn luyện ở Hà Nội, ông phát biểu về tầm quan trọng của cách ứng xử đúng đối với quảng đại quần chúng, trích lời của nhà văn Trung Quốc Lỗ Tấn:
“Trừng mắt coi khinh ngàn lực sĩ,
Khom lưng làm ngựa trước nhi đồng”.
Hồ Chí Minh tiếp tục đeo đuổi vấn đề then chốt bảo đảm sự sống còn của dân tộc, bắt đầu đường lối ngoại giao và chính trị hơn là quân sự. Nếu quân Tưởng có thể được xoa dịu, ông tin rằng mối đe doạ từ các đảng phái dân tộc chủ nghĩa đối lập có thể được bớt đi. Cho dù việc đó xảy ra, chính phủ Hà Nội có thể dùng mặt trận thống nhất để chống lại việc Pháp quay lại miền Bắc. Vấn đề ở chỗ, hai viên tư lệnh Lư Hán và Tiêu Văn đặc biệt không những không có thiện cảm với Việt Minh, mà còn ủng hộ những phần tử dân tộc chủ nghĩa. Áp lực đòi mở rộng thành phần nội các của họ tăng lên khi tướng Hà Ứng Khâm, tham mưu trưởng của Tưởng Giới Thạch tới Hà Nội giữa tháng Mười. Thông điệp của tướng Hà Ứng Khâm cho hai viên tư lệnh Lư Hán và Tiêu Văn ngắn gọn và rõ ràng: Phải làm giảm ảnh hưởng những người cộng sản ở Đông Dương.
Để tỏ thiện chí làm việc với những phần tử dân tộc chủ nghĩa - thậm chí cả những người công khai chống cộng sản - Hồ ra lệnh thả Ngô Đình Diệm, một nhà hoạt động chính trị bị chính quyền Việt Minh bắt. Ngô Đình Diệm là con trai một viên quan yêu nước của triều đình Huế, Diệm từng là Bộ trưởng Bộ Nội Vụ trong nội các Bảo Đại trước Thế chiến II, nhưng từ chức để phản đối Pháp không chấp nhận chủ quyền đày đủ của Bảo Đại. Là con chiên ngoan đạo, Diệm tỏ thái độ công khai ghê tởm những người cộng sản, thái độ này càng tăng lên khi người anh của ông, Ngô Đình Khôi, bị Việt Minh hành quyết trong Cách mạng tháng Tám.
Việc Hồ thả Diệm (ông Diệm chỉ bị giam giữ ở Bắc Bộ Phủ, không phải trong tù) khiến một số đồng chí của ông phản ứng, trong đó có Bùi Lâm - một người bạn cũ từ những ngày sống với nhau ở Paris. Nghe Lâm trình bày, Hồ đáp, thả Diệm lý do duy nhất vì danh tiếng của ông thân sinh ra Diệm. Ông nói thêm, dù thế nào đi nữa, người Pháp lúc nào cũng tìm được một người khác để thay Diệm, vì thế làm việc này để có được sự ủng hộ của càng nhiều người càng tốt. Hồ Chí Minh có thể phần nào mới chiếm sự ủng hộ của Cộng đồng giáo dân Thiên Chúa, nhiều người trong số họ có học thức cao và có ảnh hưởng lớn trong nước. Ông bổ nhiệm một người Ky-tô giáo vào nội các và thỉnh thoảng đi lễ nhà thờ ở Hà Nội. Nhưng ông cũng gửi tín hiệu hoà giải tới các nhóm khác, đi thăm đại diện đồng bào miền núi, thắp hương nhân ngày sinh Khổng Tử ở Văn Miếu.[3]
Hồ Chí Minh cũng sử dụng quyền lực của mình để thuyết phục và lôi kéo tướng lĩnh quân Tưởng, tận dụng mâu thuẫn trong đám tướng lĩnh Tưởng ở Đông Dương. Dưới áp lực của tướng Tiêu Văn, cuối tháng Mười, Hồ tiến hành đàm phán bí mật với những lãnh tụ đảng phái dân tộc chủ nghĩa không cộng sản khác nhau, như Nguyễn Hải Thần, mang tên mới “lãnh tụ tối cao” của Đảng Đại Việt, cũng như với đại diện Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội. Nhưng những cuộc thương lượng gặp phải khó khăn ngay từ ban đầu, khi Đồng minh Hội đòi thành lập một chính phủ mới hoàn toàn, chỉ có vài bộ trưởng không phải là Việt Minh, đòi thay tên Mặt trận Việt Minh và thay quốc kỳ mới. Một số đồng chí của Hồ Chí Minh thắc mắc việc thương lượng với các kẻ thù của Đảng, nhưng Hồ cam đoan, đây đơn thuần vì những mục đích chiến thuật thôi. Một đồng chí của ông kể lại:
Chúng tôi thường đụng độ với bọn Việt Quốc (Việt Nam Quốc Dân Đảng) tay sai Tưởng Giới Thạch, tôi chính là người muốn thủ tiêu, thanh toán bọn chúng. Một hôm, trong một cuộc họp, tôi hỏi Bác: “Thưa Bác, tại sao ta lại để cho bọn ám sát và phản bội đó tồn tại? Bác cứ ra lệnh, bảo đảm cháu sẽ cho bọn nó biến sạch ngay trong một đêm”. Bác cười, chỉ vào phòng, hỏi lại “Nếu có con chuột chạy vào phòng này, chú sẽ dùng đá ném hay đặt bẫy hoặc đuổi nó ra?” “Thưa Bác, nếu ném đá sẽ vỡ mất nhưng đồ quý trong phòng”.
Bác nói: “Bọn phản cách mạng cũng như thế. Chẳng có gì phải sợ họ, nhưng họ có những quan thầy. Để hoàn thành nhiệm vụ lớn, chúng ta cần phải biết cách nhìn xa hơn”.[4]
Hồ Chí Minh gạt bỏ hầu hết những đòi hỏi của nhóm dân tộc chủ nghĩa, nhưng ngày 11-11-1945, Đảng cộng sản Đông Dương bất ngờ tuyên bố giải thể, thành lập Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Marx Đông Dương. Đảng giải thích, muốn đặt yêu cầu của đất nước cao hơn cuộc đấu tranh giai cấp và lợi ích của toàn thể nhân dân cao hơn lợi ích của Đảng. Dù vậy, hành động này cũng không giảm được sự chống đối của các tổ chức chính trị ở thủ đô. Ngày hôm sau, một cuộc đụng độ lớn giữa những người ủng hộ Việt Minh và những phần tử dân tộc chủ nghĩa xảy ra trước cửa Nhà Hát Lớn dẫn đến hơn một chục người chết.
Đối với nhân dân Việt nam, động thái này hầu như không bị đánh giá thấp, rõ ràng đây mới chỉ là điểm chủ chốt nhằm xoa dịu chính quyền Trung Hoa đang chiếm đóng dẫn đến một hiệp định thỏa hiệp với các đảng phái dân tộc chủ nghĩa. Tài liệu của Đảng ở Hà Nội những năm sau này đã khẳng định, Đảng cộng sản Đông Dương thực tế không giải tán, chỉ đơn thuần rút lui vào bí mật và tiếp tục thống lĩnh những quyết định chính sách của Đảng suốt vài năm cho đến khi Đảng lại xuất hiện dưới tên mới năm 1951. Tuy thế, nguồn tư liệu nội bộ khẳng định, quyết định này là một quyết định gây tranh cãi và gây nên sự chống đối đáng kể trong nội bộ Đảng của những người đặt lợi ích đấu tranh giai cấp trên lợi ích dân tộc. Sau khi quyết định được công bố, những đảng viên nòng cốt được cử các địa phương khác nhau để giải thích với toàn thể đảng viên.[5]
Dù việc giải tán Đảng cộng sản Đông Dương gây nên những phản ứng trong nội bộ hàng ngũ lãnh đạo và làm các đảng cộng sản anh em trên thế giới ngạc nhiên, nhưng chính nước cờ này giúp dễ dàng những cuộc đàm phán hoà bình. Theo chỉ thị của Trương Phát Khuê, ngày 19-11-1945 tướng Tiêu Văn chủ trì cuộc họp giữa đại diện chính phủ Hà Nội với những thành viên các đảng phái dân tộc chủ nghĩa. Các đảng đồng ý về mặt nguyên tắc hình thành một chính phủ liên minh rộng rãi gồm những thành viên một số đảng phái. Họ cũng đồng ý đưa ra một cương lĩnh chung, thống nhất tất cả những đơn vị quân đội dưới quyền của chính phủ và triệu tập một hội nghị quân sự để thảo luận cách tốt nhất giúp đỡ đồng bào ở miền Nam đang bị vây hãm.
Vài ngày sau, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bí mật đánh giá tình hình chung và giải thích chính sách hiện tại. Những gì diễn ra tại cuộc họp ấy chưa bao giờ được tiết lộ, nhưng những quyết định đưa ra tại cuộc họp chứa đựng trong nghị quyết đưa ra sau khi kết thúc cuộc họp. Bản nghị quyết “Kháng chiến và Tái kiến thiết” phân tích những mâu thuẫn xuất hiện trong Đồng Minh, tìm cách khéo léo lôi kéo họ để có lợi cho cách mạng Việt Nam. Lúc này, nghị quyết kết luận, cả Trung Hoa và Hoa Kỳ chuẩn bị cộng tác với Pháp giúp khôi phục chủ quyền tại Đông Dương. Tuy nhiên, trước khi đồng ý rút quân, Chính phủ Quốc Dân Đảng ở Trùng Khánh chắc chắn phải đòi Pháp nhượng bộ. Chừng nào Hoa Kỳ còn dính líu sự chống đối của họ đối với nền độc lập của Việt Nam vẫn chưa lộ mặt:
Tuy Hoa Kỳ vẫn đang giữ vai trò trung lập ở Đông Dương, nhưng bí mật giúp Pháp bằng cách cho mượn tàu chiến chở quân sang Đông Dương. Một mặt, Hoa Kỳ muốn cạnh tranh với Anh và Pháp để có lợi thế ở Đông Dương và Đông Nam Á; Mặt khác, Hoa Kỳ cũng muốn cộng tác với Anh và Pháp thành lập một liên minh để bao vây Liên Xô và do vậy sẵn sàng hy sinh một số lợi ích của họ ở Đông Nam Á”.
