Huyền Mặc Đạo Nhơn

    
à một vị túc nho lão thành, thi sĩ Huyền Mặc Đạo Nhơn sanh năm Tân Tỵ (1881), người làng Ỷ La, tổng La nội, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (Bắc Việt).
Cụ Huyền Mặc xuất thân trong một gia đình Nho học, cụ học chữ Hán rất tinh thông, nhưng không chịu dự thi khoa nào.
Cụ theo học chữ quốc ngữ, rồi vào Sàigòn ở từ năm 1926. Cụ sống bằng nghề báo và phiên dịch chữ Hán. Cụ trước thuật  tất cả có đến gần trăm quyển, nhưng hiện nay chỉ còn giữ lại được mấy quyển là Đường thi hợp tuyển, Kim Vân Kiều chú giải và một vở tuồng là ‘Tình cảnh sông Ngân’.
Cụ là một người trong lớp của các ông Diệp văn Kỳ, Đào trinh Nhất, Đặng thúc Liêng, Hồ biểu Chánh v…v… và đã từng đăng thơ trên các báo : Đuốc nhà Nam, Trong khuê phòng, Nông công thương, và Tân Á v…v…
Hiện nay cụ sống trong một căn nhà lá ở xóm Cầu Bông (Gia Định). Tuy tuổi đã gần 80, nhưng tinh thần vẫn còn cứng cát, hàng ngày vẫn làm thơ, và sắp sửa cho ra tập ‘Mùi Đời’ một tác phẩm trên ngàn trang gồm đủ các thể thơ văn và chuyện lý.
 
THI TUYỂN

SOI GƯƠNG NÓI CHUYỆN VỚI BÓNG.
Ta ngỡ rằng ai? chẳng hóa mình;
Mặt càng nhìn mặt lại càng xinh.
Khi cười thân thế câu chân lạc ;
Lúc khóc trần ai chuyện bất bình.
Mở mặt non sông ngần ngại bóng ;
Chau mày hoa cỏ ngẩn ngơ hình.
Nỗi niềm tâm sự cùng ai nói ?
Mình biết cho ta, ta biết mình.
 

CHIỀU HẢI VÂN
(Bài này đọc quanh theo đủ thể cách)
Chiều hôm cảnh rộn khách Đông, Tây ;
Ấy nước non chia dạ đó đây.
Hiu hắt nửa đèo khe hút gió ;
Mịt mù làn biển bãi tuân mây.
Xiêu xiêu lộn sóng lồng trăng giõi ;
Ngụt ngụt quanh đồi vẫn khói xây.
Nhiều ít mối sanh tình cám cảnh ;
Kiều lam phải chẳng thuốc chi say.
 
Bài đọc ngược
Say chi ? thuốc chẳng phải Lam kiều ;
Cảnh cám tình sanh mối ít nhiều.
Xây khói vẫn đồi quanh ngụt ngụt ;
Giõi trăng lồng sóng lộn xiêu xiêu.
Mây tuôn bãi biển làn mù mịt,
Gió hút khe đèo nửa hắt hiu.
Đây đó dạ chia non nước ấy,
Tây, Đông khách rộn cảnh hôm chiều
1948
 

HOA NGUYỆT
Một đêm hoa nguyệt, một đêm mây ;
Hoa nguyệt trêu người vẫn thuở nay.
Nguyệt nhuộm mầu hoa in lấy ngấn,
Hoa dìu bóng nguyệt rọi vào cây.
Trước hoa đợi nguyệt người bên ấy,
Dưới nguyệt xem hoa kẻ chốn này.
Tình nguyệt hoa chung đây với đó ;
Cảnh hoa nguyệt xẻ đó cùng đây
 

