Cao – Ngọc – Anh

Là một nhà thơ rất giỏi về Hán học và là cao niên nhất trong các nữ sĩ ở Việt Nam hiện nay, nữ sĩ Cao Ngọc Anh năm nay 82 tuổi, tức sinh năm 1878
Bà tên thật là Cao thị Hòa, quê tại Lam Sơn tỉnh Nghệ An (Trung Việt), nữ sĩ là con gái cụ Đông các Cao Xuân Dục, bào muội ông Hiệp tá phó bảng Cao Xuân Tiếu.
Xuất thân trong gia đình thế gia vọng tộc, nữ sĩ sớm được thân phụ cho theo đòi nghiên bút.
Năm 19 tuổi, nữ sĩ kết duyên với ông án Nguyễn Duy Nhiếp con cụ cần chánh Nguyễn Trọng Hiệp.
Về làm dâu nhà họ Nguyễn, nữ sĩ sanh hạ được 3 con (một 5 tuổi, một 3 tuổi và một mới 4 tháng) thì ông Nguyện Duy Nhiếp từ trần.
Năm ấy, nữ sĩ mới 26 tuổi, nhưng quyết ở vậy thờ chồng nuôi con, và đem tâm sự gởi vào văn thơ.
Nữ sĩ chẳng những giỏi về thơ nôm mà còn cả về thơ chữ Hán. Ai đọc tập Khuê sầu Thi nhân của nữ sĩ cũng phải khen là tú khẩu cẩm tâm. Trong tập này, nữ sĩ viết đủ các loại : bát cú, tứ tuyệt, ngũ ngôn, hát nói, văn tế … Và có người đã khen bài « Đào hoa khẩu chiếm » của nữ sĩ không kém chi bài « Hoa đào năm ngoái » của Thôi Hộ đời Đường.
Nữ sĩ hiện ở Sàigòn và là một hội viên của hội Khổng học Việt Nam. Tuy tóc đã bạc nhiều, mắt phải luôn luôn đeo kính, nhưng tinh thần vẫn sáng suốt, nói năng vẫn ôn hòa và cử động vẫn còn hoạt bát lắm
THI TUYỂN
 oOo
ĐÀO HOA KHẨU CHIẾM
Tích niên lang tháp song đào thụ,
Kim kiến đào hoa bất kiến lang,
Giả sử hoa thần như hữu thức,
Vị lang tiều tụy giảm dung quang.
Tự dịch :
Song đào chàng mới trồng năm trước,
Nay thấy đào hoa chẳng thấy chàng
Ví khiến thần hoa như có biết,
Vì chàng nhan sắc giảm phần chăng ?
HOÀNG HÔN
Hoàng hôn tối thị vô liệu lại,
Nhân tự thương tâm, nhật tự tà.
Lâu thượng nhất huỳnh tùy nguyệt độ,
Liêm tiền sổ điển họa phong ca.
Văn chương hồi thủ đô trần mộng.
Phú quý nhàn phao khán lạc hoa.
Tận nhật bế môn duyên để sự,
Sầu thời yếm kiến túc nhân đa.
TỰ DỊCH :
Chiều hôm rất đỗi buồn khôn tả,
Người đã đau thương bóng lại tà.
Trên gác đòm lòe, trăng dọi bóng ;
Trước rèm chim hót, gió hòa ca.
Ngẫm xem chữ nghĩa như trò mộng ;
Nhẹ ném giầu sang tựa cánh hoa.
Đóng cửa thâu ngày âu cũng thế,
Khi buồn chán thấy khách vào ra
 
CÁNH NƯỚC LỤT
(Gởi Bà sầm Phố)
Phảng phất xa nghe tiếng sóng dờn,
Trời thu như gợi tấm lòng son.
Kiến ong vơ vẩn tìm cây cối,
Hoa cỏ tơi bời tủi nước non.
Trăng sớm xa trông miền cổ độ ;
Mây chiều như vẽ bóng cô thôn.
Quần thoa ai kẻ tri âm đó,
Ngâm họa vài câu đỡ lúc buồn.
THĂM ĐOÀN HƯỚNG ĐẠO Ở NÚI BẠCH MÃ
Đường lên hướng đạo đá cheo leo,
Mỏi gối chồn chân cũng gắng trèo.
Trên núi mịt mù mây phủ kín ;
Dưới khi róc rách nước trong veo.
Cờ vàng một ngọn treo cao ngất,
Nhà ngói vài gian bỏ vắng teo.
Ướm hỏi rừng xanh ai chủ đó,
Ù ù gió thổi tiếng thông reo.
 