Nghị quyết kết luận, trước hoàn cảnh đó, nội bộ Đảng phải hành động sao để chia rẽ được bọn chống phá. Về đối ngoại, cần thêm bạn bớt thù, bọn Tưởng nói riêng, bọn này coi chính phủ Việt Nam chỉ là một lực lượng giúp họ thực hiện mục đích đánh đuổi bọn thực dân châu Âu ra khỏi biên giới phía nam của họ. Pháp vẫn là kẻ thù chính, nhưng nó cũng có thể bị lôi kéo. Có nhiều khả năng, thí dụ như Pháp có thể thừa nhận độc lập dân tộc để cứu vãn thể diện trên trường quốc tế, bảo vệ quyền lực kinh tế ở Đông Dương. Ban lãnh đạo đảng kết luận, nếu vậy họ sẽ chuẩn bị có những nhượng bộ cần thiết trong vấn đề kinh tế để tìm kiếm độc lập.[6]
Thoả thuận ngày 19-11-1945 chỉ đưa ra đường lối chung chính phủ liên hợp, về chi tiết còn phải đàm phán thêm nữa. Trong khi đó, tất cả các nhóm kêu gọi từ nay trở đi hãy dừng những cuộc tấn công lẫn nhau và cùng thống nhất chống lại kẻ thù chung. Nhưng những cuộc thương lượng kéo dài hàng tuần lễ vẫn không đi đến kết quả. Đầu tiên những phần tử dân tộc chủ nghĩa đòi chức chủ tịch nước và 6 ghế bộ trưởng. Hồ Chí Minh bác bỏ bản dự thảo, chỉ thuận cho ba ghế và đề nghị thành lập nhóm cố vấn chính trị do Nguyễn Hải Thần đứng đầu. Thế nhưng những phần tử dân tộc chủ nghĩa không đồng ý. Trong khi các cuộc thương thảo tiếp tục, căng thẳng tăng lên và báo chí của Việt Nam Quốc Dân Đảng tăng cường những bài viết đả kích chính phủ. Chính phủ cũng tấn công lại. Sau này Võ Nguyên Giáp nhớ lại, có lần ông huy động những đơn vị tự vệ và những thành viên Hội Cứu Quốc địa phương, ra lệnh cho họ mặc thường phục, mang theo vũ khí, sau đó đưa họ đến phố Hàng Đậu để phá vỡ âm mưu của những phần tử dân tộc chủ nghĩa rải truyền đơn ở chợ Đồng Xuân. Đã xảy ra những đụng độ nhỏ trước khi lực lượng của Võ Nguyên Giáp nhặt những tờ truyền đơn và khiến những phần tử dân tộc chủ nghĩa bỏ chạy. Sau những sự vụ như thế, Hồ Chí Minh bị mời đến trụ sở của quân Tưởng và bị răn đe.[7]
Một trong những trở ngại trong thương lượng là việc chính phủ công bố sắc lệnh ngày 8-9-1945 kêu gọi tổng tuyển cử hai tháng trước khi bầu Quốc Hội mới. Sau cuộc họp ngày 19-11, chính phủ tuyên bố cuộc bầu cử sẽ tiến hành ngày 23-12-1945, nhưng đại diện các đảng phái dân tộc chủ nghĩa phản đối, viện cớ họ không đủ thời gian chuẩn bị. Tướng Tiêu Văn, theo chỉ thị của Trương Phát Khuê, từng bước phá vỡ bế tắc và ngày 19-12 đi đến thoả thuận dời cuộc bầu cử lui lại mười lăm ngày cho tới đầu tháng Giêng, sẽ thành lập một chính phủ lâm thời liên hợp mới vào ngày 1-1-1946. Theo thông cáo đưa ra cuối cuộc họp, Việt Nam Quốc Dân Đảng được đảm bảo có năm mươi ghế và Đồng minh Hội có hai mươi ghế trong Quốc Hội tương lai, bất kể kết quả cuộc bầu cử ra sao. Hồ Chí Minh sẽ làm chủ tịch và Nguyễn Hải Thần phó chủ tịch. Thành phần nội các của chính phủ bao gồm Việt Minh, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đảng Dân chủ, Đồng Minh Hội mỗi phái hai ghế bộ trưởng và hai ghế nữa dành cho những phần tử không đảng phái. Việt Minh và những phần tử dân tộc chủ nghĩa đồng ý ngừng những cuộc tấn công lẫn nhau, giải quyết bất đồng thông qua thương lượng.
Quyết định thành lập chính phủ liên hợp gây ra cơn bão lửa tranh cãi trong nội bộ Đảng và Mặt trận Việt Minh. Nghe tin Nguyễn Hải Thần sẽ được bổ nhiệm vào vị trí đứng đầu trong chính phủ, một cán bộ to tiếng với Hồ Chí Minh, người đã có mối quan hệ căng thẳng với Nguyễn Hải Thần từ thập niên 1920. Hồ trả lời “Phân là bẩn, đúng không? Nhưng nếu nó có ích bón lúa, tại sao ta không dùng nó?” Khi một số cho rằng Việt Minh và phe đối lập như lửa với nước, cớ sao lại nhượng bộ bảy mươi ghế, Hồ (thường hay dùng ẩn dụ) châm biếm: “Nếu lấy lửa để đun sôi nước thì lại có thể uống được đấy”.[8]
Ngày 1-1-1946, tân chính phủ ra mắt nhân dân tại Nhà Hát Lớn. Đứng trên ban công, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi hoà hợp dân tộc và công bố cương lĩnh chính phủ, kêu gọi Tổng Tuyển Cử theo những nguyên tắc dân chủ và thống nhất các lực lượng vũ trang khác nhau dưới quyền chỉ huy của chính phủ. Nguyễn Hải Thần phát biểu nhận một phần trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc hoà hợp dân tộc, hứa hẹn sẽ hợp tác chống Pháp đang xâm chiếm miền Nam.
Tổng tuyển cử dự kiến tổ chức ngày 6-1-1946, lần đầu tiên trong lịch sử đất nước. Dù có vài sự cố lẻ tẻ, không đáng kể, nhìn chung, cuộc bầu cử diễn ra trong hoà bình. Theo Võ Nguyên Giáp, chín mưoi phần trăm cử tri miền Nam đi bầu, mặc dù cuộc bầu cử chỉ diễn ra trong những vùng Việt Minh kiểm soát. Việt Minh tuyên bố giành được thắng lợi khi ứng cử viên của họ nhận được chín bảy phần trăm phiếu bầu. Kết quả đó lẽ ra Việt Minh phải có ba trăm ghế trong Quốc hội, nhưng đã hứa, giành bảy mươi ghế cho phe đối lập.[9]
Bản thân Hồ Chí Minh ứng cử ở một trong khu vực bầu cử Hà Nội. Các đồng chí của ông đề nghị, với tư cách chủ tịch nước ông được miễn ra ứng cử, nhưng Hồ từ chối. Theo thống kê của chính phủ, Hồ Chí Minh thu được 98,4 phần trăm phiếu bầu tại khu vực bầu cử Hà Nội.
Hồ Chí Minh hy vọng việc thành lập chính phủ liên hiệp giúp ông đại diện cho một mặt trận thống nhất đối với người Pháp. Trong cuộc họp cuối tháng 11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương hy vọng Paris có thể trả độc lập cho nhân dân Việt Nam để đổi lấy những nhượng bộ kinh tế.
Tuy nhiên, Paris có làm điều này hay không lại là chuyện khác. Tổng thống Charles De Gaulle không muốn đàm phán gì trước khi chủ quyền của Pháp ở Đông Dương được phục hồi. Trong bức thư gửi tướng Leclerc ngày 25-9-1945, ông bày tỏ tính cách độc đoán của mình: “Nhiệm vụ của ngài là khôi phục chủ quyền của Pháp ở Hà Nội, tôi rất ngạc nhiên là ngài vẫn chưa làm điều đó”. Nhưng những đại diện Pháp ở Đông Dương tỏ ra có chút thực tế hơn. Sau khi gặp Hồ cuối tháng 9-1945, Leon Pignon và tướng Alessandri đã miêu tả Hồ là người “có bản lĩnh đáng tin cậy”, đồng thời Jean Cedile điện từ Sài Gòn rằng phái ôn hoà trong chính phủ dễ dàn xếp, do vậy nên thương lượng. Ngày 10-10-1945, Paris điện cho Alessandri mở cuộc đàm phán với chính phủ Hà Nội “về tất cả vấn đề của Đông Dương”.[10]
Jean Sainteny trở lại Hà Nội hai ngày trước. Ông đã đến Ấn Độ vào tháng 9-1945 để gặp Đô đốc Thierry d'Argenlieu, vừa được De Gaulle bổ nhiệm làm Cao Uỷ Đông Dương. Về vị thế, Sainteny được toàn quyền trong những cuộc thương lượng về vấn đề Đông Dương, nhưng vị thế này chưa được chính thức hoá, nên ông xin từ chức, nhưng d'Argenlieu đề nghị ông trở lại Đông Dương được toàn quyền thương lượng. Vì thế Sainteny trở lại Hà Nội với danh xưng chính thức là Uỷ Viên Cộng hoà Pháp về Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, ông trú tại Ngân Hàng Đông Dương.[11]
Sainteny gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên giữa tháng 10-1945. Dù là một nhà thương lượng cứng rắn và yêu nước Pháp (sau này ông trở nên nổi bật trong lĩnh vực thuộc ngân hàng quốc tế), Sainteny kính trọng Hồ Chí Minh và cảm thấy tự đáy lòng Hồ là một người thân Pháp. Ông đi cùng Pignon, cố vấn tối cao chính phủ, một quan chức thực dân chuyên nghiệp từng phục vụ ở Đông Dương trước Thế chiến II và được trao nhiệm vụ khôi phục chủ quyền của Pháp. Hồ đi cùng Bộ trưởng Bộ Văn hoá Hoàng Minh Giám. Nhiệm vụ của Sainteny là thuyết phục Hồ đồng ý cho quân Pháp quay trở lại Bắc Kỳ, nơi còn ba mươi ngàn người Pháp đang sinh sống đổi lấy việc Pháp cam kết quân đội Tưởng ra đi. Lúc đó, tướng Leclerc đang có tám ngàn quân ở Nam Kỳ từ Sư đoàn II cơ giới nổi tiếng trong chiến dịch Normandy.
Nhiệm vụ của Sainteny rất tế nhị. Một cuộc can thiệp bằng vũ lực sẽ vấp phải sự kháng cự quyết liệt không những từ Việt Minh mà còn từ quân Tưởng đang tiến hành giải giáp ba mươi ngàn quân Nhật. Do vậy Sainteny không những cần phải cam đoan với Hồ Chí Minh về những ý định của Pháp, mà còn phải tìm cách thoả hiệp với bọn tướng lĩnh Tưởng. Với quan điểm thực tế đó, Sainteny cương quyết khuyên chính phủ Pháp không sử dụng vũ lực, ông cảnh báo “Nếu chúng ta có ý định khôi phục chủ quyền Pháp ở Bắc Kỳ bằng vũ lực, chúng ta vấp phải sự chống cự mạnh mẽ”.[12]
Sainteny nhanh chóng hiểu được lợi thế của mình. Lực lượng quân sự Việt Minh quá yếu và Hồ rất cần sự giúp đỡ của Pháp để tống khứ quân Tưởng. Trong khi đó, hai nước Đồng Minh lớn, Liên Xô và Mỹ, chẳng quan tâm gì đến vụ việc. Moscow còn bận tâm với tình hình chính trị hứa hẹn ở Pháp, nơi mà Đảng cộng sản Pháp đang ngấp nghé nắm quyền lực và chẳng buồn cử một đại diện hoặc thậm chí một quan sát viên nào đến Hà Nội. Còn Mỹ, đang lo ngại sự thống trị của Liên Xô ở Đông Âu sau chiến tranh, cũng lo sợ viễn cảnh một chính phủ cánh tả ở Paris và cố gắng cam đoan với Pháp rằng Mỹ không phản đối Pháp quay lại Đông Dương.