VĂN TẾ MỘT VỊ QUAN THAM TÀN
(Làn cho dân trong Hạt)
Than ôi !
Mấy năm đài các, giấc hoàng lương mê tỉnh, tỉnh mà mê ;
Một trận ba đào, cuộc tang hải đổi thay, thay lại đổi.
Kiếp phù sinh buổi sớm giọt sương sa !
Hồn ảo mộng ban đêm cơn gió hối.
Kính duy quan lớn :
Mặt sắt đen xì,
 Hơi đồng đỏ chói.
Lòng hiểm hơn sông,
Máu tham thành suối.
Đấng trượng phu quần áo bảnh bao,
Hàng nam tử mày râu nhẵn nhụi.
Nơi thành thị bóng hồng thấp thoáng, mắt đã nẩy hoa ;
Cửa công hầu vạc dõi sôi trào, miệng từng nhỏ dãi.
Lửa dục kem lòng ;
Mùi đời nhức mũi.
Hang nguyệt tìm đường ;
Thang mây kiếm lối.
Trong cửa son chui đã hói đầu ;
Ngoài dặm tía chạy đà mõi gối.
Gặp buổi mù trời bắt két, bậc thang cao đầu nhẩy nhẩy bay bay.
Nhân khi đục nước béo cò, lưới ngư lợi mặc đơm đơm dủi dủi.
Cá nước phải duyên,
Rồng mây gặp hội.
Ra mặt cướp ngày,
Lòn trôn bợ tối.
Đã thỏa lòng ăn cả ngôi cao ;
Cho bõ lúc ra lòn vào cúi.
Cái thù nô lệ tính đền bù.
Món nợ công danh lo trắng trọi.
Trên công sảnh sấm vang mặt đất, hàng bán cam ngọc dát ngoài da ;
Dưới dân gian bóng quáng đèn trời, phường cắp chợ vàng chui lọt túi.
Bạc, đâm toạc giấy, luật kim ngân trắng đổi đen thay ;
Than đút vào lò, miệng gang thép lửa mang bể thổi.
Mặc sức hoang dâm,
Dầu lòng dữ dội.
Vẻ vang giữa cõi phồn hoa ;
Rong ruổi trên đường thế lợi.
Bày cô các cậu, ngựa ngựa xe xe,
Bà lớn hầu non, chăn chăn gối gối.
Vợ no con ấm, đều là máu mỡ sanh dân,
Nhà rộng cửa cao, hết thẩy thịt da xã hội.
Những tưởng chuông rung vạc nấc, quan giai lần mọt nước sâu dân ;
Nào dè nước chảy hoa trôi, ma quỷ vội đưa đường dẫn lối.
Hay là chốn tham thao địa phủ triệu xuống dùng tài,
Hay là nơi thẩm phán thiên đình, đòi lên hỏi tội ? …
Ôi thôi !
Quạnh quẽ bóng tà,
Bâng khuân mây nổi.
Dấu ngựa mở rêu ;
Cửa hầu lạt khói.
Ngõ không én liệng, cảnh thê lương sầu lại thêm sầu,
Hoa rụng bướm thưa, tình thảm đạm nói khôn xiết nói.
Nào những lúc nghênh ngang thềm ngọc, gái to ghé đít, trai trẻ châu đầu ;
Tới bây giờ hiu quạnh suối vàng, quỷ tốt kìm da, ma vương khởi gối.
Buổi vinh hoa kìa kẻ đón người đưa,
Cơn tiều tụy ấy ai thăm, ai hỏi ? …
Chúng tôi:
Trăm họ trên đời,
Mấy năm dưới cõi.
Đem phận ngựa trâu,
Gởi hàm hùm sói.
Xiết bao nghẹn cổ nghẹn hầu,
Biết mấy chịu trăng chịu trói.
Đau thấu tận xương ;
Oán sâu tới phổi.
Nghĩa quan dân cũng kể một ngày,
Tình non nước những căm chiều nổi.
Từng đã nghiệp xiêu vì chánh ngược, chỉ có bạc tiền,
Gọi là lễ bạc gởi lòng thành, chút dâng gạo muối
Than ôi thương thay !
Nó càng thêm tủi !…