Thúc - Giạ - Thị

     Là một nhà thơ lão thành nhất trong các nhà thơ còn sống và còn viết, cụ Thúc giạ Thị chính tên là Ưng Bình sinh năm Đinh Sửu, dương lịch 1877.
Giòng giõi hoàng tộc, cụ Thúc giạ Thị là cháu nội Tuy lý Vương một thi gia nổi tiếng ở thế kỷ 19 mà vua Tự Đức đã phải khen là ngang với các nhà thơ Thịnh Đường (Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán, Thi đáo Tung Tuy thất Thịnh Đường)
Cụ học đến thi đỗ cử nhân Hán tự và quan đến Lễ bộ Thượng thư. Nhưng cái thích của cụ không phải ở chỗ nơi lá ngọc cành vàng, ở chỗ khoa hoạn và công danh hiển đạt mà thích ở rượu thơ đàn hát, ở gió trăng sông núi.
Cụ làm thơ rất nhiều, nhưng ít có đăng báo. Tuy nhiên nói tới cụ, không mấy người không biết vì cụ là một nhà thơ nổi tiếng ở sông Hương núi Ngự được nhiều người chú ý, và hiện nay là hội chủ Hương bình thi xã ở Huế.
Về phạm vi thơ, trước đây cụ có ít bài đăng trên các báo Đông phong tạp chí ở Sàigòn, Ngày mai ở Huế và mới đây có xuất bản tập thơ Tình Thái Giạ, một thi phẩm được làng thơ đặc biệt thưởng thức.
Là một nhà thơ thuộc về phái cổ, năm nay đã ngoài tám mươi rồi, nhưng đặc biệt ở trong thơ cụ vẫn còn cái tinh thần khoáng đạt, và nhiều lúc như đang vươn lên ở trước thế hệ kỷ.

 

TỰ THUẬT

Đình hưu vách mảy lại ngâm nga,

Tức cảnh câu thi Tết gọi là.

Khoe cánh tìm hương con bướm liệng,

Vui lòng rủ bạn tiếng oanh ca.

Ngành cây cổ thụ đương xây lá,

Ngọn bút tao đàn cứ trổ hoa,

Thưa rằng : Nay đã tám mươi ba.

Xuân Kỷ Hợi 1959

oOo

 

TIẾT TRÙNG DƯƠNG NĂM ĐINH MÃO

Ở HÀ TỊNH

Xa ngái nhau chi mấy dặm trường,

Gió mưa thêm chạnh tiết Trùng Dương.

Hoa lau trổ bạc đầu phơi tuyết,

Đoá cúc phai vàng mặt giải sương.

Trăm giận, nghìn thương câu cảm tác,

Một say, mười tỉnh chén tha hương.

Non Hồng thử dạo lên cho đến,

Bẻ nhánh thù du giữ lấy hương.

1928

 

ĐƯỜNG NA - BẸ

Trải khắp non sông một tỉnh nầy,

Ngả đường Na -Bẹ mới qua đây.

Trước sao cả núi, sau đều núi !

Trên những là cây, dưới cũng cây !

Năm động bảy đèo lên với xuống.

Trăm khe ngàn suối chuyển rồi xây.

Cõi Lào, đất Việt, phương Đông Á,

Mà bản phân cương viết chữ Tây !

1929

 

BUỔI CHIỀU ĐI DẠO BỜ SÔNG, TỨC CẢNH

Cám thương danh lợi cả hai thằng,

Kẻ chống người chèo bộ xí – xăng.

Ghét cụm bèo trôi che bóng nước,

 Giận chòm mây nổi khuất vành trăng.

Chim khôn nhát bẫy nhìn không đậu,

Cá dại ham mồi thấy phải ăn.

Câu hát bên sông thêm chạnh nỗi.

Ông chài lơ lửng có nghe chăng !

1933

 

CẢM HỨNG

Thế giới ba ngàn vậy ở đâu ?

Họa đồ trông thấy chỉ năm Châu.

Gió mây xáo lộn tuồng thiên diễn,

Sông núi in nguy quả địa cầu.

Nước biển no lòng con chuột lúi,

Cây rừng dựa tổ cái chim sâu,

Có chi chi cũng quyền ông Tạo,

Ai dại chi mà khóc bễ dâu !

1940

 

DẠO CHƠI TRONG VƯỜN, TỨC CẢNH

Xởn gió sưa mưa buổi tạnh trời,

Dạo quanh vườn cũ ngắm thu chơi.

Máy thắm phù dung lụy nhỏ rơi.

Xây tổ bầy ong đương rủ bạn,

Liệng vành con bướm vẫn trêu ngươi.

Tình nầy, cảnh ấy, khi hiu quạnh,

Khói lửa xa xa nhớ cuộc đời.

1940