Hồ Chí Minh hiểu những yếu tố đó khi ông đàm phán với Sainteny. Ngay từ đầu, ông đã hết mức thành thật bầy tỏ rằng, mặc dù mục tiêu lâu dài của ông là giành độc lập dân tộc hoàn toàn cho Việt Nam, song ông cũng chấp nhận thu xếp mục tiêu này lui lại vài năm. Ông giải thích, trong thời gian đó chính phủ ông chấp nhận sự hiện diện của Pháp ở Bắc Việt Nam và có chân trong Liên hiệp Pháp, chừng nào Pháp đồng ý mục tiêu cuối cùng là độc lập.
Dù vậy, những cuộc hội đàm không phải dễ dàng. Vấn đề bắt đầu một phần từ câu chữ, mặc dù có những vấn đề thực tế trước hiểm hoạ. Hồ và các cố vấn của ông khăng khăng đòi đưa từ “độc lập” vào văn bản cuối cùng, chữ này chắc chắn De Gaulle phản đối. Tướng Leclerc, sau khi hội đàm với Mountbatten (Tư lệnh lực lượng Anh ở Đông Nam Á) ở Ceylon, đã trở lại Sài Gòn và làm nhịp cầu mới bắc qua hố ngăn cách bằng cách đề xuất Paris khả năng đưa ra thể chế phù hợp cho Đông Dương (từ mà ông đề nghị là “tự trị”). Nhưng De Gaulle nổi giận: “Nếu tôi nghe được những từ như thế, chẳng mấy chốc Pháp sẽ không còn là đế chế nữa. Hãy đọc thật kỹ câu chữ trong tuyên bố ngày 24 tháng 3 của tôi và tuân thủ trung thành văn bản này”. Tháng 10-1945, Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Trùng Khánh đề nghị Pháp ra tuyên bố mới về những ý định ở Đông Dương, De Gaulle bực dọc đáp: “Chính phủ Pháp lúc này không muốn đưa ra một tuyên bố mới về Đông Dương. Bản tuyên bố tháng Ba vẫn còn hiệu lực. Một sự lặp lại sẽ làm phức tạp thêm tình hình”.[13]
Trở ngại lớn thứ hai là thể chế tương lai của Nam Kỳ. Hồ muốn gộp chung cả vào đàm phán với Bắc Kỳ và Trung Kỳ, nhưng Sainteny, theo lệnh của Paris, khăng khăng Nam Kỳ là thuộc địa cũ của Pháp, nên thể chế của Nam Kỳ phải được nhìn nhận khác với các vùng khác. Sainteny lập luận, dân chúng Nam Kỳ được phép tự quyết định số phận của chính họ.
Cả hai bên tranh cãi liên miên về từ ngữ và câu chữ suốt mấy tuần liền trong căn phòng mịt mù khói thuốc. Sainteny hút tẩu, còn Hồ hút đủ thứ thuốc lá Tàu, Mỹ và Gaulois khét lẹt của Pháp. Thỉnh thoảng, cuộc hội đàm ngừng lại để Hồ Chí Minh tham khảo ý kiến chính phủ ông, hoặc với cố vấn tối cao, cựu hoàng Bảo Đại. Mối quan hệ của Hồ Chí Minh với “công dân” Vĩnh Thuỵ thực khó hiểu đối với Sainteny và những người tham dự. Hồ luôn luôn hỏi ý kiến vị cựu hoàng với thái độ lễ phép, thậm chí có lúc ông đề nghị Bảo Đại làm người đứng đầu nhà nước trong tương lai. Có lần ông khiển trách một cán bộ dưới quyền gọi Bảo Đại đơn giản là “ông cố vấn”. Ông quở trách: “Anh cần phải xưng hô “thưa Ngài” như tôi làm”.[14]
Là cố vấn tối cao của chính phủ Hà Nội, Bảo Đại thường xuyên dự các cuộc họp chính phủ và cảm thấy như ở nhà, kể cả trong quan hệ với những người mà ông cho là “lũ gác cổng thủ cựu”, hoặc với nhóm người theo đường lối hiếu chiến như Bộ trưởng Tuyên truyền Trần Huy Liệu, nhiều năm trước đây sống ở Nga hoặc trong tù. Trong bữa tiệc ngay sau khi được bổ nhiệm, Hồ cam đoan với Bảo Đại “chúng ta sẽ cùng nhau làm việc vì độc lập của đất nước”. Thoạt đầu Bảo Đại có cảm tình với cử chỉ yếu đuối và mềm dẻo của vị chủ tịch mới, thích nói chuyện văn thơ hơn chính trị và có vẻ giống một nhà nho hay thầy đồ hơn là điệp vụ Quốc tế Cộng sản hay chủ tịch nước. Bảo Đại so sánh Hồ với những phần tử dân tộc chủ nghĩa không cộng sản mà ông coi là “những con rối nằm trong tay bọn Trung Hoa”. Hồ, trong những cuộc thương lượng với bọn tướng lĩnh Tưởng, luôn giữ bình tình. Tuy nhiên, sau này Bảo Đại nhận ra bộ mặt thật của Hồ và của chính phủ ông. Khi nghe tin Phạm Quỳnh, cựu thủ tướng của ông và Ngô Đình Khôi, anh trai Ngô Đình Diệm, bị bắt, Bảo Đại đã phản đối Hồ Chí Minh, yêu cầu thả họ cùng với những tù chính trị. Nhưng Hồ ậm ừ giải thích, nhân dân sẽ không hiểu việc này. (Như đã nói ở trên, cả hai ông này cuối cùng bị hành quyết).
Cuối cùng, Bảo Đại bắt đầu nghi ngờ, chính phủ sử dụng ông làm con cờ để tạo vẻ hợp pháp với Hoa Kỳ. Tháng 10-1945, khi căng thẳng giữa Việt Minh và những đối thủ dân tộc chủ nghĩa bắt đầu tăng cao, Bảo Đại được đưa về Thanh Hoá để lánh nạn. Ông trở lại sau khi thành lập Chính phủ Liên hiệp lâm thời tháng 1-1946, và được bầu làm đại biểu Quốc Hội mới. Trong vài tuần lễ tiếp đó, ông cùng Hồ Chí Minh chúc Tết một số nơi “để dân chúng thấy ông vẫn còn sống”.[15]
Dưới vỏ bọc hợp pháp của chính phủ liên hiệp mới thành lập, Hồ Chí Minh nối lại thương lượng với Sainteny ngay những tuần lễ đầu tiên năm 1946. Thoạt đầu, quan điểm hai bên cách xa đến mức tưởng không thể thoả hiệp được. Trong thời gian đó Kenneth Landon, quan chức Vụ Đông Nam Á Bộ Ngoại Giao đến Hà Nội giữa tháng 1-1946 tìm hiểu tình thình thực tế, Sainteny cam đoan với Kenneth Landon chính phủ Pháp sẽ tìm cách hoà giải với Việt Nam. Nhưng khi nói chuyện với Hồ Chí Minh, Landon nhận ra Hồ Chí Minh ít lạc quan về triển vọng dàn xếp. Hồ yêu cầu sự trung thực của Pháp và vạch ra quyết tâm sắt đá của nhân dân Việt Nam giành hoàn toàn độc lập. Trước khi chia tay, Hồ nhờ Landon chuyển một bức thư tới tổng thống Truman. Thư nói rằng Hoa Kỳ đang chuẩn bị chấp nhận hoàn toàn độc lập cho Philippines, Hồ khẩn khoản yêu cầu Mỹ ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam để giải phóng dân tộc.
Sự hoài nghi của Hồ Chí Minh về âm mưu của Pháp là có cơ sở khi Bộ Ngoại Giao Pháp nói với đại sứ Mỹ Jefferson Caffery, dù Pháp có thái độ “tự do và tiến bộ” trước đòi hỏi của Việt Nam, nhưng việc độc lập hoàn toàn vẫn chưa được xem xét đến trong lúc này. Caffery hy vọng Pháp sẽ có quan điểm thực tiễn hơn trong việc giải quyết vấn đề và lưu ý Washington “một số viên tướng thủ cựu” đã lũng loạn đường lối của chính phủ đối với Đông Dương.[16]
Dù có dấu hiệu Pháp không nhượng bộ, áp lực tăng lên đối với Pháp khi cuộc thương lượng Pháp - Trung ở Trùng Khánh sẽ dẫn đến quân Tưởng phải rút đi và thay thế bằng quân Pháp. Để làm dễ dàng thương lượng, Hà Nội bắn tin sẽ đồng ý nhượng bộ để dẫn đến dàn xếp thoả đáng. Có những dấu hiệu tương tự về thoả hiệp ở Paris, khi Charles De Gaulle từ chức giữa tháng 1-1946 do việc thành lập và chính phủ liên hiệp ôn hoà đứng đầu là Felix Gouin - người của Đảng Xã hội.
De Gaulle không đề xuất cho người kế nhiệm mình xử lý vấn đề Đông Dương như thế nào, mặc dù sau này ông trừng phạt Cao Uỷ d'Argenlieu là lẽ ra trật tự phải được khôi phục trước khi mở những cuộc hội đàm. Tháng 1-1946, d'Argenlieu trở lại Paris tham khảo chính phủ mới, đồng thời chỉ thị tướng Leclerc không được dùng từ “độc lập” khi hội đàm với Hồ Chí Minh. Nhưng Sainteny báo cáo, Hồ khăng khăng đòi có câu “độc lập trong khối Liên hiệp Pháp”. Sainteny cảnh báo, nếu không thế, có thể dẫn đến chiến tranh. Ngày 14-2, Leclerc điện về Paris nói nếu Pháp đồng ý từ “độc lập”, vấn đề thương lượng có thể được giải quyết. Leclerc cho rằng “đây là thời điểm thích hợp để chính phủ Pháp bày tỏ chắc chắn chữ độc lập”. Leclerc nói, độc lập có thể “theo những cơ sở hạn chế, trong bối cảnh Liên hiệp Pháp, đối với toàn Đông Dương”. Nhưng d'Argenlieu - một thày tu phá giới xảo quyệt với quan điểm bảo thủ được mệnh danh là “bộ óc thông minh nhất của thế kỷ XII″, đã không chấp nhận ý tưởng này.[17]
Trước khi từ chức, De Gaulle cũng cử Bộ trưởng Max Andre tới Hà Nội để thăm dò thái độ Hồ Chí Minh về thương lượng. Theo nguồn tin phía Pháp, Hồ bắn tin Max Andre biết sẵn sàng cho phép quân Pháp vào miền Bắc với những điều kiện nhất định. Nhưng Hồ cũng bị áp lực ngay chính khu vực ông ứng cử, không cho người Pháp trả lời. Những người dân tộc chủ nghĩa đả kích ông đàm phán với Pháp, đòi giải tán “chính phủ của những kẻ phản bội”, bán rẻ quyền lợi độc lập Việt Nam để giữ quyền lực cho chính mình.