DẠO THUYỀN TRÊN HƯƠNG GIANG VỚI CÔ ĐÀO TUYẾT NGỌC
(Ca trù)
Nhất diệp khinh châu lăng vạn khoảnh,
Giữa sông Hương mà lanh lảnh tiếng Hồng Lam.
Khúc cao ca dìu dặt với cung đàn,
Bỗng gặp khách Trường an thi xã.
Văn tự tiền duyên giai cố ngã,
Cầm ca cựu khúc tức tân thanh.
Vẻ thiên nhiên lắm thú hữu tình,
Kìa gió mát trăng thanh ta với bạn.
Kho tạo hóa chi vô tận tạng,
Góp cùng nhau lạng mạng cuộc mua vui,
Kìa kìa cá nước chim trời.
VĂN TẾ MẸ
Mây Hàng một đám xa xa, cõi trần thế mơ màng nửa giấc ;
Núi Dĩ nghìn trùng thăm thẳm, cuộc tang thương đau đớn trăm năm.
Phũ phàng chi mấy trời xanh,
Chua xót thay lòng con đỏ.
Nhớ mẹ xưa
Tình đời cần kiệm,
Nết đất thảo hiền.
Vào bậc bố kinh,
Vốn dòng thi lễ.
Liễu yếu đương tuần đãi giá, chốn phòng khuê trăm nết giữ gìn,
Đào non vịnh chữ nghi gia, việc trung quỷ một mình cáng đáng.
Tay nội trợ đã nên tài phụ tướng.
Lòng trai thành thêm rạng đức tổ tôn,
Kiều mộc một cây, cát lũy tuyết sương che chở ;
Vườn xuân mấy độ, địch hoàn khuya sớm khuyên răn.
Này phú này quý, này thọ, này khang, này ninh, ở hậu trời cho đủ phúc ;
Nào rể, nào dâu, nào con, nào cháu, nào chắt, khi vui cảnh cũng chiều người.
Thiếu gì võng, thiếu gì dù, thiếu gì cửa tía nhà son, nền chung đỉnh nên ngôi mệnh phụ ;
Mà vẫn cày vẫn cửi, vẫn vườn rau ao cá, việc điền viên vui thú nông gia.
Phong lưu khác thói thường tình, cuộc tiêu khiển mượn vui ty trúc ;
Tình tứ nên câu tuyệt diệu, nhà tập rèn vả cũng bút nghiên.
Tuy lò tạo đúc khuôn xanh, cho vuông được vuông, cho tròn được tròn, rủi may âu cũng số trời, con nào quản lênh đênh chút phận ;
Mà nhà xuân đầy sắc tía, sinh hoa mừng hoa, sinh nụ mừng nụ, tươi tốt đã đành mặt đất, mẹ giúp nên vinh hiển một nhà.
Bể rộng non cao, công đức kể muôn nghìn ức triệu ;
Ngày qua tháng lại, xuân thu mong tám chín mười mươi.
Ai ngờ !
Con mới quy ninh,
Mẹ đã vĩnh quyết.
Biển thọ chúc song đường cụ khánh, nét chữ vàng chưa lạt màu son ;
Số nhân sinh bách tuế vi kỳ, gương tóc bạc bỗng lòa nước thủy.
Đã buồn nỗi năm canh  giấc điệp, khoái đoạn trường gửi đá vọng phu ;
Lại đau lòng một phút xe loan, giọt hàng lệ nên dòng từ mẫu.
Thơ thẩn Lục đường mượn hứng, rượu Bùi tương chén đầy chén cạn, lúc thu thanh cảm nỗi cha già ;
Vội vàng Lê các từ quy, áo Mạnh công mũi nhặt mũi thưa, bóng xuân nhật thương tình anh cả.
Nỗi xa, xót đàn con ríu rít, tìm Bà ngoại ngơ ngơ ngác ngác, biết lấy ai chia ngọt chia bùi ;
Nỗi gần, thương hai chị ngẩn ngơ, nhớ mẹ già viếng viếng thăm thăm, cực những lúc chạy đi chạy lại.
Ngoài nghìn đặm nặng tình tang tử, mẹ vội về chi ?
Dưới cửu tuyền chăm việc thần hôn, chàng ơi thay với !
Thương thay !
Chút tình máu mủ ;
Mấy đoạn ruột già.
Mẹ con vẫn tình sâu,
Sống thác là sự lạ.
Ba năm tóc rối, núi Hồng sơn cao đắp dạ sầu ;
Chín khúc tơ vò, sông Lam thủy chảy đầy nước mắt.
Nghĩ đến cù lao chín chữ, khôn đúc người vàng ;
Gọi là báo đáp ba xuân, kính dâng lễ bạc.
Than ôi !