Mọi xu hướng thoả hiệp ngày càng khó khăn do cuộc xung đột ở miền Nam tăng mạnh lên. Tháng 11-1945, quân Pháp đổ bộ ven biển miền Trung, chiếm thành phố nghỉ mát Nha Trang. Thành phố này sau đó bị quân đội Việt Minh bao vây. Vài tuần sau, quân Pháp do tướng Alessandri chỉ huy vượt biên giới Hoa - Việt vào Lai Châu, bắt đầu cắt đứt vùng biên giới ngăn cản Việt Minh liên hệ với những người ủng hộ ở nam Trung Hoa. Những đơn vị Vệ Quốc Đoàn ở Hà Nội được điều động để ngăn chặn hoặc làm chậm bước tiến quân của Pháp. Trong một cuộc phỏng vấn, tướng Lư Hán xác nhận quân Pháp vào Việt Nam, nhưng phủ nhận tin đồn một hiệp định cho phép quân Pháp vào Đông Dương được đưa ra tại cuộc thương lượng Pháp - Trung.
Tuy nhiên, giữa tháng 2-1946, nguồn tin của Pháp xác nhận, một hiệp định với Trung Hoa dẫn đến việc rút quân Trung Quốc chiếm đóng ra khỏi Đông Dương sắp được ký kết, cảnh báo chính quyền Hà Nội, cuộc dàn xếp chính trị giữa Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải đạt được nhanh chóng. Nếu không, họ hé lộ, hậu quả có thể rất tai hại. Trong bức điện gửi về Paris ngày 18-2, Sainteny báo cáo cuộc đàm phán với Hồ Chí Minh hai ngày trước đó, Hồ chấp nhận từ bỏ đòi hỏi phải có chữ “độc lập” trong một thoả thuận hoà bình và đồng ý Việt Nam là thành viên trong khối Liên hiệp Pháp. Nhưng Hồ đòi đổi lấy việc này “chính phủ Pháp phải công nhận nguyên tắc chính phủ tự trị ở Việt Nam”. Ở Paris, d'Argenlieu bày tỏ sự chấp thuận của mình về mặt nguyên tắc.
Trong lúc những cuộc thương lượng đang tiến diễn, ngày 20-2-1946, hãng Reuters công bố những điều khoản của hiệp định Pháp - Trung sắp ký, theo đó Trùng Khánh cho phép quân Pháp vào miền Bắc để thay thế quân đội Tưởng. Pháp bắn tin không ngần ngại dùng vũ lực nếu Hà Nội từ chối thoả hiệp, tướng Leclerc bắt đầu chuẩn bị đưa quân Pháp đổ bộ vào Hải Phòng. Khi tin tức này đến Hà Nội, cả thành phố lo buồn. Những phần tử dân tộc chủ nghĩa, vốn căm tức về những tin tức Hồ đồng ý thoả hiệp về vấn đề độc lập, đã tổ chức những cuộc biểu tình ở những khu phố buôn bán và kêu gọi tổng bãi công chống lại chính phủ. Một số người còn đòi Hồ Chí Minh từ chức và thành lập một chính phủ mới do “Công dân” Vĩnh Thuỵ đứng đầu. Khi đám đông đến hồ Hoàn Kiếm chạm trán với những người biểu tình thân chính phủ, cuộc đụng độ nổ ra giữa hai nhóm.
Trả lời phỏng vấn ngày 22-2-1946, Hồ Chí Minh từ chối bình luận tin đồn về hiệp định Pháp - Trung, nhưng những sự kiện sau đó cho thấy giới lãnh đạo Việt Nam lo lắng. Suốt mấy ngày sau, chính phủ tăng cường chuẩn bị chiến tranh, thành lập thêm những đơn vị tự vệ, yêu cầu trẻ em và người già rời thành phố. Trong khi đó, gấp rút thành lập chính phủ liên hiệp mới, triệu tập họp Quốc Hội, gồm những đại biểu được bầu hồi tháng 1-1946. Sainteny bày tỏ nguyện vọng xem xét khả năng quyền tự trị cho Việt Nam (không nhắc đến từ độc lập), nhưng ông lại đưa ra một rào cản khi tuyên bố từ chối ký hiệp định trừ khi chính phủ Việt Nam được mở rộng cho những đại diện của tất cả các nhóm dân chúng.[18]
Những cuộc hội đàm giữa đại diện Việt Minh và các đảng phái dân tộc chủ nghĩa trở nên căng thẳng, chẳng hạn Việt Nam Quốc Dân Đảng, được quân Tưởng ủng hộ, vẫn đòi chiếm đa số ghế trong chính phủ mới. Có vẻ như có lúc Hồ đã mất hy vọng đạt được một thoả thuận. Theo Bảo Đại, sáng 23-2-1946, Hồ bất thình lình đến thăm, đề nghị Bảo Đại ra nắm quyền. Hồ thở dài: “Thưa Ngài, tôi không biết làm gì hơn. Tình hình quá căng thẳng. Tôi hiểu rõ người Pháp không muốn nói chuyện với tôi. Tôi không thuyết phục được Đồng Minh ủng hộ. Cả thế giới bảo tôi đỏ quá. Tôi đề nghị ngài hãy hy sinh một lần nữa và ra nắm chính quyền”.
Thoạt đầu Bảo Đại khước từ, nhưng sau đó đồng ý thảo luận vấn đề với các cố vấn của ông, nhiều cố vấn khuyên ông nên nhận. Nhưng bây giờ đến lượt Hồ thay đổi ý kiến. Chiều hôm đó, Hồ mời Bảo Đại đến, nói:
“Thưa Ngài, hãy quên những điều tôi nói lúc sáng. Tôi không có quyền từ bỏ những trách nhiệm của mình lúc khó khăn. Trả lại quyền lực cho ngài là sự hèn nhát của tôi. Xin ngài hãy tha lỗi cho phút yếu mềm và ý định chuyển gánh nặng trách nhiệm cho ngài. Tôi có kế hoạch từ chức chẳng qua vì sự chống đối quyết liệt của các đảng phái dân tộc chủ nghĩa với hiệp định mà tôi đang thảo luận với Pháp”.
Cái gì đã làm Hồ thay đổi ý định? Chỉ biết là ngày hôm sau, chính phủ thông báo, các đảng phái đã thoả thuận thành lập chính phủ liên hiệp mới. Hai bộ quan trọng nhất là Nội Vụ và Quốc Phòng được trao cho các phần tử trung lập. Việt Minh và Đảng Dân Chủ (bù nhìn của Việt Minh), Việt Nam Quốc Dân Đảng, và Đồng minh Hội chia nhau tám ghế còn lại. Theo Võ Nguyên Giáp, Hồ đã thảo luận với Tiêu Văn, nhấn mạnh tầm quan trọng việc thành lập một chính phủ liên hiệp để chống Pháp. Tiêu Văn, vốn rất ghét Pháp, hình như đồng ý thuyết phục phe đối lập thoả hiệp theo đòi hỏi của họ.[19]
Ngày 27-2-1946, d'Argenlieu từ Paris trở lại Sài Gòn. Cùng ngày, ông chấp nhận bản hiệp định khung do Sainteny đề nghị, công nhận Việt nam là “Nhà nước tự do, có quốc hội, quân đội và tài chính riêng”. Nhưng d'Argenlieu từ chối đòi hỏi quyền tự trị của Việt Nam trong công việc ngoại giao, sự thống nhất về chính trị và lãnh thổ của ba miền, mặc dù ông đồng ý về mặt nguyên tắc tổ chức trưng cầu dân ý vấn đề thống nhất. Dường như để kích thích quan điểm của d'Argenlieu, cùng ngày các nhà thương lượng Pháp đồng ý bỏ yêu cầu về các lãnh thổ hải ngoại tại Quảng Châu và Thượng Hải, sẵn sàng ký hiệp định Hoa Việt. Nếu một hiệp định với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thể đạt được thì con đường rộng mở cho quân Pháp thay thế quân Tưởng chiếm đóng ở Bắc Việt Nam. Paris tức tốc gửi điện Leclerc tại Sài Gòn: “Hiệp định đã đạt được, hãy giương buồm lên thẳng tiến”.[20]
Hoà bình đứng trước nguy ngập, điều quan trọng đối với Hồ Chí Minh là làm sao có được sự chấp thuận của chính phủ và nhân dân. Bẩy giờ sáng ngày 2 tháng 3, tân Quốc Hội họp lần đầu tiên tại Nhà Hát Lớn, Hà Nội. Toà nhà được trang trí bằng những lá cờ đỏ sao vàng quen thuộc, vẫn còn biểu tượng dân tộc dù những phần tử dân tộc chủ nghĩa phản đối.
Gần ba trăm đại biểu, cộng với đông đảo nhà báo và khách mời, tiến vào phòng họp. Hồ Chí Minh mặc bộ quần áo ka-ki bạc mầu bước lên diễn đàn, khẩn khoản yêu cầu các đại biểu chấp nhận bảy mươi người không qua bầu cử của Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đồng minh Hội, đang ngồi ở phòng chờ để đợi được mời vào cuộc họp. Sau khi Quốc Hội tán thành, họ vào phòng họp ngồi vào chỗ thì Hồ tuyên bố, Quốc Hội bây giờ đại diện cho toàn thể đất nước, phải thành lập được một chính phủ phản ánh và thực hiện những khát vọng của dân tộc. Quốc Hội chính thức chấp nhận chính phủ liên hiệp lâm thời từ chức, nhất trí bầu Hồ Chí Minh làm chủ tịch chính phủ liên hiệp kháng chiến và kiến quốc. Nguyễn Hải Thần, không tới dự cuộc họp viện cớ ốm, được bầu làm phó chủ tịch. Sau đó Hồ tuyên bố thành lập Uỷ Ban Dân Tộc Kháng chiến để tiến hành đấu tranh cho nền độc lập hoàn toàn và bổ nhiệm Nhóm Cố Vấn Quốc gia do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu. Phiên họp kết thúc ngay sau buổi chiều đó. Cùng ngày, hạm đội Pháp chở tướng Leclerc đang trên đường từ Sài Gòn tiến về Hải Phòng.[21]
Ngày 5-3-1946, Hồ Chí Minh họp bí mật với ban lãnh đạo đảng tại Hương Canh, ngoại thành Hà Nội. Ban Thường Vụ họp ngày 24-2-1946 đánh giá tình hình đề ra chiến lược thích hợp. Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề phải làm gì. Một số muốn cầm vũ khí đánh ngay lập tức, một số khác khuyên nên yêu cầu quân Tưởng ủng hộ chống lại Pháp. Nhưng Hồ Chí Minh, biết được thực lực yếu kém của Việt Minh, cho rằng quan trọng nhất là phải đạt được một thoả thuận bằng mọi giá. Ông bực bội nói lớn: “Các đồng chí có hiểu cái gì sẽ xảy ra nếu quân Tầu ở lại? Các đồng chí đã quên hết bài học lịch sử rồi sao. Khi bọn Tầu đến, họ ở lại hàng ngàn năm. Bọn Pháp thì bất quá ở vài năm rồi cũng sẽ phải cuốn xéo”. Sau này khi nói chuyện với nhà sử học Pháp Paul Mus, Hồ dùng từ còn kinh hơn: “Thà ngửi cứt Tây một lúc, còn hơn ăn cứt Tàu cả đời”.[22]
Cuối cùng quan điểm của Hồ thắng thế. Nghị quyết cuộc họp nêu rõ: “Vấn đề bây giờ không phải là đánh hay không. Mà là phải biết người biết ta, nhận rõ một cách khách quan tất cả những điều kiện có lợi, bất lợi trong và ngoài nước, sau đó có hành động đúng”. Trên thực tế, tình hình xem ra phức tạp hơn trong thời kỳ Cách mạng tháng Tám. Khi đó, tình hình chính trị trong nước có lợi cho Đảng và những đảng phái đối lập không có khả năng chống lại một cách công khai. Bây giờ, những phần tử dân tộc chủ nghĩa cảm thấy được khuyến khích dựa vào sự ủng hộ của quân Tưởng và có thể manh động chống lại chính phủ. Trong Cách mạng tháng Tám, Đảng có thể tận dụng những mâu thuẫn của Đồng Minh. Nghị quyết vạch rõ, bây giờ những mâu thuẫn này ít ra cũng tạm thời được hoá giải, trong khi đó, những lực lượng tiến bộ trên thế giới do Liên Xô đứng đầu không thể giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Trong hoàn cảnh này, “chiến đấu đến cùng” chẳng khác gì tự làm yếu và cô lập mình.
Nghị quyết thừa nhận, chính sách hoà hoãn với Pháp sẽ làm cho Đảng bị chửi là bán nước, giúp Pháp củng cố lực lượng tấn công miền Bắc. Nhưng hoà hoãn với Pháp sẽ làm Tưởng và bọn cơ hội dân tộc chủ nghĩa suy yếu. Hoà hoãn cũng giúp chính phủ có thời gian chuẩn bị đầy đủ các điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh giành độc lập hoàn toàn. Cuối cùng nghị quyết yêu cầu Pháp phải công nhận các quyền tự quyết và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt nam.[23]
Ngày 5-3-1946, hạm đội của tướng Leclerc tiến vào Vịnh Bắc Bộ. Cùng ngày, Sainteny nhận được bản báo cáo từ Sài Gòn cho biết quân Tưởng đã nuốt lời cam kết trong bản hiệp định ký với Pháp, không cho phép quân Pháp đặt chân lên lãnh thổ Đông Dương và cũng không có nhượng bộ thêm nữa. Trong lúc ấy, ở Hà Nội Uỷ Ban Dân Tộc Kháng Chiến mới được thành lập đã kêu gọi nhân dân chuẩn bị đứng lên bảo vệ tổ quốc. Nếu quân Pháp đổ bộ mà chưa có được một hiệp định với Trùng Khánh, họ sẽ vấp phải sự kháng cự của cả quân Tưởng và Việt Nam. Để bảo vệ binh sĩ của mình, tướng Leclerc yêu cầu Sainteny làm mọi thứ theo quyền mình để có được một hiệp định trong thời hạn ngắn nhất, “thậm chí bằng mọi giá có thể sau này vứt đi”.[24]
Cuối ngày hôm đó, cuộc thương lượng được nối lại. Sainteny lo âu chìa bản hiệp định, nhưng Hồ Chí Minh biết rõ những khó khăn hiện thời của hội đàm Pháp - Trung, đã thừa cơ đòi chữ “độc lập” trong hiệp định, cũng như Pháp chấp thuận nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Cuộc hội đàm tiếp tục đến đêm, Sainteny đồng ý vấn đề độc lập thông qua trưng cầu dân ý tổ chức tại ba miền Việt Nam, nhưng ông cươmg quyết từ chối viết từ “độc lập”. Cuộc hội đàm bế tắc. Pháp bỏ về, khiến Hồ Chí Minh phải tìm giải pháp khác.
Sáng sớm hôm sau, hạm đội Pháp tiến vào cảng Hải Phòng. Lúc 8 giờ 30 sáng, khi chiếc tàu đổ bộ đầu tiên vào cửa sông Cấm bị quân Tưởng dọc hai bờ sông nổ súng. Mười lăm phút sau, quân Pháp mới bắn trả. Cuộc đấu súng kéo dài đến tận 11 giờ trưa, vài tàu chiến Pháp bị hư hại, một kho đạn của quân Tưởng bị cháy. Đạn rơi rào rào trên những đường phố Hải Phòng như một cơn mưa.[25]
Trong khi quân Pháp và Tưởng đấu súng ở Hải Phòng, cuộc hội đàm ở Hà Nội cuối cùng cũng đến hồi kết. Hồ hỏi ý kiến Ban Thường Vụ Đảng vào buổi chiều ngày 5-3 và đồng ý chấp thuận những nhượng bộ cần thiết để đạt được một hiệp định. Trước rạng đông, Hồ cử Hoàng Minh Giám tới nhà Sainteny, tuyên bố chính phủ ông chấp nhận những điều kiện của Pháp và đồng ý Pháp công nhận Việt Nam là “một quốc gia tự do”. Bốn giờ chiều, phái đoàn Việt Nam tới một biệt thự ở đường Lý Thái Tổ, cắt chéo công viên nhỏ trước Bắc Bộ Phủ, nơi từng diễn ra nhiều cuộc họp thương lượng. Trước cử toạ Pháp và Việt Nam cũng như một số nhà ngoại giao, hiệp định được đọc to. Hiệp định đòi Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do, có “chính phủ riêng, Quốc hội riêng, quân đội riêng và tài chính riêng trong khối Liên hiệp Pháp”. Chính phủ Pháp đồng ý tổ chức trưng cầu dân ý để quyết định thống nhất ba vùng lãnh thổ. Đổi lại, Việt Nam cho phép 15.000 quân Pháp đến thay thế quân Tưởng ở miền Bắc. Hồ Chí Minh ký đầu tiên, rồi ông trao bút cho thứ trưởng bộ quốc phòng, lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng Vũ Hồng Khanh. Sau lễ ký, Sainteny tỏ ra hài lòng về hiệp định, nhưng Hồ đáp: “Và tôi lấy làm tiếc, ông đã thắng, ông biết rằng tôi muốn nhiều hơn thế. Nhưng tôi hiểu rằng không thể có mọi thứ ngay một lúc”. Sau đó ông trở lại bình tĩnh, đi theo Pignon và Sainteny. Ông nói với Sainteny “Tôi có một điều an ủi, đó là tình bạn giữa chúng ta”.[26]
Để Vũ Hồng Khanh ký hiệp định, Hồ Chí Minh hy vọng bịt miệng những phần tử dân tộc chủ nghĩa đả kích hiệp định. Sau lễ ký, Hồ Chí Minh gặp Ban Thường Vụ Đảng bàn cách tuyên truyền hiệp định cho nhân dân và cử đại diện đến ba miền đất nước giải thích căn nguyên sau quyết định. Hoàng Quốc Việt tới Sài Gòn, Hoàng Minh Giám tới Đà Nẵng và Võ Nguyên Giáp tới Hải Phòng, nơi quân Pháp chẳng mấy chốc sẽ đổ bộ lên.
Tin tức về bản hiệp định xuất hiện trên mặt báo Hà Nội sáng hôm sau. Theo quan sát, dân chúng phản ứng với sự thờ ơ xen lẫn ngạc nhiên và giận dữ. Dù chính phủ kêu gọi dân chúng giữ bình tĩnh, tránh những hành động khiêu khích chống Pháp kiều, tình hình thủ đô rất căng thẳng. Những phần tử dân tộc chủ nghĩa buộc tội Hồ Chí Minh bị Pháp lừa bịp, một số người thậm chí gọi ông là Việt gian. Nhằm bác bỏ những lời buộc tội đó, giới lãnh đạo đảng tổ chức cuộc mít tinh trước Nhà Hát Lớn lúc bốn giờ chiều để giải thích quyết định. Theo Jean Sainteny, những phần tử dân tộc chủ nghĩa cài người vào đám đông kích động nhân dân phẫn nộ. Một kẻ giấu mặt thậm chí đã ném một quả lựu đạn, may mà quên rút chốt. Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, vừa từ Hải Phòng về, phát biểu trước tiên, giải thích sự cần thiết phải có một hiệp định, tầm quan trọng của việc duy trì luật pháp và trật tự. Ông so sánh bản hiệp định Brest-Litovsk, theo quyết định của Lenin năm 1918, chấp nhận mất một phần lãnh thổ Nga cho Đức, hứa, sự phát triển này cuối cùng dẫn tới độc lập hoàn toàn. Sau khi vài người khác phát biểu xong, Hồ Chí Minh xuất hiện trên ban công và nói ngắn gọn:
“Đất nước chúng ta trở thành tự do từ tháng 8-1945. Tuy nhiên, cho đến giờ, chưa có một cường quốc nào công nhận nền độc lập của chúng ta. Những cuộc thương lượng với Pháp đã mở đường để quốc tế công nhận và tăng vị thế Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế. Chúng ta trở thành một dân tộc tự do. Theo hiệp định, quân Pháp sẽ dần dần rút khỏi Việt Nam. Đồng bào hãy giữ bình tĩnh, phải tăng cường sự thống nhất và củng cố khối đoàn kết dân tộc. Tôi, Hồ Chí Minh, đã cùng với các đồng chí của mình chiến đấu suốt đời vì độc lập của Tổ quốc. Tôi thà chết chứ không thể phản bội tổ quốc mình”.
Sự chân thành và xúc động trong phát biểu của Hồ đã gây ấn tượng mạnh mẽ, buổi mít tinh kết thúc trong tiếng hô vang dậy “Hồ Chí Minh muôn năm”. Nhưng nhiều người Việt Nam và không ít người trong hàng ngũ Đảng hoài nghi bản hiệp định khi đang đối mặt vấn đề một cách trực tiếp. Hai ngày sau, Ban Thường Vụ Đảng ra nghị quyết với tên gọi “Hoà để tiến”, cố gắng làm giảm bớt lo âu trong hàng ngũ cán bộ đảng, đồng thời kêu gọi cảnh giác và chuẩn bị chiến đấu, nêu rõ “Tổ quốc đang đứng trước khó khăn, nhưng con thuyền cách mạng đang băng qua đá ngầm tiến về phía trước. Hiệp định ký với Pháp cho chúng ta thêm thời gian bảo toàn lực lượng, củng cố vị trí để có thể nhanh chóng tiến tới độc lập hoàn toàn”.[27]
Chiều ngày 6-3, Võ Nguyên Giáp trở lại Hải Phòng gặp tướng Leclerc, thảo luận những điều bổ xung trong bản hiệp định sơ bộ liên quan tới tình hình quân sự. Dù đã có hiệp định, nhưng vẫn có đụng độ giữa những đơn vị Pháp và Việt Nam ở vài nơi. Cả hai bên vẫn giữ cảnh giác. Hồ Chí Minh vẫn ở Hà Nội, ông tiếp các đại biểu dân sự và quan chức quân sự tại Toà Thị Chính. Ông cũng viết thư ngỏ gửi đồng bào ở miền Nam, thông báo việc ngừng bắn nhưng yêu cầu tiếp tục chuẩn bị và củng cố kỷ luật. Nguyễn Lương Bằng - một cựu trào của Hồ từ những ngày ở Trung Hoa và Hong Kong - nhận nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa ở Thái Nguyên, còn Hoàng Văn Hoan được cử đến Thanh Hoá cũng làm công việc này.
Ở Paris, báo chí đưa tin bản hiệp định Hồ - Sainteny nói chung với vẻ lạc quan. Ngày 9-3, Bộ trưởng Hải ngoại Marius Moutet đệ trình bản hiệp định cho Hội đồng Bộ trưởng phê chuẩn. Ngoại trưởng Georges Bidault ca ngợi bản hiệp định là khuôn mẫu giải quyết tình hình ở các nước thuộc địa khác của Pháp. Dù vậy, những phần tử dân tộc chủ nghĩa ở Việt Nam tiếp tục lớn tiếng đả kích. Một số lãnh tụ không cộng sản đòi chính phủ phải tìm kiếm ủng hộ của Trung Quốc hoặc Hoa Kỳ. Cố vấn tối cao Bảo Đại đề nghị được tới Trùng Khánh gặp chính quyền Tưởng Giới Thạch để đưa lời yêu cầu cá nhân. Sau khi thảo luận, Hồ Chí Minh đồng ý.
Ngày 18-3, một ngàn hai trăm quân Pháp, trên hai trăm xe quân sự - phần nhiều do Mỹ sản xuất - qua cầu Long Biên tiến vào Hà Nội trong tiếng hân hoan reo hò của Pháp kiều ở thành phố này. Quân Tưởng lẻ tẻ rút về biên giới vài ngày trước đó. Theo nguồn tin từ phía Pháp, một người Việt Nam, khi nhìn thấy vũ khí hiện đại và xe cộ của quân Leclerc, thất vọng “Chúng ta thua mất, họ quá mạnh”. Nhưng Leclerc không tin như vậy, lo ngại trong trường hợp hiệp định bị phá vỡ, một sư đoàn của ông không đủ sức bình định vùng này. Tuy nhiên, nhiều Pháp kiều trong tâm trạng vui sướng vì được trấn an binh sĩ Việt Nam quá yếu.
Chiều hôm đó, Leclerc, Sainteny, Pignon cùng nhiều quan chức cao cấp Pháp tới Bắc Bộ phủ gặp Hồ Chí Minh và các thành viên chính phủ của ông. Hồ và Leclerc nâng cốc chúc tình hữu nghị Pháp - Việt, không khí trong phòng họp cũng nặng nề chẳng kém gì ngoài phố, khi quân Pháp nhậu nhẹt ăn mừng tạo nên những kỷ niệm cay đắng trong quá khứ của dân chúng. Tối hôm ấy, Hồ Chí Minh mời thiếu tá Hoa Kỳ, Frank White, đại diện mới của Cơ quan Tình báo Chiến lược ở Hà Nội, dự bữa tiệc chào mừng Leclerc. Khi Hồ gặp White lần đầu tiên sớm hơn cùng ngày, ông muốn moi tin White về quan điểm của Hoa Kỳ đối với tình hình ở Đông Dương. Hồ Chí Minh lấy làm tiếc Liên Xô quá bận rộn tái thiết nền kinh tế bị thiệt hại nặng trong chiến tranh nên không thể giúp đỡ nhiều cho chính phủ Việt Nam non trẻ, Hồ bày tỏ hy vọng Hoa Kỳ sẽ cung cấp “tiền và kỹ thuật” giúp đỡ Việt Nam con đường phát triển. Nhưng ngay cả trong lúc tâng bốc vai trò của Mỹ trong tương lai Việt Nam, Hồ cũng bày tỏ chút hoài nghi Mỹ không muốn giúp Việt Nam vì Việt Nam là nước nhỏ và quá xa Bắc Mỹ.
Sau khi trao đổi, thiếu tá White về nhà, nhưng bất ngờ Hồ Chí Minh mời ông dự tiệc đãi những đại diện Pháp vừa đến Hà Nội. White ngạc nhiên khi được xếp ngồi cạnh Hồ Chủ tịch trong bữa tiệc, có lẽ khiến vài người trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp Mỹ bực tức. Khi White lúng túng việc ngồi cạnh Hồ làm nhiều khách không hài lòng, Hồ buồn rầu “Nếu không nói chuyện với anh thì tôi nói chuyện với ai”. Theo hồi ức White, bầu không khí bữa tiệc “lạnh giá”, người Pháp chẳng có gì mà nói, quân Tàu do Lư Hán đứng đầu thì “say khướt”.[28]
Hồ Chí Minh quả là đúng khi than phiền với White, Hoa Kỳ không muốn can thiệp tới cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam giành dân tộc, Nhà Trắng phớt lờ những biến chuyển nhanh chóng tình hình Đông Dương. Cuối tháng 2-1946, Hồ gửi một bức điện cho tổng thống Truman đề nghị Hoa Kỳ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, theo những nguyên tắc Hiến Chương Liên Hợp Quốc. Không có sự hồi âm. Khi tin tức Hiệp định Pháp - Trung bay đến Washington, ngoại trưởng James Byrnes nói với một nhà ngoại giao Pháp, hiệp định đó “hoàn thành việc khôi phục chủ quyền của Pháp tại Đông Dương”. Bây giờ lo ngại sự nguy hiểm của làn sóng Cộng sản tràn lan, (Winston Churchill gọi là “Bức màn sắt” trong bài phát biểu nổi tiếng ở Fulton, Missouri), Hoa Kỳ không ủng hộ lời đòi hỏi công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một “quốc gia tự do” nằm trong Liên hiệp Pháp.[29]
Suốt mấy ngày sau, tình hình vẫn không cải thiện. Ngày 22-3-1946, một cuộc diễu binh chung diễn ra gần Hoàng Thành Hà Nội để hâm nóng “tình hữu nghị Việt Pháp”. Xe của Pháp toàn do Mỹ sản xuất, máy bay Spitfire của Anh. Đám đông bên nào vỗ tay hoan hô quân bên ấy. Ngày hôm sau, Leclerc rời Hà Nội, trao quyền cho thuộc hạ là tướng Jean - Etienne Valluy. Dù không có đụng độ diễn ra, nhưng lòng dân oán giận lên cao khi Pháp chiếm một số công sở, dẫn đến tổng bãi công, sau khi Pháp rút đi.[30]
Cao uỷ d'Argenlieu điện cho Jean Sainteny, nói ông ta muốn gặp trực tiếp Hồ Chí Minh. Sainteny liên lạc với Hồ và Hồ nhận lời ngay với hy vọng thu xếp một cuộc thương lượng chính thức để phê chuẩn hiệp định sơ bộ càng sớm càng tốt. Sáng 24-3-1946, Hồ Chí Minh, đội mũ rộng vành, đi cùng Hoàng Minh Giám và nhà văn Nguyễn Tường Tam, (Nhất Linh- người dịch), tân ngoại trưởng không cộng sản, đến sân bay Gia Lâm cùng Sainteny lên thuỷ phi cơ Catalina. Thuỷ phi cơ hạ cánh ở Vịnh Hạ Long, một kỳ quan với những núi đá vôi dọc bờ biển phía đông Hải Phòng. Họ lên chiến hạm Pháp Emile Bertin, được d'Argenlieu cùng nhiều đại diện Pháp đón tiếp.
Sau màn chào hỏi và nâng cốc, Hồ Chí Minh được mời thăm hạm đội Pháp đang chạy qua kỳ hạm Đô đốc d'Argenlieu. Sau đó, tại cabin kỳ hạm, hai bên trao đổi sẽ tiếp tục hội đàm ở đâu và khi nào để thi hành hiệp định 6 tháng 3. Hồ muốn họp càng sớm càng tốt, nhưng d'Argenlieu cho là nên có hội nghị trù bị để phia Pháp làm quen với những vấn đề chính, đề nghị họp ở Đà Lạt. Hồ đồng ý họp hội nghị trù bị ở Đà Lạt, nhưng ông ngại, nếu những cuộc thương lượng chính thức họp tại đó, viên Cao uỷ có thể kiểm soát tình hình, nên ông dự kiến sẽ tổ chức ở Pháp. Ở Pháp, Hồ có thể qua mặt d'Argenlieu, sử dụng vị thế của mình một nguyên thủ quốc gia để gây ảnh hưởng tới quan điểm công chúng Pháp vốn đang dao động sau Thế chiến II. Leclerc và Sainteny lại vào hùa với Hồ, cho rằng như thế Hồ sẽ đỡ bị sức ép của phe đối lập và quân Tưởng. Cuối cùng, d'Argenlieu chấp thuận.
Đối với Hồ Chí Minh, những cuộc hội đàm tại Vịnh Hạ Long là một bài học hữu ích. Dù ông không thể bắt Pháp chấp thuận nối lại những cuộc thương lượng hoà bình, ông được đối diện với một tay thực dân lõi đời như d’Argenlieu và đã đứng vững trong cuộc nói chuyện. Trên đường về Hà Nội, Hồ bình luận với tướng Raoul Salan (thuộc hạ của d'Argenlieu), người cũng dự cuộc họp: “Nếu đô đốc nghĩ rằng hạm đội của ông ta làm tôi sợ thì ông ấy lầm to. Những chiến hạm to đùng ấy làm sao chạy ngược vào các dòng sông nhỏ bé của chúng tôi”.[31]
Hội nghị trù bị Đà Lạt họp giữa tháng 4-1946, không đi đến kết quả. Đại diện Việt Nam, Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Tường Tam, không thể thuyết phục d'Argenlieu thảo luận tình hình ở Nam Kỳ, nơi xung đột quân sự tiếp tục gia tăng dù có lệnh ngừng bắn. Mâu thuẫn nghiêm trọng phát sinh về tương lai quốc gia tự do. Đoàn Việt Nam cho rằng Việt Nam sẽ là một quốc gia có chủ quyền trong Liên hiệp Pháp, nhưng Pháp khăng khăng Liên hiệp Pháp là một liên bang, mỗi quốc gia tự do cần phải đại diện chủ quyền theo cơ chế tổ chức liên bang và có một Cao uỷ được bổ nhiệm ở Paris. Trước ngõ cụt, các đại biểu gạt vấn đề vai trò tương lai của Việt Nam trong Liên hiệp Pháp chờ đến những cuộc hội đàm chính thức, sẽ họp cuối tháng Năm ở Pháp. Ngày 13 tháng 5, Giáp thất vọng trở lại Hà Nội. Hồ Chí Minh an ủi, hai bên dù sao đã hiểu nhau hơn. Ông hy vọng các vấn đề khác biệt không phải là quá đối kháng, có thể thoả hiệp trong cuộc đàm phán sắp tới tại Pháp.
Năm ngày sau, d'Argenlieu có chuyến thăm ngắn Hà Nội để thảo luận về những cuộc hội đàm hoà bình. Ông đòi hoãn chuyến đi Paris của phái đoàn Việt Nam, viện cớ ở Pháp đang tổng tuyển cử, nhưng Hồ Chí Minh khăng khăng giữ nguyên lịch trình. Cao uỷ d’Argenlieu còn doạ hình như sắp tới sẽ thành lập Nhà nước Nam Kỳ tự trị, hoàn toàn đi ngược lại với những gì đã quy định trong hiệp định sơ bộ giữa Hồ và Sainteny ngày 6 tháng 3.
Ngày 30-5-1946, 50.000 người dân đã đội mưa đến khuôn viên Đại học Hà Nội để tiễn phái đoàn chính phủ đi Pháp đàm phán hoà bình. Phái đoàn do Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Hồ và tướng Raoul Salan đi cùng chuyến bay sang châu Âu. Hồ không phải là thành viên chính thức trong thành phần đàm phán mà tham gia với tư cách “khách mời danh dự” của chính phủ Pháp. Trong lời phát biểu ngắn với dân chúng, ông tuyên bố, chỉ có một mục đích duy nhất phục vụ tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. Ông kêu gọi nhân dân nghe theo chính phủ khi ông vắng mặt và tôn trọng người nước ngoài.
Sáng sớm hôm sau, đoàn đại biểu tề tựu tại Bắc Bộ Phủ trong những bộ quần áo trang trọng, trừ Hồ Chí Minh mặc bộ quần áo ka-ki thường ngày cùng với giầy da đen. Tại sân bay Gia Lâm, họ lên hai chiếc máy bay quân sự Dakota, cất cách trong bầu trời đầy mây trong chuyến đi dài.[32]
Paris chỉ thị cho phi công bay lòng vòng, bảo đảm phái đoàn chỉ đến Pháp khi kết quả bầu cử đã ngã ngũ. Sau chặng nghỉ ngắn ở Burma, do thời tiết xấu, đoàn tới Calcutta ngày 1 tháng 6, lãnh sự Pháp và đại diện chính phủ Anh ra đón. Đoàn nghỉ tại khách sạn Great Eastern nổi tiếng, lưu tại đó hai ngày đi ngắm cảnh. Ngày 4-6 đoàn tới Agra viếng thăm Taj Mahal, sau đó đi Karachi, Iraq, cuối cùng đến Cairo ngày 7-6 và ở lại đó ba ngày thăm thú. Trước khi rời Ai Cập, Hồ nhận được tin d’Argenlieu đã lập nhà nước Nam bộ tự trị và được chính phủ Pháp công nhận. Hồ vờ ngạc nhiên khi nghe tin này yêu cầu Salan hành động để đừng biến Nam Kỳ thành “một Alsace - Lorraine mới”. Nếu vậy có thể dẫn đến cuộc chiến tranh trăm năm.[33]
Trong lúc ấy, cuộc khủng hoảng chính phủ nổ ra ở Pháp. Cuộc bầu cử Quốc Hội tổ chức ngày 2 tháng 6, các đảng bảo thủ đã giành thắng lợi lớn, khiến chính phủ thủ tướng Gouin (Đảng Xã hội) phải từ chức. Điều này, tất nhiên cho thấy trước những khó khăn lớn cho cuộc thương lượng, vì chính phủ bảo thủ hơn ở Paris sẽ khó chấp nhận những đề xuất hoà giải đưa ra trong những cuộc thương lượng tháng 3-1946 giữa Hồ - Sainteny. Tầm quan trọng trước mắt, nó làm phức tạp những kế hoạch sắp tới đối với đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Vì chính phủ mới vẫn chưa được thành lập ở Paris, nên chính phủ Pháp sẽ không đón tiếp chính thức phái đoàn Việt Nam. Vì thế máy bay chở đoàn đại biểu rời Cairo vào ngày 11-6, dừng lại ở Algeria, ngày hôm sau tới bãi biển nghỉ mát Biarritz (Pháp) bên vịnh Biscay. Chính quyền địa phương đón tiếp, đưa đoàn tới khách sạn trong thành phố. Hồ Chí Minh ở khách sạn sang trọng Carlton, nằm ngay bờ biển, những thành viên khác ở một khách sạn ít sang trọng gần đó.[34]
Chú thích:
[1] Greg Lockhart, “Dân tộc cầm vũ khí: Khởi thuỷ Quân đội Nhân dân Việt Nam” (Sydney: Allen & Unwin, 1989), trang 175; Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (Paris: Destins Croises, 1992), trang 88, đưa ra con số khoảng 30.000 Việt Minh chỉ riêng ở miền Bắc.
[2] Theo Bảo Đại, đa số thành viên nội các không hiểu những lời hài hước trong bình luận, vì họ xuất thân từ miền Trung Việt Nam, nơi dồi chó không ngon như ở miền Bắc. Về Tuần lễ vàng, xem Archimedes Patti “Tại sao Việt Nam? Khúc dạo đầu cho chim hải âu của Mỹ” (Berkeley, Calif., Nhà in Đại học California, 1980), trang 337-39. Về xây dựng Lực lượng vũ trang, xem Võ Nguyên Giáp, “Những năm tháng không thể nào quên” (NXB Ngoại văn, Hà Nội, 1975), trang 82-88.
[3] Georges Boudarel và Nguyễn Văn Kỳ, “Hà Nội 1936-1996: Màu cờ Đỏ và Xanh” (NXB Autrement, Paris, 1997), trang 103; Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày” (NXB Văn Nghệ, Westminster, Calif., 1997), trang 227. Ngô Đình Diệm, tất nhiên, về sau là Tổng thống Việt Nam Cộng hoà (Nam Việt Nam), nổi lên là đối thủ chính của Hồ Chí Minh với vai trò người cứu nước.
[4] Xem K.N.T., “Một ngày làm việc của Bác Hồ”, trong “Với Bác Hồ” (NXB Ngoại văn, Hà Nội, 1972), trang 352. Về những cuộc họp và những đòi hỏi của những người dân tộc chủ nghĩa, xem Nguyễn Kiên Giang, “Việt Nam năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám” (NXB Sự thật, 1961), trang 130-33.
[5] Xem Hoàng Văn Hoan, “Giọt nước trong biển cả”, trang 224. Theo Nguyễn Kiên Giang, một số nhìn thấy sự tan rã công khai là “sai lầm về nguyên tắc” - xem Nguyễn Kiên Giang, “Việt Nam năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám” (NXB Sự thật, 1961) trang 130. Bản sắc lệnh có trong Văn kiện Đảng (1945-1954), tập I (NXB Ban nghiên cứu lịch sử Đảng, 1979), trang 19-20. Xem thêm Philippe Devillers, “Paris - Sài Gòn - Hà Nội” (Paris: NXB Gallimard, 1988), trang 108. Theo Devillers, quyết định này có thể bị ảnh hưởng bởi Trần Văn Giàu, người kêu gọi hình thành mặt trận thống nhất rộng rãi nhất để mồi chài những người ôn hoà ở miền Nam
[6] “Kháng chiến kiến quốc” trong Văn kiện Đảng (1945-1954), Tập I, trang 21-35; Nguyễn Kiên Giang, “Việt Nam năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám” (NXB Sự thật, 1961), trang 133.
[7] Võ Nguyên Giáp, “Những năm tháng không thể nào quên”, trang 103-104. Về những cuộc thương lượng, xem Trịnh Kính, “Việt Nam và Trung Quốc, 1938-1934” (NXB Đại học Princeton, N.J., 1969), trang 129.
[8] Võ Nguyên Giáp, “Những năm tháng không thể nào quên”, trang 106. Lâm Quang Thụ, “Bác Hồ tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá I”, trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 184 (tháng 1 và 2-1975), trang 8; Trịnh Kính, “Việt Nam và Trung Quốc, 1938-1934” (NXB Đại học Princeton, N.J., 1969), trang 129-30.
[9] Trịnh Kính, “Việt Nam và Trung Quốc, 1938-1934” (NXB Đại học Princeton, N.J., 1969), trang 130; Võ Nguyên Giáp, “Những năm tháng không thể nào quên”, trang 106-107. Theo Giáp, Nguyễn Hải Thần nói tiếng Quảng Đông. Khi Hồ đề nghị cấp một ngôi nhà rộng và ô tô riêng cho Nguyễn Hải Thần, ông ta rất sung sướng và mời Hồ để ông ta bói toán, xem vận may.
[10] Lá thư De Gaulle gửi Leclerc và những trích dẫn, xem Jacques de Folin, “Đông Dương 1940-1954: Sự kết thúc của một giấc mơ” (Paris: NXB Perrin, 1993), trang 130-33, trích dẫn Hồ sơ E 166, Bộ ngoại giao Pháp. Xem Devillers, “Paris - Sài Gòn - Hà Nội”, trang 95
[11] Theo de Folin, De Gaulle đã chỉ thị cho d'Argenlieu không thỏa thuận với Việt Minh, hoặc chấp nhận hòa giải nước ngoài - xem Jacques de Folin, “Đông Dương 1940-1954: Sự kết thúc của một giấc mộng” (Paris: NXB Perrin, 1993), trang 112.
[12] Jean Sainteny, “Hồ Chí Minh và Việt Nam của ông” được Herma Briffault dịch sang tiếng Anh (NXB Cowles, Chicago, 1970), trang 54
[13] Hồ sơ E, 166-1, Bộ ngoại giao Pháp, trích trong Jacques de Folin, “Đông Dương 1940-1954: Sự kết thúc của một giấc mộng” (Paris: NXB Perrin, 1993), trang 98
[14] Jean Sainteny, “Hồ Chí Minh và Việt Nam của ông” được Herma Briffault dịch sang tiếng Anh (NXB Cowles, Chicago, 1970), trang 58. Bảo Đại nói, ông gặp Sainteny duy nhất một lần tình cờ, dù Sainteny rất cố gắng tìm cách gặp riêng ông. Ông xác nhận Hồ đề nghị tất cả các đồng chí của ông xưng hô kính cẩn vị cựu hoàng bằng “Ngài”. Xem Bảo Đại, “Con rồng An Nam” (NXB Plon, Paris, 1980), trang 134.
[15] Bảo Đại, “Con rồng An Nam” (NXB Plon, Paris, 1980), trang 135-50. Có một lần trong phiên họp Chính phủ, một đồng sự Việt Nam Quốc Dân Đảng đưa cho Bảo Đại một cuốn sách viết về Nguyễn Ái Quốc và chỉ vào Hồ Chí Minh. Khi Hồ nhìn thấy cuốn sách trong tay Bảo Đại, ông cười hiểm độc với Bảo Đại
[16] Caffery gửi Ngoại trưởng, ngày 6-2-1946, sách 8, trang 59; “Quan hệ Mỹ - Việt Nam 1945-1967” (Washington, D.C., Văn phòng in ấn Chính phủ Mỹ, 1971). Lá thư Hồ Chí Minh gửi Truman nằm ở Uỷ ban đối ngoại Thượng Viện Mỹ, “Mỹ và Việt Nam, 1944-1947”, 92d Congress, 2d sess., Staff Study 2, ngày 3-4-1972, trang 10-11. Báo cáo của Landon cho Washington có trong “Quan hệ đối ngoại của Mỹ, 1946”, 8: trang 26-27. Thư của Hồ Chí Minh xuất hiện tại Cơ quan công tác chiến lược (OSS) trong điện tín gửi tới Côn Minh ngày 28-2-1946, Si-INT 32, Entry 140, hộp 53, Thư mục 427, RG 226, Lưu trữ quốc gia Mỹ (College Park, Md). Xem thêm đoạn trích bằng tiếng Việt trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 3, trang 121.
[17] Jacques de Folin, “Đông Dương 1940-1954: Sự kết thúc của một giấc mơ” (Paris: NXB Perrin, 1993), trang 137-38, trích dẫn Thierry d'Argenlieu, “Biên niên sử Đông Dương, 1945-1947” (Paris: Albin Michel, 1985), trang 148. Theo nguồn này, d'Argenlieu và Leclerc ghét nhau, và viên Cao uỷ d'Argenlieu một lần yêu cầu triệu hồi tướng Leclerc. Leclerc không đồng ý với lời khuyên của De Gaulle khôi phục trật tự ở miền Bắc trước khi mở những cuộc thương lượng, nói Pháp không đủ sức làm việc đó.
[18] Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 91.
[19] Devillers, “Paris - Sài Gòn - Hà Nội”, trang 143; “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 3, trang 147-48. Bảo Đại recalls rằng cuộc họp diễn ra ngày tháng 2 27 - xem “Bảo Đại, “Con rồng An Nam”, trang 150-51. Cũng xem Võ Nguyên Giáp, “Những năm tháng không thể nào quên”, trang 145. Sainteny nhớ lại Hồ thỉnh thoảng gợi ý, giá như có được một hiệp ước, một người khác có thể ký nó (trang 60).
[20] Jacques de Folin, “Đông Dương 1940-1954: Sự kết thúc của một giấc mơ” (Paris: NXB Perrin, 1993), trang 139-44. Pignon về sau nhấn mạnh, nếu Pháp muốn rõ ràng trong Hiệp ước Pháp-Trung, hầu như chắc chắn không ký được nó - xem sách đã dẫn, trang 144, trích dẫn Công hàm 4-7-1946, bởi Pignon, Bộ ngoại giao Pháp.
[21] Võ Nguyên Giáp, “Những năm tháng không thể nào quên”, trang 159-66; “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 3, trang 152-53. Theo Lâm Quang Thụ, vào buổi sáng sớm Hồ và những người khác đi đến trụ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng để thông báo với họ cuộc họp sẽ được tổ chức sớm hơn một ngày, xem Lâm Quang Thụ, “Bác Hồ tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá I”, trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 184 (tháng 1 và 2-1975), trang 9.
[22] Paul Mus, “Việt Nam: Xã hội học chiến tranh” (Paris: NXB de Seuil, 1952), trang 85. Cũng xem Kobelev, “Hồ Chí Minh”, trang 192.
[23] “Tình hình và chủ trương”, trong Văn kiện Đảng (1945-1954), Tập I, trang 36-42. Nghị quyết ngày 3-3. Nguồn khác cho biết cuộc họp diễn ra ngày 24-2. Xem Toàn Tập I, tập 4, trang 598, và “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 3, trang 148.
[24] Jean Sainteny, “Hồ Chí Minh và Việt Nam của ông” được Herma Briffault dịch sang tiếng Anh (NXB Cowles, Chicago, 1970), trang 62. Võ Nguyên Giáp, “Những năm tháng không thể nào quên” (trang 171), tham khảo yêu cầu của Leclerc.
[25] Frank White, trong “Uỷ ban đối ngoại Thượng Viện Mỹ, Nguyên nhân, khởi thuỷ và bài học cuộc chiến tranh Việt Nam, 91A Congress, 2d sess., 1972”, có bản kê - xem trang 148. Frank White đề thời gian sự kiện là tháng 12-1945, nhưng có lẽ nhầm. Xem bài của Joseph Kelly, một quan sát viên Mỹ tại Hội nghị Cơ quan công tác chiến lược (OSS) - Việt Minh ở Hampton Bays, N.Y., từ 21 đến 23-9-1997.
[26] Võ Nguyên Giáp, “Những năm tháng không thể nào quên”, trang 176-177, và Jean Sainteny, “Hồ Chí Minh và Việt Nam” được Herma Briffault dịch sang tiếng Anh (NXB Cowles, Chicago, 1970), trang 62-64. Hai tư liệu trên tương tự nhau. Cả hai đều đưa ra sự thật, tại phút cuối cùng, Trung Quốc thuyết phục Hồ ký. Trong bức điện gửi về Washington, một đại diện ngoại giao Mỹ tham dự lễ ký đánh giá cuộc Trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ hầu như chắc chắn sẽ đóng cửa - xem Hà Nội 37, ngày 5-6-1946, trong RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ.
[27] “Hoà để tiến”, trong Văn kiện Đảng (1945-1954), Tập I, trang 53. Lời phát biểu của Hồ Chí Minh có trong Võ Nguyên Giáp, “Những năm tháng không thể nào quên”, trang 189, và Kobelev, “Hồ Chí Minh”, trang 195; về một phiên bản khác đôi chút, xem Jean Sainteny, “Hồ Chí Minh và Việt Nam” được Herma Briffault dịch sang tiếng Anh (NXB Cowles, Chicago, 1970), trang 64. Một người cùng thời nhớ lại khi Hồ Chí Minh thăm Đông Dương Học Xá, Hà Nội để tìm kiếm sự ủng hộ bản hiệp định, một sinh viên bước ra từ buồng tắm tập thể, trong trạng thái hoàn toàn trần truồng với chủ ý làm ông ngượng. Hồ bình tĩnh lại và nói: “Các chú thì lúc nào cũng đùa cợt được!” - xem Bùi Diễm, “Gọng kiềm lịch sử” (NXB Houghton Mifflin, Boston, 1987), trang 40.
[28] “Uỷ ban đối ngoại Thượng Viện Mỹ, Nguyên nhân, khởi thuỷ và bài học cuộc chiến tranh Việt Nam, 91A Congress, 2d sess., 1972”, trang 148-52. Frank White đặt bữa ăn này sớm hơn, nhưng những nhận xét của ông cho rằng nó diễn ra khi Leclerc tới, xung quanh tháng 3. Washington có lẽ đang dùng các sĩ quan Cơ quan công tác chiến lược (OSS) cung cấp tin tức về Đông Dương, vì các cơ quan ngoại giao vẫn chưa mở lại được. Về sự mô tả thành phố lúc người Pháp đến, tôi dựa vào vào những nhận xét George Wickes tại Hội nghị OSS - Việt Minh, từ 22 đến 23-9-1997.
[29] Byrnes gửi Đại sứ Pháp Henri Bonnet, ngày 12-4-1946, trong “Quan hệ Mỹ - Việt Nam 1945-1967” (Washington, D.C., Văn phòng in ấn Chính phủ Mỹ, 1971), sách 8, phần B.2, trang 64-65. Bức điện gửi Truman, ngày 28-2-1946, được gửi Cơ quan công tác chiến lược (OSS) ở Côn Minh, SI-INT 32, Entry 140, hộp 53, Thư mục 427, RG 226, Lưu trữ quốc gia Mỹ (College Park, Md). Một bức thư của Hồ Chí Minh có thông điệp tương tự, ngày 16-2-1946, nằm ở sưu tập của Archimedes Patti. Carlton Swift, người kế nhiệm Archimedes Patti ở Hà Nội, nói ông đã bị cấp trên khiển trách vì đưa bản hiệp định dự kiến cho Hội hữu nghị Mỹ-Việt (nhận xét của Swift tại Hội nghị OSS - Việt Minh ngày 23-9-1997).
[30] Nhận xét của George Wickes tại Hội nghị OSS - Việt Minh ngày 22-9-1997. Xem thêm Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 98; Hoàng Văn Hoan, “Giọt nước trong biển cả”, trang 231; và Jean Sainteny, “Hồ Chí Minh và Việt Nam của ông” được Herma Briffault dịch sang tiếng Anh (NXB Cowles, Chicago, 1970), trang 67.
[31] Võ Nguyên Giáp, “Những năm tháng không thể nào quên”, trang 221-22. Những nhận xét của Hồ đối với Salan có trong Kobelev, “Hồ Chí Minh”, trang 198. Theo Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 111, thì những quyết định cuối cùng tại hội nghị Đà Lạt vẫn chưa đạt được trước khi có cuộc gặp ở Vịnh Hạ Long.
[32] Võ Nguyên Giáp, “Những năm tháng không thể nào quên”, trang 270-74; Nguyễn Thanh, “Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pháp”, trang 168-69. Cùng với chủ tịch Phạm Văn Đồng, những thành viên đoàn đại biểu là Hoàng Minh Giám, Phan Anh, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Văn Huyên, và Trịnh Văn Bình. Ngoại trưởng Nguyễn Tường Tam theo kế hoạch sẽ gia nhập nhóm này, nhưng từ chối ở phút cuối viện cớ ốm. Sau này ông thú nhận, ông không muốn tham gia hội đàm - xem Hà Nội gửi Bộ ngoại giao, 29 và 30-5-1946, RG 59, NXB Đại học Mỹ.
[33] Việc mất lãnh thổ phia đông Alsace và Lorraine vào tay Đức sau chiến tranh Pháp-Phổ năm 1870 làm tăng mối hằn thù mạnh mẽ của dân Pháp, cũng là yếu tố chính trong sự bùng nổ Chiến tranh thế giới I. Về nhận xét của Hồ, xem Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 118, người trích dẫn hồi ký của Rauol Salans. Gras vạch ra rằng chính phủ Pháp không không muốn chính thức công nhận chính phủ mới trước khi hoàn tất cuộc trưng cầu dân ý. Chuyến đi được thuật trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 3, trang 216-221.
[34] Hồ có kế hoạch ban đầu ở Cannes, theo Mai Văn Bộ, “Chúng tôi học làm ngoại giao với Bác Hồ”, (NXB Trẻ, t.p HCM, 1998), trang 60. Có một số nhầm lẫn về chỗ trú chân tại Biarritz. Vài nguồn cho biết Hồ ở Carlton, nơi này bây giờ chuyển thành công quốc. Jean Sainteny ghi nhận rằng Charles Tillon, Bộ trưởng hàng không trong nội các Gouin, bí mật thăm Biarritz để “nhìn tận mắt” điều kiện sống của ông Hồ ở đó. Xem Jean Sainteny, “Hồ Chí Minh và Việt Nam của ông” được Herma Briffault dịch sang tiếng Anh (NXB Cowles, Chicago, 1970), trang 80. Nhưng nguồn Việt Nam nói rằng ông ở khách sạn Le Palais - xem “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 3, trang 226, và Nguyễn Thanh, “Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pháp”, trang 169. Philippe Devillers nói phái đoàn ở cùng với Hồ tại Carlton, nhưng một nguồn tin của nhà ngoại giao Mỹ báo cáo rằng phái đoàn sống ở một khách sạn hạng hai - xem Devillers, “Paris - Sài Gòn - Hà Nội”, trang 289, và Đại sứ quán Mỹ Paris gửi Bộ ngoại giao, 5411, ngày 6 15, 1946, RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ.