Dịch giả: Thiều Hoa
Phần IV

     ùa hè năm 1835 ở Charante thực sự là một mùa hè sôi động nhất mặc dù tôi luôn ở trong một tâm trạng giận dữ điên cuồng. Những vị khách trẻ trung tài hoa, các nhạc sĩ, nhà văn, những phụ nữ trẻ đẹp đi đi về về tới vài chục lần giữa Paris và Angoulême, mỗi lần họ ở lại vài ngày với Flora và chàng thi sĩ trẻ của cô. Họ là những người hết sức vô tư, sống theo phong cách thoải mái, không già nua khô hạnh như chúng tôi. Gildas và Flora thực sự hạnh phúc - không phải riêng tôi mà tất cả mọi người đều nhận ra điều ấy. Chúng tôi, những vị khách bản địa luôn được mời tới trong những dịp ấy và lấy làm thú vị khi tiếp xúc với những con người đầy tri thức và dí dỏm sắc sảo, được tham dự những cuộc nói chuyện đầy kiến thức cao siêu của họ...
Tôi thực sự xấu hổ vì những gì mình vừa viết. Tôi cảm thấy cay đắng và bất công. Nói cho cùng thì bạn bè của Gildas và Flora là những người Paris, họ vô tư, thư thái và sống quả quyết hơn chúng tôi. Họ sống thân thiện, sôi động và nhiệt tình. Dưới sự đánh giá khách quan của họ thì tất cả những gì vốn là niềm tự hào của Aquitaine rốt cuộc chỉ là sự khổ hạnh đáng buồn, niềm tin mù quáng của hầu hết những người phụ nữ cuồng tín nơi đây đối với xứ đạo của họ sẽ khiến người ta phát hiện ra rằng ở họ không bao giờ có một dấu hiệu nào của cuộc sống đồi bại. Trong số khách khứa của Flora, những người đàn ông không bao giờ xuất hiện hai lần với cùng một người phụ nữ. Song những mối quan hệ đó diễn ra một cách kín đáo, không bao giờ gây ra một điều tiếng gì. Với họ, việc thay đổi bạn tình liên tục là một việc hết sức bình thường. Không ai tỏ ra thắc mắc, ngạc nhiên về việc người ta có thể lại bắt đầu một mối quan hệ dan díu mới ngay lập tức sau khi vừa cắt đứt mối quan hệ cũ. Là trung tâm của những cuộc vui của cách sống đơn giản và có vẻ hạnh phúc ấy, Flora và Gildas dường như là hiện thân của niềm hạnh phúc. Điều này thì không chỉ chúng tôi nhận ra không chỉ chính tôi, một kẻ chìm sâu trong niềm tuyệt vọng trước hạnh phúc của họ, nhận ra mà cả những người bạn Paris của họ - những người mà không dè dặt giấu diếm sự ngưỡng mộ đối với mối quan hệ rực rỡ và chung thủy đó.
Tôi vùi đầu vào công việc để cho hai tháng ấy mau trôi qua. Suốt hai tháng đó, tôi luôn tìm cách giữ thăng bằng cho bản thân mình bằng ý thức trách nhiệm đối với công việc, đôi khi bằng những việc tầm phào trong cuộc sống riêng tư. Tôi chỉ rời văn phòng của mình để tham dự những bữa tiệc kéo dài tới tận sáng tại Margelasse, tại nhà d’Aubec, nhà d’Orty hoặc tại một nơi nào đó. Tôi ngủ rất ít, hay đi lang thang trên cánh đồng trong ánh sáng nhá nhem, chạng vạng của buổi chiều tối, với đôi mắt mở to chán nản, cáu kỉnh, khổ sở. Tôi nhìn mà không thấy gì cả. Cuộc sống của tôi như mang một sắc thái mỗi khi tôi ý thức được mối quan hệ bền vững không thể chia cắt nổi giữa Flora và Gildas. Giờ đây, tôi cảm thấy một sự thoải mái dễ chịu lạ lùng với những người thư ký xấu xí của mình, với khuôn mặt tôi lúc ẩn lúc hiện mỗi khi tôi có đủ can đảm soi gương. Chỉ có một sự việc duy nhất có ý nghĩa xảy đến trước khi nổ ra một tiếng sét làm cho tất cả vào thời điểm cuối tháng Tám năm ấy.
Một lần, sau bữa tối yên tĩnh, thân mật chỉ có mười người ở nhà Flora, chúng tôi cùng ngồi thưởng thức một thứ nước chanh đặc biệt do Maltha pha chế, chỉ có ở Margelasse, một món nước chanh mà khiến ông d’Orty cứ phải tấm tắc khen hoài. Flora nói: “Martha được mẹ cô ấy truyền lại hàng trăm công thức pha đồ uống như vậy - đó là những công thức gia truyền, ở Pháp không ai có vì cha cô là người Ý, còn mẹ cô là người Hungari” - Cô mỉm cười một cách trìu mến với người hầu gái của mình. Đang chăm chú với nhiệm vụ nhưng bỗng Martha ngừng lại một thoáng:
“Không, thưa bà, mà là ngược lại”.
Rồi cô ta cúi chào và bỏ ra khỏi phòng.
“Ôi, đúng là tôi thật ngốc nghếch làm sao khi nhầm lẫn thế này. Mẹ cô ấy là người Ý, còn cha cô ấy mới là người Hung” - Flora cười.
“Đúng thể” - Gildas đang đứng sau lưng tôi lên tiếng.
Cũng như tất cả những người khác có mặt lúc đó, tôi quay lại vì giọng khàn khàn khác thường của anh ta. Trông da anh ta tái nhợt và giận dữ một cách lạ lùng.
“Đúng thế” - Anh ta nhắc lại - “Khi đã có lòng tốt quan tâm tới ai đó thì đừng quên những điều thầm kín người ta đã thổ lộ. Dĩ nhiên nếu muốn gọi một con ngựa Shetland (vùng đảo ở phía bờ biển Bắc Scotland) là Barbady thì không sao, nhưng với con người thì lại khác”.
Tất cả chúng tôi đều sửng sốt, ngạc nhiên. Như thể nhận ra phản ứng của chúng tôi, anh ta khẽ nói “Anh xin lỗi”, nghiêng đầu về phía Flora rồi bỏ ra vườn.
Artermise, lúc nào cũng là cô ta trong vai trò người cứu hộ, nhanh chóng lên tiếng chuyển câu chuyện sang một đề tài khác. Tôi quay sang nói chuyện với Flora, trông cô có vẻ nhợt nhạt hơn bình thường. Khi nhìn kỹ, lần đầu tiên tôi nhận thấy trên khuôn mặt, trên làn da cô những nếp nhăn mờ mờ, như thể là hậu quả của những dằn vặt mà cô đã phải chịu đựng. Bỗng từ đáy lòng tôi thấy ghét cay ghét đắng Gildas.
“Anh ta sao vậy nhỉ. Sao anh ta lại có thể cư xử với em như vậy được?”
“Nhưng anh ấy hoàn toàn đúng, phải không? Em thật khiếm nhã” - Cô khẽ nói.
Tôi phản đối. Khắp trong vùng cũng như xung quanh, ai cũng biết tới Flora vì tính cách thẳng thắn nhưng tốt bụng, nhân hậu của cô. Thật là chẳng ra sao khi chỉ trích rằng cô tàn nhẫn, vì đã bao lần cô cất công tới thăm những làng xóm hẻo lánh nghèo nàn, vì những cố gắng không thể kể hết của cô để giúp đỡ những người hàng xóm kém may mắn xung quanh, vì những khoản cúng tế, hiến tặng của cô cho các trường học, bệnh viện, và cả ngôi nhà luôn rộng mở của cô tại Margelasse. Thậm chí ngay cả khi những việc làm từ thiện của cô chỉ là sự khoe khoang, nhằm mục đích thu hút sự chú ý của người khác thì dù sao những việc đó cũng giúp làm vơi đi bao sự đau khổ và mang tới niềm vui cho những người xung quanh, giúp cho người ta chống chọi với cuộc sống cùng cực khốn khó. Vì thế, tôi thấy sự chỉ trích của Gildas thật vô lý và tàn nhẫn.
Anh ta đang viết một vở bi kịch, và không sao lãng bởi công việc đó một giây phút nào, như anh ta thú nhận với một vẻ bối rối ngượng ngùng khi được hỏi đến. Khác với tất cả những người khách khác của Flora, Gildas không bao giờ thích nói về những tác phẩm của mình hay những thành công rực rỡ trong quá khứ, lại càng không bao giờ nói về những dự định, kế hoạch trong tương lai. Thực tế là cho dù cố moi móc để ý song tôi cùng không thể tìm ra ở anh ta một điểm gì để mà coi thường. Sự bộc phát của anh ta tối hôm đó, có lẽ là sự vi phạm đầu tiên vào nguyên tắc xử sự của anh ta, như là kết quả của sự vỡ mộng. Hôm sau, tôi không hề ân hận một chút nào khi nói năng cư xử với một thái độ lễ phép vừa đủ với Artennise, người mà đã run lên vì xúc động với sự việc vừa xảy ra, đã giải thích theo một cách khiến người ta cảm thấy đáng thương tội nghiệp cho cô ta:
“Các vị có thể mong đợi điều gì đây?” - Cô ta nói - “Dù nói gì hay làm gì đi nữa, người ta cũng không thể lãng quên hay chối bỏ nguồn gốc của mình được. Tại sao chúng ta lại cãi cọ bất hòa vì cha mẹ của một cô hầu nhỉ? Nhưng có lẽ sự việc đụng chạm tới Hầu tước Gildas. Dù gì đi nữa thì sâu trong con tim anh ta vẫn biết mình là ai, từ đâu tới. Dù làm gì và ở đâu đi nữa người ta cũng không thể chối bỏ  gốc gác của mình được”.
Tôi bắt bà ta phải im miệng lại bằng cách nhắc nhở rằng không lâu trước đây bà ta đã xác nhận chỉ có sự cao quý của tâm hồn mới thực sự đáng trân trọng - vì thế mà trong một thoáng có vẻ như bà ta rất căm tức tôi.
Bà ta tỏ ra lạnh nhạt, cả hai chúng tôi đều giận dữ và chỉ cho ông Honoré cố dàn hòa nhưng khi ra về thì tôi vẫn đầy bực mình vì cô ta cũng như vì chính bản thân mình.
Từ đầu mùa hè ông Honoré tỏ ra suy sụp trông thấy. Tôi thường trông thấy ông đi về hướng Margelasse, rồi khi về trông có vẻ đầy đau khổ. Có lẽ Martha cũng xúc động đôi chút vì những cố gắng của chúng tôi nhằm quyến rũ cô ta, nhưng tuy thế cô ta lại chú ý hơn cả tới người đánh xe và người nuôi chó của ông d’Orty. Theo lời bà chủ nhà của tôi, bà ta đã nói ra trước khi tôi kịp ngăn lại, thì vài lần người ta đã trông thấy Martha cùng những người đàn ông này quấn với nhau như thú vật giữa ban ngày.
Tôi thấy thật miễn cưỡng khi buộc phải kể lại những gì tiếp diễn sau đó. Thật là kỳ lạ, tôi sợ rằng những bản chất lương thiện tốt đẹp của con người sẽ bị chính con người hủy hoại mà không thể cứu vãn nổi.
Tôi đang nói về tình yêu của Flora dành cho Gildas, một tình yêu không giới hạn và cảm động, được đền đáp xứng đáng. Gildas vừa nồng nàn vừa dịu dàng lại rất mực trân trọng, chiều chuộng người tình. Đó là một tình yêu mà bất kỳ phụ nữ nào cũng không thể mong ước gì hơn. Anh ta cư xử với cô như thể nhờ cô mà anh ta có tất cả, toàn bộ cuộc đời anh ta, cả tâm hồn, vẻ đẹp cũng như sự nghiệp, trong khi thực ra anh ta chỉ nợ cô ấy hạnh phúc mà thôi. Anh ta cư xử với cô như một kẻ bị nạn với ân nhân, như học trò với cô giáo, lại như một người tình, không lúc nào không thể hiện sự trân trọng với cô, bảo vệ cô, những ham muốn của anh ta với cô như không bao giờ thay đổi và là duy nhất, không gì thay thế được. Vì thế tôi như không thể tin vào cảnh tượng đang diễn ra trước mắt khi bước chân vào căn phòng cất súng tại Margelasse.
Trong căn phòng vuông nhỏ đó chất đầy những tấm khiên, lá chắn, mũ trụ, mặt nạ kim loại, những thanh kiếm mỏng dài từ thời xa xưa, những con dao săn tổ tiên Flora để lại. Tôi vào để lấy một con dao găm kiểu phương Đông mà có lần Flora đã tả cho tôi. Trông nó chắc hẳn rất đẹp. Nếu Gildas có ở đó thì chắc anh ta sẽ là người đi lấy, nhưng vì anh ta bận viết nên tôi làm việc này.
Tôi mở cửa bước vào. Căn phòng được chiếu sáng lờ mờ bởi một ô cửa sổ hẹp duy nhất hình bán nguyệt phía trên cao. Không khí trong phòng đầy bụi bặm, ẩm mốc, mùi thảm trải nền và phủ tường. Trong góc tối tôi thấy Martha đang đứng dựa lưng vào tường, tóc xõa tung, đầu ngả ra phía sau, váy tốc lên đến tận eo, hai chân dạng ra, được giữ chặt trong tay một người đàn ông tôi chưa nhận ra là ai. Anh ta dụi mặt cắn vào đùi cô ta một cách thèm khát trong khi thốt ra những tiếng khàn khàn: “Anh không thể sống thiếu em được. Em là của anh, chỉ một mình anh thôi, mãi mãi suốt cuộc đời. Anh xin em, anh muốn có em..”
Giọng nói ấy còn tiếp tục rên rỉ nếu đôi mắt mở to của Martha không bắt gặp cái nhìn của tôi. Trong ánh sáng lờ mờ hắt bóng qua cửa sổ, tôi hầu như không nhìn rõ người đàn ông mà chỉ nhìn rõ khuôn mặt đẹp hoang dại dữ dội của cô gái. Tôi chỉ nhìn thấy cổ, gáy và vai anh ta. Khi anh ta kéo váy Martha xuống, từ từ quay đầu lại thì tôi đứng như trời trồng: đôi mắt mà tôi đang nhìn thấy là của Gildas, khuôn mặt mà tôi nhìn thấy chính là anh ta. Tôi như có thể bóp cổ anh ta chết tươi ngay lập tức nếu không nhìn thấy một nụ cười lạnh buốt trên khuôn mặt hầu như băng giá của Martha.
Tôi lao ra khỏi phòng, nhảy lên ngựa phi như điên về Nersac, lòng bàng hoàng không tin nổi những gì vừa diễn ra trước mắt, lại càng không đủ can đảm để chịu đựng ánh mắt tràn đầy hy vọng của Flora.
Ơn Chúa, ngoài tôi và những kẻ trong cuộc ra, không một ai hay biết gì về chuyện này. Những ngày sau đó chúng tôi đi săn trên lãnh địa của Hầu tước xứ Doilac. Tôi gặp Gildas và Flora ở đó. Tôi phải nói gì với họ đây, và trước hết, tôi phải nói gì với Flora đây? Tôi không hiểu sao mình có thể chịu đựng được khi thấy cô vẫn vui vẻ tươi cười với anh ta, một người dễ đổi thay và bạc tình như thế, trong khi nếu là tôi thì chỉ cần chút ít quan tâm của cô, một ánh mắt của cô là đã khiến tôi thỏa lòng khát khao.
Nhưng lòng khát khao gì đây? Tôi đã chẳng còn chút khát khao gì nữa rồi. Tôi chỉ còn thấy tức giận khi nghĩ tới những gì mà Flora phải chịu đựng mà thôi, và dường như sức chịu đựng của cô không còn được bao nhiêu nữa. Tôi nghĩ rằng từ bên kia đồi cao tôi có thể nghe thấy một tiếng kêu rin rít, độc ác và tàn nhẫn của Tử thần, đòi mang đi ngay lập tức một trong số chúng tôi. Thần Chết đã tới Angoulême, mang theo lưỡi hái gieo rắc sự đau khổ và tang tóc.
Nhưng ít nhất là một lần Tử thần đã dập tắt trong tôi những tiếng khóc đau khổ của con chim xinh đẹp mang tên Hy vọng. Niềm hy vọng còn sót lại cho phép tôi tưởng tượng ra cảnh anh chàng Gildas đẹp trai chết dưới chân tôi, bởi chính tay tôi trên cánh đồng, giống như trong một số minh họa truyện tranh bạo lực, và Flora quay lưng lại cái xác của anh ta, dựa đầu vào vai tôi. Cô choáng váng xúc động trước sự can đảm, ga-lăng của tôi, trước kết cục tất yếu của cuộc đấu kiếm, khẽ thì thầm vào tai tôi: “Nếu không có anh thì chắc em không còn sống nữa”.
Thi thoảng những tiếng nói ấy lại lùng bùng trong đôi tai tái nhợt của tôi, tái nhợt như khuôn mặt và cơ thể tôi. Tôi không biết ngày mai mình sẽ phải nói gì với anh ta, phải xử sự với anh ta như thế nào cho được. Có nên đe dọa, thách đấu, với anh ta hay không khi anh ta cứ khăng khăng tiếp tục mối quan hệ bất chính này? Chẳng lẽ trên đời này lại có kẻ trâng tráo, vô liêm sỉ tới mức cùng lúc quan hệ với cả người hầu của người phụ nữ anh ta yêu dưới cùng một mái nhà hay sao? Chẳng lẽ anh ta lại có thể nói lời yêu thương với cả hai người đàn bà ấy một lúc, một người là Flora còn người kia lại là Martha, một người mà đúng ra anh ta chỉ cần gọi tới một lúc, sau đó trả vài đồng là xong? Tại sao lại có những lời nói yêu đương ấy? Những lời đó, theo cảm nhận của tôi qua nụ cười của cô ta, đối với cô ta thật đáng buồn cười. Theo cách nói của Artermise thì “Những người như vậy không biết thế nào là cư xử lịch sự cả”.
Đêm đến, tôi chìm vào giấc ngủ ngay khi đặt đầu xuống gối. Đó là thói quen của tôi khi gặp vấn đề rắc rối và bế tắc.
Trời mưa suốt đêm, sáng hôm sau mặt trời ló ra sau màn sương mù dày tới vài foot trên mặt đất, đậu trên những hàng rào, lấp ló sau tán cây, sau đó biến mất nhường chỗ cho ánh bình minh đầu tiên ló dạng trên mặt đất của một ngày mới nguyên sơ.
Tất cả những người đàn ông, dù ở địa vị nào, tuổi tác nào, số phận nào đi chăng nữa thì đôi khi họ cũng cảm thấy được hòa hợp với thế giới. Bỗng nhiên tất cả là của họ: vợ của họ, người tình của họ, cái chết của họ. Đôi khi chúng ta vẫn phải cảm ơn mưa và bùn đã mang tới cho chúng ta, và cho phép chúng ta dù chỉ là trong những khoảnh khắc ngắn ngủi, được chiêm ngưỡng làn sương mờ bay vờn như khói, như những dải lụa êm cũng như những bụi cây gai của miền quê và thị trấn này giờ đây đang hong mình dưới ánh nắng mặt trời sau cơn mưa.
Sáng hôm đó, những tia nắng mặt trời đầu tiên đã mang tới sức sống cho một ngày mới trong lành trên mặt đất. Xa xa, những cây dương vẫn vươn cao một cách thanh bình, êm ả như thường. Tôi phải dừng lại và ngắm nhìn thung lũng xinh đẹp. Đắm mình trong những ánh sương mai lóng lánh xanh bạc, vàng, trắng, cả miền quê trông như một chiếc bánh ga-tô khổng lồ, lộng lẫy nhưng lại không thể ăn được.
Hôm đó tôi đến trễ hẹn. Tôi bám theo một ngườị phụ trách chó, dẫn đầu cuộc săn đuổi. Như thể được kích động, thôi thúc bởi sự dữ tợn, đe dọa của bầy chó sủa inh om xung quanh, tôi là người đầu tiên tiếp cận với con lợn lòi hung ác và tự mình cắt đứt cuống họng nó.
Có những ý kiến khác nhau đối với kết quả của cuộc săn. Một thì cho rằng thật là một kết thúc mau lẹ, dứt khoát và tuyệt vời; một lại cho rằng không hiểu như vậy có hơi tẻ nhạt và tàn nhẫn quá không. Thú thực là có những lúc tôi có cảm tưởng như mình đang đuổi theo cái chết của chính mình đùa bỡn với sự may rủi của cái chết. Song hầu như tôi có cảm giác mình rượt theo một con lợn lòi kiệt sức, hung dữ, khôn ngoan và cũng bất hạnh như tôi vậy. Tôi phải thừa nhận rằng trong suốt mười lăm phút đồng hồ tôi cố tìm mọi cách để giết bằng được nó, với suy nghĩ như thể đó không phải là một con lợn lòi mà chính là kẻ có tên Gildas.
Sau cuộc săn lạ lùng đó, không hề một chút tính toán trong sự can đảm của mình, tôi cảm thấy khá hơn những con chim trên cây như hát vang cùng với niềm hy vọng đang trở lại trong tôi một lần nữa Cuối cùng thì nó cũng trở lại với tôi sau hai năm trời vắng bóng - hai năm trời với ngày buồn tẻ và khó chịu, bứt rứt, với đêm lạnh buốt - hai năm trời vô cảm, không cay đắng đau khổ và cũng không rượu chè bê tha vô độ. Sự chín chắn, cẩn thận của tôi có thể được nhìn nhận như là sự chừng mực. Thi thoảng, mỗi khi không kiềm chế được nhu cầu thể xác và tinh thần, tôi lại đi Bordeaux. Tôi đi để quên đi những mộng mị hoang đường của mình, hay ít ra là tôi cố gắng để quên chúng đi. Tôi tìm đến những cô gái điếm trơ tráo và giấu kín những đêm mộng mị của mình.
Trong khi cưỡi ngựa đi trên vỉa hè dành cho người đi bộ dọc theo đại lộ, tôi chợt nảy ra ý nghĩ lần sau tới Bordeaux tôi sẽ yêu cầu một cô gái giống như Martha - nếu cô ta không đợi tôi khi tôi tới. Không hiểu sao nhưng trong đầu tôi đã có ấn tượng, bị ám ảnh bởi ý đồ đen tối về cái màu trắng của bắp đùi cô ấy và ánh mắt long lanh xám xám của cô ta. Trong khoảng mười lăm phút, giữa ban ngày tôi mơ về cô ta và tôi cảm thấy buồn ngủ bởi vì một ít phút sau tôi thấy mình nằm gọn trong vòng tay cô ta trong căn phòng ngủ của Vua Luois XIII, trong điện Louvre, có thể nghe thấy tiếng mưa rơi trên mái nhà. Vì khoản tiền mà tôi định bỏ ra, cô ta hôn cổ tôi, vai tôi, đùi tôi. Giấc mơ buồn cười này khiến tôi phát điên lên và thúc ngựa chạy nước kiệu nhanh dần. Bỗng nhiên tôi cảm thấy hạnh phúc. Tôi không thể phủ nhận được điều đó. Mây mù như bị gom lại, rồi lùi xa, tan trên bầu trời bởi những làn gió nghịch ngợm khuấy động những con chim đêm của thành phố thủ đô, những người tham gia cuộc vui, những bạn bè của Gildas và Flora. Không biết tại sao, nhưng thực sự tôi thấy thanh thản nhẹ nhàng như thế được giải thoát khỏi cuộc tình điên rồ, khỏi nỗi đam mê lãng mạn của mình.
“Lạy chúa, Lomont” - Cô nói - “Anh tái nhợt một cách đáng sợ. Có điều gì xảy ra với anh tối qua vậy? Em cho rằng anh rất tức giận, nhưng em sẽ không để anh ra về với tình trạng này đâu. Hay là anh bị đau nửa đầu à?” Cô nói một cách bình thản, nghĩ rằng lời giải thích này sẽ làm cho mọi người xung quanh không thắc mắc gì cả. (Đúng là thi thoảng tôi cũng hay bị đau đầu, khiến cho đôi khi giữa buổi khiêu vũ tôi phải dừng lại để nghỉ, hoặc khó chịu vì bị hành hạ suốt trong một bữa ăn tối).
“Lomont uống quá nhiều rồi” - Ông d’Orty phản phúc nói, tay cầm chiếc chai rượu dốc ngược xuống một cách phóng túng khiến những giọt cuối cùng rớt xuống nền nhà. - “Lomont là một tay rượu đáng gờm đấy”.
Không ai để ý tới lời của ông ta và có lẽ lời nhận xét ngu ngốc ấy sẽ dừng lại ở đó nếu như Gildas không cất giọng một cách lạnh lùng không kém: “Có thật anh là người nghiện rượu không, Lomont? Người ta nói rằng đôi khi anh nhìn thấy cả những điều không tồn tại”.
Tôi nghe thấy mình đáp lại một cách bình thản, hờ hững: “Thực ra, thi thoảng tôi cũng trông thấy những điều mà anh không thấy, người khác không thấy. Nhưng đó là một khả năng trời phú mà ngoài tôi ra thì không một ai, ít ra là trong phạm vi Angoulême này, có được”.
Gildas nở một nụ cười chế nhạo và ánh mắt anh ta một lần nữa lại giống như con chó cắn trộm gót chân, ánh mắt đau đớn không nói thành lời, giống như ánh mắt tôi nhìn thấy hôm trước của một người mù.
“Tôi chưa nghe rõ ông nói gì” - Anh ta hạ thấp giọng xuống.
Và trong một lúc hầu như tất cả mọi người như nghe thấy một giọng nói như đang diễn kịch, một giọng nói trẻ trung, vang lên giận dữ, thẳng thắn và tuyệt vọng.
“Anh vừa nói gì vậy?” - Ông d’Orty hỏi - “Ông vừa nói một cách khó hiểu. Lạy Chúa, Ông có thể nói một cách rõ ràng hơn được không? Bá tước, bà có hiểu ông ấy vừa nói gì không” - Ông hỏi Flora, đang đưa mắt lo lắng, van nài hết nhìn người tình rồi lại nhìn tôi, rồi lại nhìn người tình.
Tôi có thể đọc được tất cả sự thân tình trong đôi mắt ấy, và bắt gặp một cảm giác độc ác - một sự độc ác nhân đạo của tình bạn, chứ không phải tình yêu, một ánh mắt như cầu xin, như nói với tôi: “Đừng nói một lời nào hết. Em không muốn biết”. Tôi cố nén hơi thở của mình và cuối cùng thì mãnh lực của một người đàn bà đã chế ngự được tôi. Tôi đưa mắt nhìn đi chỗ khác, xấu hổ với cô, với Gildas và với chính mình. Không nhìn tôi cũng biết cánh tay của cô tìm anh ta và trông thấy những ngón tay họ xoắn chặt lấy nhau. Tôi thấy anh ta quay mặt về phía cô, và khi anh ta giữ cô gần sát vào cơ thể cường tráng của anh ta, cơ thể đàn ông làm đắm say bao cô gái, thì Flora phó thác hoàn toàn cho anh ta mà không hề gìn giữ đề phòng gì cả.
Nét mặt Gildas trở nên cau có, anh ta thể hiện một niềm hạnh phúc âu sầu. Sự ngắt quãng không đúng lúc của tôi hôm trước hẳn đã khơi dậy mạnh mẽ trí tưởng tượng về cô gái điếm Martha, và mỗi milimét trên cơ thể Gildas, mỗi sợi tóc trên đầu anh ta, mỗi thớ da trên người anh ta, mỗi dây thần kinh của anh ta đều đầy ắp sự no nê thỏa mãn. Và đó là kẻ mà Flora yêu dấu của tôi yêu thương, theo đuổi, là kẻ mà cô ấy dựa vào đó một cách tin cậy, phó thác, nghe nhịp đập trái tim ấy mà không hề để ý rằng bàn tay với những ngón tay không sạch sẽ có thể làm cho những nhịp đập ấy nhanh hơn những hai, ba lần. Tôi chộp lấy chai rượu bên hông Ông d’Orty, muốn rót cho ông ta và rót vào họng mình để thưởng thức xem nó ngon như thế nào.
Gildas trông tái nhợt và gày gò hơn. Còn Flora thì cười nói to, vui vẻ thoải mái. Khách khứa của chúng tôi đều ngạc nhiên và cho rằng đó là biểu hiện của sự sôi nổi nhiệt tình. Người Paris và người Saintongean đều giống nhau về nhu cầu tinh thần. Cuối cùng thì tôi cũng nhận ra một vòng hào quang bao xung quanh vầng trán của gã thanh niên trẻ, tôi đã không nhìn thấy điều đó giữa hai bắp đùi của người hầu gái.
Còn Gildas, ban đầu, không phải là không cáu kỉnh từ chối thể hiện khả năng thơ phú của mình còn giờ đây thì miễn cưỡng phải chấp nhận lời giải thích dễ chịu nhưng nực cười này. Anh ta không nói gì với tôi, cũng như tôi không nói với anh ta lời nào. Song hễ có ai ám chỉ một điều gì khiến chúng tôi chạnh lòng thầm nghĩ tới hoàn cảnh của chúng tôi thì chính tôi chứ không phải anh ta lại cảm thấy xấu hổ. Suốt những ngày sau đó, chúng tôi chưa bao giờ nhắc lại về “cái buổi chiều ấy trong căn phòng để súng” song dường như Gildas luôn tránh mặt tôi. Còn tôi thì vẫn xuất hiện thường xuyên như những người khách khác, lúc nào cũng thế: ăn trưa, cưỡi ngựa đi dạo, đi săn, đi câu cá, khiêu vũ, ăn tối và cả ăn đêm - thường xuyên tới mức không thể hơn. Thậm chí tự Artermise cũng nhận thấy khuôn mặt tái tái và tự tôi nhận ra những sợi tóc bạc trên mái tóc nâu vàng của cô ấy.
Nhưng thời gian để lại dấu ấn còn rõ rệt hơn trên người chồng của cô ta, ông Honoré d’Aubec. Tôi nhận ra rằng ông ta và Gildas có chung nỗi ám ảnh, mặc dù tôi không tin chắc rằng người đàn bà nhếch nhác này có thể làm giảm sự thèm khát của hai người đàn ông đầy sinh lực, cùng như với cả hai cô ta đều nói rằng chỉ là tiêu khiển.
Cả Gildas và Honoré đều có vẻ kiệt sức. Trông họ như những bộ xương, bị dằn vặt vì ký ức đau khổ. Và người đàn bà khiến họ rơi vào tình trạng này dường như chẳng thèm để mắt đến họ mỗi khi vì nhiệm vụ cô ta phải xuất hiện trước mặt họ. Sự hiện diện của cô ta trong chúng tôi như khiến cho hai người - cả Gildas và Honoré - đều phải cố gắng quay đi nhìn chỗ khác, trong khi những con mắt còn lại trong phòng đều đổ dồn về cô ta. Gildas thì luôn quay về phía Flora, và ánh mắt nhìn cô như âu yếm hơn, tôi không thể phủ nhận điều đó. Ngược lại, ngài Thị trưởng ga-lăng Honoré của chúng tôi trở nên im lặng, thờ ơ một cách rõ ràng và ngay cả Artermise cũng không hiểu được. Song cuối cùng khi hiểu ra thì điều đó làm cô ta bị sốc - vì danh dự, lòng tự ái bị tổn thương chứ không phải vì tình yêu của cô ta với chồng. Bao nhiêu năm chung sống với cô ta nhưng giờ đây ông ta làm cô ta thất vọng vì một người hầu gái. Giả sử ông ta có suy nghĩ, u sầu vì một người phụ nữ từ thời còn trẻ thì cô ta còn thấy hài lòng với đam mê của ông ta. Và vấn đề không phải là ở chỗ ông ta ăn nằm với một người hầu mà là ở chỗ: khi nằm trong vòng tay cô ông ta vẫn có thể nghĩ tới người đàn bà kia.
Và quả thực là ông ta nghĩ về cô ta, thẫn thờ ngớ ngẩn vì cô ta. Gò má vốn hồng hào đầy đặn của ông ta giờ trở nên vàng bủng, teo tóp. Ông ta uống nhiều, bực bội và cáu kỉnh với mọi việc, thậm chí còn chán cả những thành công trong lĩnh vực tài chính mà trước kia vốn là sự ham mê của ông ta. Bình thường thì mỗi tháng ông ta kiểm tra lại sổ sách giấy tờ hàng chục lần, song một hôm, theo lệ thường, tôi đến phòng ông để làm việc đó. Khi tôi tỏ ý phê bình ông ta một cách hài hước vì sự cẩu thả ấy thì tôi thực sự bị bất ngờ bởi một phản ứng dữ dội: “Ông muốn tôi phải làm gì, hả Lomont? Tôi không cần tiền để làm gì cả”. Giọng ông ta khó khăn tới mức tôi đóng ngay cửa phòng lại lấy một cái ghế cho ông và sụp xuống đó, ông ta kể cho tôi toàn bộ câu chuyện.
Ông ta có đủ lý do chính đáng để trở nên suy sụp. Nói gì đi nữa thì có những trạng thái đau khổ chỉ làm người ta thấy ê chề, cũng như hạnh phúc thì luôn làm cho người ta sung sướng. Sự đam mê khao khát của tôi đối với Flora khiến tôi trở nên nực cười, buồn rầu và bẽ bàng song ít ra thì tâm hồn và lương tâm tôi cũng không bị hủy hoại, tàn phá, day dứt. Chẳng có gì phải xấu hổ khi phải lòng một người phụ nữ xứng đáng được yêu như Flora. Nhưng với một người hầu gái không sạch sẽ thì lại là chuyện khác. Hơn nữa, sự thay đổi nhanh chóng của cô ta trước sự tấn công của những người tình khiến cho họ cảm thấy đau đớn nhiều hơn là hạnh phúc. Sự đam mê của họ giờ đây bị đốt cháy bởi ký ức, day dứt. Sự khát khao mơ hồ đối với phụ nữ nói chung giờ đây thành sự khát khao cụ thể với một người đàn bà là cô ta, nhất là khi cô ta còn từ chối không thèm nhìn mặt họ, không để ý gì đến họ nữa. Cô ta mang lại cho họ sự thỏa mãn rồi hứa hẹn nhưng không bao giờ giữ lời hứa. Cô ta không thèm nhìn đến họ nhưng lại luôn sắp xếp để đến gặp và dâng hiến cho họ trong cơn điên cuồng rồ dại ở những nơi kỳ dị, hoặc lại từ chối họ không một lời giải thích. Và điều này làm tôi ngạc nhiên: cô ta không bao giờ lấy của họ một xu nào - loại trừ có lẽ là hai người nông dân nghèo khổ khó có khả năng chịu được những chi phí ấy, mà thi thoảng cô ta lại bòn rút những đồng xu còm của họ mỗi khi cô ta tham gia vào những trò tục tĩu với họ.
Cả ba cố ganh đua, giành giật nhau để thể hiện những thói trụy lạc, trác táng. Tôi không thể kể lại những cảnh diễn ra như Honoré đã kể, mặc dù ông ta đã cố gắng kể một cách nhẹ nhàng, thậm chí còn từ chối không nói với tôi hết những gì ông ta nhìn thấy, song qua những gì ông nói tôi tin chắc rằng ông không chủ tâm xuất hiện, mà chính là Martha đã dàn xếp để ông ta chứng kiến cái cảnh cô ta làm cho một người đàn ông khác sung sướng phát điên lên như thế nào. Ông Honoré gọi đó là khoái lạc nhưng tôi gọi đó là trụy lạc.
Làm sao mà một người đàn ông duyên dáng, ngọt ngào, đáng yêu như Gildas lại có thể quỳ gối trước một người hầu đi làm thuê như vậy được. Tôi phải hỏi to câu hỏi của mình cho tới khi Honoré nhìn tôi một cách mất kiên nhẫn. Tôi có thể miêu tả như thế nào nhỉ? Mọi thứ như vẫn hiện rõ trước mắt tôi. Trong ngôi nhà với những cửa đóng kín, tôi ngồi ở cái bàn mà khắp trên tường xung quanh là chân dung những người tiền nhiệm của ông ta, chân dung của Vua Louis - Philippe. Đó là một căn phòng yên tĩnh, êm ả, ánh sáng lờ mờ không nhìn rõ. Có thể nghe thấy tiếng những nhân viên cấp dưới của ông Honoré đang làm việc sau cánh cửa - những tiếng nói lúc to lúc nhỏ và tiếng giấy tờ sột soạt. Ông ta ngồi đó vật lộn với cơn ác mộng, một lần nữa lại chìm vào thế giới riêng, giờ đây ông ta đau đớn như phát điên dại, chỉ cách nhà mình có vài thước mà như đang ở cách xa hàng ngàn vạn dặm. Ánh nắng trên quảng trường giờ đang xuyên chếch qua ô cửa sổ lờ mờ, nhuộm vàng những dòng bụi li ti, đậu lại trên sàn nhà, thi thoáng làm lóe lên ánh sáng phản chiếu từ chiếc khóa kim loại trên giầy của ông Honoré.
Tôi đang rất cần những ánh sáng phản chiếu như vậy. Bóng tối và sự sợ hãi đã đầy ắp câu chuyện của tôi rồi, một câu chuyện khủng khiếp nhưng tôi thấy mọi việc đều có thể tin được cho dù dường như ông ta có vẻ ngốc dại và non nớt. Như để trả lời câu hỏi của tôi về Gildas, ông ta ngẩng đầu lên và lặp lại một cách điên loạn: “Cái gì? Cái gì?”. Khuôn mặt của ông ta quay về phía tôi và tôi có thể nhìn thấy đôi mắt đỏ ngầu, đôi môi sưng phồng mà chắc hắn lúc nói ông đã cắn chặt - giờ đây trở nên tái xám. Nó khiến cho khuôn mặt ông ta mang một vẻ hoảng loạn, dâm đãng đáng tởm, kể cả khủng khiếp.
“Nhìn đây, Lomont” - Ông nói bằng giọng như của người lên cơn sốt - giọng nói của ông Thi trưởng đầy tham vọng - “d’Orty đã hứa trả cho cô ấy một ngàn france để cô ấy làm người quản gia chứ không phải một người hầu. Và Hầu tước xứ Doilac muốn tặng cho cô ấy ngôi nhà nghỉ ở khu săn bắn với bao nhiêu đồ đạc quý giá. Cô ấy từ chối tất cả tiền bạc, nhà cửa, đồ đạc quý. Và anh biết không, tối hôm qua, hai kẻ tình địch đã suýt giết nhau bằng dao. Giờ đây một người đã nằm bẹp trên giường. Anh ta cho mời cô ta đến nhưng cô ta không thèm đến. Anh không hiểu phải không? Đàn ông có thể làm bất kỳ điều gì cô ta yêu cầu. Họ sẽ cho cô ta bất kỳ thứ gì và cho cô ta mọi thứ vì cô ta sẽ chẳng lấy cái gì cả. Tất cả bọn họ, từng người một nối tiếp nhau...”
“Và tôi” - Tôi cười to - “Tôi đã từng đề nghị cô ta điều gì, tôi đã hứa gì với cô ta?”
Honoré mỉm cười: “Chính là sự im lặng của anh” - Ông ta nói - “Sự im lặng là tất cả những gì cô ta muốn ở anh”.
Tôi bỗng tức điên lên vì điều ông ấy nhận ra. “Tôi không nói gì chỉ là vì Flora, tất cả chỉ là vì cô ấy mà thôi. Vì bất ký lý do gì tôi cũng không muốn cô ấy dính vào chuyện lăng nhăng giữa người hầu gái dâm đãng với những người đàn ông trăng hoa này. Những chuyện lăng nhăng ấy không có gì dính dáng tới Flora cả. Không gì có thể làm cô ấy vấy bẩn được, tôi chắc với ông một điều như vậy”.
Một chút nữa thì tôi đã đánh ông ta nhưng cơn giận dữ của tôi đã xẹp xuống trước khi giáng cú đòn đầu tiên. Ngoài trời bắt đầu nổi cơn dông. Tôi đứng dậy nhìn ra cửa sổ. Quảng trường mù mịt cát bay và cả những tờ báo vụn, những chiếc lá rụng, tất cả mọi thứ tạp nham trong thị trấn Angoulême. Tôi quay lại và chút nữa thì va vào ông Honoré, cũng đang đứng nhìn qua vai tôi.
Tôi nói: “Giờ nhìn tôi đây. Phải nói rằng không phải là có hàng triệu cách làm tình với với một cô gái. Đạo Hồi nói rằng chỉ có 36 cách thôi, thậm chí tôi cũng không biết hết. Và trụu lạc thì vẫn cứ là trụy lạc, anh bạn già ạ, không hơn đâu”.
Một thoáng im lặng trước khi Honoré đáp lời tôi bằng một giọng như thì thầm: “Có cái hơn và có cái không hơn, tôi thề là thế”.
Và sự im lặng ấy gây ấn tượng cho tôi hơn tất cả những gì ông nói từ trước đến giờ. Ông ta không nói thêm cũng không giải thích thêm điều gì. Và trong buổi chiểu giông bão đó có lúc tôi có cảm tưởng rằng Honoré như đã chết.
“Tôi sẽ đề nghị Flora sa thải cô ta” - Cuối cùng tôi lẩm bẩm một cách ngán ngẩm.
Chắc hẳn đó sẽ là cơ hội tuyệt vời để Honoré mua lại người đàn bà mất nết lẳng lơ đó. Nhưng trên cả sự tự cao tự đại và nỗi buồn của mình, tôi thấy một mối nguy cơ sắp xảy ra sẽ lấy đi niềm hy vọng của tôi.
“Nếu cô ta đi, tôi sẽ đi theo cô ấy, anh có hiểu không?” - Honoré nói một cách đơn giản và nhìn tôi bằng đôi mắt của một con thú ốm yếu.
Sự tuyệt vọng của ông ta làm cho tim tôi tan nát.
Khi về tới Nersac, tôi lao vào bếp nhưng cả rượu nho Anjou lẫn phomat đều không làm cho tôi phấn khích lên chút nào cả.
Khu dinh cơ của ông d’Orty hơi xa Angoulême, vì thế khi ông ta tổ chức một buổi khiêu vũ thì hầu hết mọi người đều có ý định nghỉ ở đó qua đêm, mang theo người hầu để giúp họ thay trang phục. Tôi quyết định lợi dụng hoàn cảnh này để nói ra vấn đề khó khăn ấy. Tôi sẽ nói rõ ràng với cô ta rằng cô ta phải rời đi không báo trước cho Flora cũng như không giải thích lý do. Tôi mang theo một số tiền đủ để hòng mong cô ta chóng chấp thuận. Việc cô ta từ chối sự mua chuộc của Honoré đối với tôi chẳng có nghĩa lý gì ngoài một điều là cô ta muốn nhìn thấy nhiều hơn nữa màu sắc lóng lánh trên đống tiền của chúng tôi. Chẳng có sự giải thích nào cho hành động của cô ta, vì cô ta chẳng yêu một người đàn ông nào cả. Có lẽ tôi đã tưởng rằng cô ta yêu Gidas vì những nét đẹp trai, hào hoa của anh ta nếu ông Honoré không thú nhận rằng đã chiếm đoạt cô ta hôm trước ngay trong một ngăn chuồng ngựa. Không còn nghi ngờ gì nữa, cô ta là một người đàn bà mà bản năng tự nhiên mạnh mẽ tới mức đồi trụy, và nụ cười mà tôi nhìn thấy qua vai Gildas hôm trước là một nụ cười dâm đãng giễu cợt. Chắc chắn rằng khi không quan tâm tới người đàn ông thì cô ta chỉ có quan tâm tới tiền mà thôi. Tôi đã quen với những sự láu cá kiểu này rồi. Công việc của một luật sư đã khiến cho tôi có một khả năng nhìn thấu suốt tận bên trong thói tham lam và những mưu mô của đàn bà. Tóm lại là tôi quyết định một cách kiên quyết và hào phóng dùng số tiền một ngàn curon (tiền Anh, bằng 5 siling) để giải thoát cho những người bạn của tôi và những người đàn ông đáng thương khỏi tình trạng tâm thần phân liệt. So với sự hy sinh cả tình yêu của tôi đối với Flora thì số tiền trên đâu có là gì đáng kể.
Vì thế, sau khi xong việc, tôi tới Cognac. Vì tôi đi xe với Honoré nên trên đường đi tôi không thể không nói chuyện với ông ta. Song tôi không hề có ý định khuyến khích người đàn ông tội nghiệp này.
“Tôi ghê tởm cô ta” - Ông nói, mắt lóe lên, như thể chúng tôi đang đi ở chỗ không người. - “Tôi ghét cô ta nhưng chỉ với cô ta thì tôi mới có thể chịu đựng được”.
Ông ta giống như một người vay nợ mà bỗng nhận ra trong muộn màng rằng mình vừa phá sản, không còn lối thoát. Với hoàn cảnh ấy, ông ta có thể đánh đổi cả cuộc sống, sự nghiệp và tiền bạc để được sống lại tuổi xuân. Vì đó là sự chịu đựng và nỗi ám ảnh của ông ta. Nỗi khát khao của ông ta không phải là dễ thay đổi, hoặc là sự khao khát vô định với một người đàn bà xa lạ, mà nó được thay thế bằng những hình ảnh cụ thể, tỉ mỉ, những hành động và cả ký ức nữa. Sự ngờ ngợ trong những khao khát của ông ta khiến cho ông ta mù quáng, hướng về những cái mà ông ta đã có, mắt mở to, rơi vào tình trạng bực mình vì hồi ức, chán ngấy mệt mỏi với những tính chính xác. Thường thường trong âm nhạc hay trong những việc bếp núc nấu nướng, người ta không thể biết được những kinh nghiệm nếu bản thân không trải qua. Những lời nói dối dễ chịu nhất không phải là ở những điều khiến người ta xúc động mà là ở sự nhận thức, phân biệt được những sự khác nhau và những cái na ná nhau, cả Honoré và Gildas đều bị hành hạ bởi sự hoài nghi, lúc nào cũng phải phán đoán trong nỗi ngờ vực. Cả hai đều là những nạn nhân chịu sự đọa đầy của cô ta. Theo đề nghị hoặc đòi hỏi của cô ta, họ viết cho cô ta những bức thư tình đầy đam mê, cô ta đọc đi đọc lại cho tới khi thuộc lòng, rồi trích dẫn từng đoạn một cho họ nghe, khiến cho ho phải dằn vặt, đau đớn, khiến cho họ trở thành những kẻ nực cười và lấy thế làm vui lắm. Cô ta mỗi khi gặp họ lại trích đọc ra một đoạn, rồi diễn tả những hành động khiêu dâm từ những lời lẽ ngay giữa ban ngày mà họ viết trong những đêm kiệt sức, những từ ngữ vô cùng sâu sắc, được viết bằng mực xanh, hoặc ngược lại bóng bẩy một cách khiếm nhã. Hơn thế, cô ta còn mắc lỗi, hay là cố tình phạm lỗi khi sử dụng những từ của người này để nói với người kia - những từ thân mật thầm kín nhất - cười đùa một cách vui vẻ khi những con người khốn khổ đó, giận dữ hoặc thất vọng, hoặc trong một cố gắng vô vọng để khẳng định lòng tự trọng của mình, chỉ ra cho cô ta những lỗi của cô ta và khuyên rằng cô ta đã hiểu sai ý của tác giả. Tóm lại là cô ta bỡn cợt họ, tiêu khiển trên sự đau đớn của họ. Điều đó khiến cô ta cười chảy cả nước mắt.
“Gì thế nhỉ?” - Cô ta sẽ hỏi - “Vì cuối cùng thì cũng vẫn là người đấy được nhận chúng thôi mà...”
Honoré thì được cô ta đặt tên là “Ngài Thị trưởng của những cây nấm” vì ông ta thường trở nên bối rối thẹn thùng mỗi khi hẹn hò, gặp gỡ tại một địa điểm tận trong rừng sâu, và giờ đây ông hoàn toàn phục tùng cô ta, sẵn sàng cam chịu mọi việc ngoại trừ việc sống thiếu cô ta. Song tất cả những sự hy sinh đó cuối cùng lại khiến cô ta không bằng lòng, phật ý. Chẳng bao lâu ông ta đã phải chịu đựng sự giễu cợt khi cô ta đọc to những từ ngữ mà ông ta đã viết cho cô ta ít nhất hai lần -những từ cũng ngốc nghếch như bản chất vốn có của ông ta. Dường như chỉ có Gildas là kẻ chiến thắng - anh ta vẫn từ chối không chịu phản đối Flora khi có mặt Martha, mà cô ta nói với Honoré là người giỏi nhất trong việc làm cho cô ta thoải mái. Cô ta giễu cợt Honoré bằng cách khen Gildas đẹp trai, đưa ra sự so sánh giữa hai người. Tôi nhận thấy rằng trong số những người đàn ông yêu cô ta, xét về cả con người cũng như tài sản của họ, thì chỉ có một mình Gildas là có thể giành được chiến thắng mà thôi. Nhưng nếu cô ta yêu Gildas thì tại sao hai người không trốn đi cùng nhau? Giờ đây Gildas đã trở thành một người giàu có, sách và những vở kịch của anh ta được bày bán, trình diễn ở khắp mọi nơi. Còn nếu cô ta không yêu Gildas thì tại sao lại dâng hiến cho anh ta với một sự điên cuồng tới mức như ông Honoré miêu tả?
Tôi nói về Martha mà không hề giới thiệu kỹ về cô ta, nhưng cô ta là loại phụ nữ nào thì cũng rất dễ hình dung thôi.
Song giờ đã đến lúc tôi phải dừng lại rồi. Gần đây tôi thường ngồi viết say sưa quên thời gian, thậm chí đêm đêm tôi quên cả bữa ăn đêm mà bà phục vụ chuẩn bị cho tôi. Có hôm, giữa đêm bà cũng phải gọi tôi xuống ăn vì sợ tôi kiệt sức. Bà rất hài lòng khi thấy tôi đã ăn một cách rất ngon lành thực ra đó là nhờ đầu óc tôi tưởng tượng ra Gildas Honoré, Martha và Flora xung quanh, đó là những người duy nhất còn lại trong cuộc đời tôi. Tôi uống rượu trong im lặng nhưng vui vẻ với Honoré, với những người bạn đã đi xa, với những kẻ thù giấu mặt, với tình yêu tuyệt vời, điên cuồng và đã vĩnh viễn ra đi của tôi.
Mọi người đều đeo mặt nạ, tất cả chúng tôi đều lo làm sao để không bị lộ tung tích. Vì vậy tất cả mọi người cả đàn ông và phụ nữ đều mặc những bộ trang phục đẹp nhất, mới nhất của mình. Theo đề nghị của chủ nhân thì tất cả mọi người phải tháo mặt nạ muộn nhất là vào lúc hai giờ sáng nhưng không được trước mười hai giờ đêm.
Thật tội nghiệp cho ông d’Orty. Sự lịch thiệp của ông ta không giấu nổi nỗi thất vong. Tôi nhận ngay ra ông ta qua giọng nói lạo xạo, nhưng tôi cố tình làm như không nhận ra. Tôi cũng nhận ngay ra Flora từ xa trong chiếc áo buổi tối màu thiên thanh. Và chính ánh mắt xanh biếc như màu trời thu của cô đã tự làm cô bị lộ, ánh mắt thể hiện sự hào hứng trước một buổi tối hứa hẹn đầy thú vị. Dĩ nhiên tôi phải đón cô với sự lịch lãm như đối với tất cả những phụ nữ khác bằng một từ chung chung “quý bà”, điều đó khiến cô buồn cười, ban đầu thì cô cười khẽ nhưng càng về sau đến khi tôi cũng cười thì chúng tôi cười thoải mái tới mức chảy cả nước mắt như trẻ con và chúng tôi buộc phải hé mặt nạ để lau nước mắt.
“Chắc cách hóa trang của em khủng khiếp lắm à?” - Cô chớp mắt hỏi tôi - “Nhưng lạy Chúa tôi, Lomont, anh học ở đâu cái kiểu nói năng ấy vậy, một điều quý bà, hai điều quý cô, với cái âm sắc như vậy, nghe nó hài hước quá thôi. Đúng là anh đã nhận ngay ra em, phải không nào?”
Tôi không hiểu mình làm thế nào mà tìm được đường xuống gác. Qua một cái gương, tôi như không nhận ra khuôn mặt mình nữa, nó tái nhợt và nom thật khủng khiếp, khiến tôi hoảng hốt, lo lắng với ý nghĩ phải đi xuống gác. Bỗng một người đâm bổ vào tôi, và khi người đó quay lại xin lỗi tôi nhận ra anh ta đeo mặt nạ. Thế là tôi nảy ra ý nghĩ có thể dùng mặt nạ để vượt qua khó khăn của mình. Nửa giờ trước khi lên gác tôi đã nhét mặt nạ của mình vào túi, nhưng chắc tôi đã làm rơi trong khi xúc động ở hành lang tối. Tôi phải đứng đó tới năm phút cho tới khi một người phục vụ nhận ra vết sưng tấy và thâm tím trên trán tôi. Anh ta dùng đá và khăn lạnh chườm vào chỗ đau của tôi. Tôi chui vào bếp ngồi đợi anh ta đi lấy cho tôi một chiếc mặt nạ. Tại đây những người phục vụ tấp nập đi lại, hoạt động nhịp nhàng như một guồng máy và sự hiện diện của tôi không làm họ bận tâm chút nào, như thể họ không trông thấy tôi. Tôi có cảm giác rằng mình phải đợi khá lâu, rồi anh ta cũng xuất hiện với một chiếc mặt nạ mới cùng một loại băng quấn gì đó để băng vết thương trên trán tôi. Tôi cho anh ta mấy đồng lẻ. Anh ta như một y tá lạ lùng, khuyên tôi nên dùng một chút rượu vang thì sẽ tốt hơn cho vết thương. Giờ tôi có thể nhập hội trở lại đám đông dưới kia, đi tìm Flora và nói rằng không tìm thấy tình nhân của cô.
Nhưng khi xuống thì tôi thấy anh ta đang đứng cạnh cô, nói cười một cách đằm thắm, nồng nàn. Cô đáp lại anh ta với tất cả sự dịu dàng. Trông anh ta hạnh phúc, đắm đuối đến nỗi hầu như tất cả các cặp khác đều phải ngoái nhìn. Hạnh phúc của họ là thứ mà mọi người đều phải ước ao. Gildas hoàn toàn mãn nguyện về tinh thần cũng như thể xác và anh ta cũng muốn mang lại hạnh phúc cho người tình, cho người đàn bà mà anh ta thật sự yêu thương, để rồi anh ta lại được yêu thương nhiều hơn. Gildas quá đẹp trai, trẻ trung. Tôi hiểu với những người theo chủ nghĩa khoái lạc thì nhu cầu về thể xác và tinh thần đều mạnh mẽ, sự mất cân bằng là điều không thể dung hòa được. Như thể với đàn ông thì đam mê thể xác là điều hoàn toàn tự nhiên, như những lỗ chân lông trên da, cho dù người ta kiệt sức mệt mỏi vì đam mê. Có một chân lý là chỉ khi hạnh phúc được chia sẻ - có cho và có nhận - thì đó mới là hạnh phúc trọn vẹn. Và Flora đáp ứng nhu cầu hạnh phúc về mặt tinh thần cho anh ta, trong khi cô hầu gái thì đáp ứng nửa kia.
Là người hiểu rõ những điều ấy, tôi thừa nhận rằng tôi đố kỵ với anh ta, nhưng vì cái gì? Không phải vì những gì anh ta đã có, đang có và sẽ có với Flora mà là vì những phút giây hạnh phúc mà anh ta vừa có. Giờ đây trái tim tôi đau đớn hơn gấp bội cho dù tôi có thể dễ dàng hạ gục địch thủ. Vì niềm hạnh phúc đang trói tay chân anh ta vào người cùng đôi của anh ta, vì những gì gọi là tốt đẹp hơn cho cô, tôi nén lại những sự giận dữ đang trào sôi trong máu. Tôi cảm thấy mình đã uống hơi nhiều và nên rút lui. Một lần nữa tôi men theo hành lang tối, và với tư cách là một người bạn chân thành, tôi đi tìm người đàn bà nguy hiểm ấy, Martha, để thực hiện sứ mệnh cao cả của mình.
Tôi thấy cô đang ngồi trong chiếc ghế thấp phía cuối giường, nơi mà đã vang lên những tiếng kêu rên của cô ta lúc trước. Giờ đây trông cô ta trở lại bình thường với áo xống chỉnh tề. Nhìn cô ta như một nữ tu ngồi ở cổng tu viện với chiếc áo đen ôm khít người, nếp váy trùm gần như che kín đôi giày. Hình như cô ta đang khâu hay chuẩn bị khâu một chiếc áo - có lẽ là mới may - màu đen pha vàng của Flora (tôi chưa bao giờ thấy cô mặc trước đây). Tôi đứng giữa cửa, khẽ hắng giọng. Cô ta ngước lên nhìn tôi thoáng ngạc nhiên, rồi khẽ xoay người lại khi tôi bước vào phòng. Tôi hơi say, nhưng thái độ thiếu tôn trọng của cô ta không làm tôi bực mình. Tôi nhận ra ngay nét mặt vừa dễ đoán cảm xúc vừa có vẻ bí ẩn ấy khiến cô ta khác hẳn những người phục vụ khác của Flora. Trông cô ta trắng bệch, nhợt nhạt rồi lại đỏ bừng lên vì tức giận, khuôn miệng mím chặt, ánh mắt đảo lạnh lùng. Tôi quan sát những biểu hiện trên nét mặt cô ta và chẳng khó khăn gì cũng có thể hình dung ra cũng trên khuôn mặt ấy mới chỉ vài phút trước khi đang làm tình, phát ra những tiếng kêu sung sướng thì nó ra sao. Chắc hẳn cô ta phải nhận ra điều gì đó trong mắt tôi, cô ta dừng tay và nhìn thẳng vào mắt tôi, không chút ngại ngùng, sợ hãi hay xấu hổ. Một cách khéo léo, tôi tìm cách làm cho đối thủ của mình phải lúng túng. Tôi biết thường phụ nữ không bao giờ thấy thoải mái khi đứng trước mặt người đàn ông mà mấy phút trước đã phát hiện ra hành vi gian dâm của cô ta. Nhưng việc gì tôi phải dại dột đi hỏi câu hỏi mà tôi đã biết trước câu trả lời ấy. Cuối cùng tôi quyết định đứng đối diện, nhìn thẳng vào người đàn bà bản lĩnh kia.
Giờ đây tôi thích sự vờ vĩnh, màu mè mà trước kia tôi ghét cay ghét đắng. Và tôi bắt đầu hiểu rõ giá trị của những vấn đề hư hư thực thực, những câu hỏi lắt léo, những mưu mô mánh khóe trong văn học hay nhắc đến để đánh lừa cảm giác, gây hứng thú cho người đọc, đưa độc giả vào trạng thái lơ mơ, đầu óc tôi quay cuồng bởi những mưu kế mà tôi định viện đến một cách không có ý thức để khơi dậy niềm hứng thú, sự hài lòng của những tính cách khác thường, nhưng cùng còn khó hơn khi muốn làm hài lòng những độc giả của tôi.
“Tôi có điều muốn nói với cô” Cuối cùng tôi nói, cố gắng sao cho lời nói của mình thật dõng dạc, rõ ràng, kiên quyết, một sự cố gắng giải thoát cho tôi khỏi tình trạng lắm lời bất thường mà trước kia tôi chưa bao giờ trải qua dưới tác động của rượu.
Và tôi bắt đầu một bài diễn văn vừa trang trọng đầy luân lý, đạo đức, cao thượng, vừa đe dọa, giận dữ và bóng gió, dông dài. Tôi nói với cô ta về Flora, về lòng lốt, sự quan tâm mà Flora dành cho cô ta. Tôi nói với Martha rằng thậm chí cả Paris cũng không thể thỏa mãn những sự thèm khát thú tính của cô ta được. Tôi cũng nói bóng gió rằng thậm chí tôi có thể gọi cảnh sát đến hỗ trợ nếu cô ta không ra đi càng xa càng tốt khỏi nơi đây với mười ngàn curon, coi như là mất tích. Tôi cũng không hiểu tại sao tôi có thể tăng con số từ một ngàn lên tới tận mười ngàn, nhưng quả thật là tôi đã nói như vậy, có lẽ là nhờ có cốc tonic anh chàng phục vụ mang cho lúc trước.
Thực ra tôi hơi bị kích động, dài dòng, hoa mỹ và ngớ ngẩn. Tiếng nhạc từ dưới phòng khiêu vũ vọng lên êm ả trong ánh sáng ngược phản chiêu từ chiếc đèn. Tôi ngồi đối diện với người hầu gái, ánh sáng chỉ chiếu sáng rõ khuôn mặt cô ta, còn khuôn mặt tôi khuất trong bóng tối. Cô ta ngồi nghe không thèm ngước nhìn hay phản ứng gì cả. Lúc sau, tôi giận dữ đứng dậy giữa phòng. Cô ta đưa mắt lạnh lùng nhìn tôi từ vai, ngực, đầu gối, tới ngón chân, nhìn đi rồi lại nhìn lại với ánh mắt như một gã lái ngựa xem ngựa.
Tôi không nhận ra ngay thái độ xem xét tỉ mỉ chăm chú đó - một sự chăm chú chỉ có ở một người đàn ông khi anh ta quan tâm để ý tới một người phụ nữ - vì thoạt đầu ánh mắt suy xét của cô ta có vẻ rất ngay thật, không có vẻ gì là dâm đãng cả. Nhưng rồi khi nhận ra thái độ thực sự của cô ta, tôi đứng sững cách cô ta ba thước, cố gắng che giấu sự kém cỏi của mình bằng cách nói thêm vài lời mà cô ta cũng chẳng thèm để ý. Trên môi cô ta nở một nụ cười ma quái khi ánh mắt cô ta dừng lại ở một vị trí nơi háng tôi. Trên khuôn mặt cô ta thể hiện một thái độ khêu gợi khiến tôi phải tự kiểm điểm lại chính mình. Khi phát hiện ra lý do của nụ cười đó, tôi đỏ bừng mặt vì xấu hổ và giận dữ. Cô ta liếc nhìn tôi rồi đặt đồ khâu lên bàn, đứng lên đi về phía tôi, tôi nhìn cô ta tiến tới như nhìn một kẻ đáng sợ kinh khủng và khẽ chạm tay vào chỗ khiến tôi xấu hổ nhưng lại làm cho cô ta thích thú. Tôi nghe giọng cô ta sin sít: “Dĩ nhiên rồi... ngay lập tức phải không...” Rồi cô ta ra khỏi phòng, nhẹ nhàng như một con mèo.
Cô ta bỏ đi để lại tôi bối rối, lúng túng và tôi cảm thấy mình thật nhu nhược. Quỷ tha ma bắt tại sao trước cô ta tôi lại có thể như một đồng nam trước ánh mắt thiếu nữ đầu tiên vậy. Bất chấp bài diễn văn kiêu căng, độc đoán và những lời khuyên quý báu của tôi - quả thực tôi chẳng có tư cách gì để ra lệnh cho cô ta phải làm thế này thế kia, tôi chỉ khuyên cô ta mà thôi - cô ta sẽ không còn tin tưởng tôi như trước kia nữa, nếu cô ta đã từng tin tưởng tôi. Quan điểm đạo đức của tôi đã đổ vỡ không thể cứu vãn nổi vì chính tôi đã tỏ ra dễ dàng bị cô ta kích động, cũng như những người đàn ông khác. Giờ đây tôi đã tin vào sức hấp dẫn của cô ta vì chính tôi cùng không cưỡng lại được ma lực cuốn hút về thể xác của cô ta. Tôi khinh thường tư cách đạo đức của cô ta. Cô ta làm cho tôi ghê sợ, làm cho tôi có cảm giác rằng cơ thể tôi có lỗi, rằng sự ấp áp và dễ chịu thoáng qua ấy bằng những ngón nghề điêu luyện, láu cá, tâm hồn tôi bị phong kín, khiến cho tôi không thể phân biệt nổi Flora và người đàn bà lẳng lơ bẩn thỉu này. Tôi thực sự tan vỡ ảo tưởng về bản thân mình. Suốt cuộc đời tôi luôn cười nhạo một cách ngốc nghếch khi nghe những câu chuyện về những người bị trở thành nô lệ của tri giác. Cơ thể tôi luôn tuân theo sự điều khiển của tôi một cách ngoan ngoãn, chính xác và bây giờ vẫn thế. Từ khi sinh ra trên đời tôi vẫn luôn nhận thức rõ sự tồn tại của nó, ngoài một chút sự thỏa mãn ít ỏi thì cho tới tận ba mươi năm vừa qua nó vẫn không khác gì. Những đòi hỏi này chỉ giới hạn ở những việc như: tôi nên nằm xuống nghỉ ngơi mỗi khi bị sốt, bị căng thẳng, hay sau một đêm không ngủ thì hôm sau tôi không nên uống rượu. Về nhu cầu tình dục thì thi thoảng tôi vẫn phải tới Bordeaux một chuyến, tới một nhà nào đó mà tôi có thể trút bỏ, giải tỏa thân xác cho mình nhờ một cô y tá có đèn lồng đỏ. Chỉ cần hai tiếng đồng hồ là tôi đã tới ngôi nhà đó, bụi bẩn nhưng hạnh phúc, và thật là không ai có đủ can đảm từ chối hơi ấm của một cơ thể khác, hay từ chối không làm dịu đi những nhu cầu bị dồn nén của một cơ thể. Từ trước tới giờ cơ thể tôi vẫn luôn là một người đầy tớ tốt của tôi, nhưng đôi khi nó lại cũng biết phản chủ, và khi đó, để đáp ứng nhu cầu, tôi lại tìm đến một cô gái làng chơi nào đó, chia sẻ cuộc sống cô đơn của mình trong khoảng một giờ đồng hồ. Sau mỗi lần như thế cơ thể tôi lại mệt lử, kiệt sức, chán nản và đòi hỏi nhiều hơn. Như thế những cô gái làng chơi hiểu được điều đó, họ tỏ ra dịu dàng hơn, mời mọc hơn, giống như những phụ nữ khác khi họ được thoải mái dễ chịu, khi họ giúp ta tự tin hơn vào chính bản thân mình. Một cơ thể nằm bên cạnh tôi vì tôi trả tiền cho việc ấy, vì tôi đã mua cơ thể ấy, dù cho cô ta có muốn hay không, là cơ thể duy nhất mà tôi chia sẻ, thổ lộ bản chất thật của tôi và cùng tôi vượt qua nỗi đơn độc, cướp đi sự rụt rè e ngại câu nệ trong cơ thể tôi - một cơ thể sinh vật thuần túy không ham mê một người phụ nữ nào cả ngoài Flora - bắt đầu lên tiếng bồn chồn phản kháng cho dù tôi đã cố chống lại bằng ý thức đạo đức luân lý nghiêm khắc lạnh lùng nhất của mình.
Tôi như vừa qua một cơn mộng, ngạc nhiên rằng mới nửa tiếng trôi qua kể từ khi tôi bắt đầu bài diễn văn của mình mặc dù tôi có cảm giác mình đã ở trong căn phòng này ít nhất ba tiếng đồng hồ. Những gì tôi diễn đạt một cách khéo léo không giúp tôi quên đi cái kết quả không mong đợi và khiến tôi cảm thấy hơi đau đầu. Cô ta thật xảo quyệt, nhưng những lời nói của tôi đã tác động được vào cô ta. Cố tự lừa dối mình và bằng cách ấy cảm thấy bớt xấu hổ, tôi lần theo cầu thang trở xuống những căn phòng bên dưới với ý nghĩ rằng mình đã thành công trong việc thuyết phục cô ta.
Vẫn chưa đến nửa đêm. Xung quanh tôi là những khuôn mặt mang mặt nạ và tôi nhận ra mình đang ở gần Flora cùng Gildas. Họ đứng cạnh nhau giữa một đám đông. Tôi có thể nghe thấy anh ta nói chuyện một cách duyên dáng, lịch lãm còn hơn cả Flora. Tôi rẽ đám đông tiến đến mời Flora một điệu valse. Trên môi cô như đang cố nén một sự đau đớn xót xa. Cô có vẻ miễn cưỡng vì không muốn xa rời Gildas. Từ khi anh ta ở trong phòng cô luôn quấn bên anh ta không rời nửa bước, như thể cô sợ hễ rời ra thì anh ta sẽ biến mất vậy. Song cần phải tạo ra cho họ một khoảng cách nhất định, nói chung là để bảo vệ cô, không cho cô chạm nhẹ quá nhiều lần vào người tình.
Tôi nhận ra rằng những người thực sự yêu nhau, nhất là những người mà vừa mới rời phòng ngủ sau khi thể hiện tình yêu với nhau, nếu họ tỏ ra thân mật với nhau thì tốt hơn hết ta nên lùi lại phía sau một bước, và rút lui như thể những mối liên hệ giữa họ sẽ đốt cháy da thịt họ. Nếu những khát khao mạnh mẽ không thể cưỡng lại được của họ là một bí mật tội lỗi, nhất là trong trường hợp này, thì những con người đang yêu ấy sẽ nhanh chóng trở nên nhợt nhạt, lo lắng, lảng tránh những liên hệ với những người khác, bất chấp chính bản thân mình, phát hiện ra những sự riêng tư, thân mật bị cấm đoán của họ - những sự riêng tư thân mật mà họ đã thực hiện xong trong một buổi chiều đầy đam mê điên cuồng tới kiệt sức, sau đó họ lại mơ hồ, ngờ vực, tự hỏi không hiểu điều gì đã đẩy họ tới tình trạng lộn xộn đó, đồng thời lại mang tới cho họ niềm hạnh phúc dường vậy. Đó là những khoảnh khắc mà những người yêu nhau, đặc biệt là với đàn ông, bỗng nhận thức được tình trạng độc thân của mình và sung sướng hạnh phúc vì trình trạng độc thân đó, và muốn cứ tiếp tục mãi như thế, họ ích kỷ trong sự tự mãn, khiến cho những con người độc thân này tự hào một cách đáng ngờ với tình trạng sống độc lập lạnh lùng của họ. Trong giây lát, với một giọng nói lướt qua, họ nhớ lại tất cả những gì ngọt ngào, tất cả những sự buông thả tuyệt vời, tất cả những nỗi đam mê trong buổi chiều yêu đương điên cuồng, trong vài giờ ngắn ngủi đó.
Tôi sẽ kết thúc tất cả những lời thuyết lý đạo đức tẻ ngắt dài lê thê này. Thú thực là tôi mừng vì mình đã dừng lại, không hề hối tiếc vì đã từ chối không thể hiện hết những suy nghĩ bộc phát của mình cho những thế hệ sau. Bây giờ hãy quay trở lại với sàn khiêu vũ của ông d’Orty, nơi tôi đang nhảy cùng Flora.
Chúng tôi lại nhảy một lần nữa, nhưng lần này tôi không có ý định dìu cô đi theo nhạc mà đưa cô vào chặt trong vòng tay của tôi. Tự nhiên, Flora cảm thấy buồn. Toàn thân dưới cô cong về phía sau như đẩy tôi ra xa, mặt quay về bên phải, bên trái đúng theo tư thế của điệu valse, lưng cô vươn thẳng lên không chút buông thả mà hoàn toàn ý thức. Không giống như bản năng bình thường của con người, cô không hề sợ hãi khi mơ hồ cảm thấy những mối nguy hiểm khủng khiếp đến gần, mà cô dũng cảm chờ đón tất cả những may rủi của số phận. Cô không thích cúi đầu phục tùng mà vươn thẳng vai, ngẩng cao cổ lên. Đầu cô quay trái rồi quay phải theo điệu nhạc trông giống như một lời phủ nhận, từ chối tương lai một cách dứt khoát, mặc dù cô không biết lời từ chối đó là gì.
Mặt cô nhợt nhạt, mắt hơi khép hờ, khóe miệng núm chặt. Nét xanh xao của đôi má, xanh xao đến nỗi trắng bệch, không hợp với màu xanh xám của đôi mắt... Tôi bỗng thấy ghét cái vẻ đẹp này của cô, nó chẳng mang lại điều gì có lợi cho cô. Chúng tôi cùng nhảy, thì thầm và cười. Mỗi khi quay đầu theo điệu nhạc, mái tóc vàng óng như tơ của cô lại bay bay nhẹ nhàng như muốn chen vào giữa cô và cuộc đời, như muốn cố che chở cho cô khỏi số phận trớ trêu.
Và rồi tôi bị tràn ngập bởi sức mạnh của một thứ tình cảm lớn nhất mà tôi đã từng biết, một trải nghiệm về sức mạnh mà con người chỉ tìm thấy trong sự hòa hợp. Chúa mà tôi đã không tin, sự thông minh của tôi, cơ thể và trái tim của tôi, lương tâm đạo đức của tôi, lòng tự hào của tôi, sự dũng cảm và cả cá tính đa cảm của tôi, tất cả thầm mách rằng cô sẽ không bao giờ quay trở lại với tôi, rằng không bao giờ tôi lại cảm thấy rộn ràng với sự xúc động lớn này, sự hài hòa một cách hoàn hảo, sức mạnh lạ kỳ này. Hôm đó, trong số mấy trăm người xung quanh có ai được hưởng đặc quyền nhảy với cô như tôi không? Tôi là một trong số ít ỏi những người có diễm phúc ấy để rồi bị dìm tới chết đuối trong chính đó. Trước đây tôi đã cho rằng tình cảm chỉ là những sự bắt chước, lâm ly hời hợt đối với bản thân tôi cũng như đối với mọi người. Bỗng nhiên tôi cảm thấy yêu Flora như chưa bao giờ yêu một người nào, tôi muốn cô ấy yêu tôi say đắm, muốn có cô ấy như là tôi đã từng mong ước từng giây phút trong suốt gần hai năm qua. Nhưng tôi cũng muốn Flora hạnh phúc với Gillas hay với bất cứ người đàn ông xứng đáng nào.
Khuôn mặt của cô là khuôn mặt của một phụ nữ ba mươi tuổi cởi mở, hiền lành và dễ xúc động với trái tim dũng cảm, vui vẻ, nhân hậu bất chấp quá khứ nghiệt ngã. Cô là một phụ nữ nhiệt tình, yêu thơ ca, mắt cô ấy đôi khi rất buồn khi nhìn thấy tôi đau khổ vì cô. Cô ấy cư xử thân ái và khéo léo không chê vào đâu được. Cô cứng rắn trong tình cảm của mình nhưng rộng lượng với người khác. Từ đứa trẻ cô đã trở thành người phụ nữ trưởng thành, đã viết nên những bài thơ huyền bí, trữ tình nhưng yếu đuối vì nỗi buồn tột độ và sự suy nhược tinh thần. Cô khát khao hạnh phúc, cần hạnh phúc, cô ấy muốn yêu nhiều như đã được yêu, muốn hiến dâng tình yêu cùng như muốn nhận nó. Cô đã đặt cược tất cả mọi thứ, nỗi sợ hãi của cô ấy, quá khứ hiện tại, tương lai của cô ấy, danh dự của cô ấy, toàn bộ cuộc đời của cô ấy cho một thi sĩ đồng quê trẻ hơn cô ấy, một người đàn ông chưa trưởng thành. Cô đã yêu anh ta trong im lặng và rồi giữ danh dự cho anh ta bằng cách vẫn im lặng kể cả sau khi cô đã biết được tình yêu của mình bị phụ bạc. Và khi nhìn ra người phụ nữ có trái tim yếu ớt này, người phụ nữ mà không nghi ngờ gì nữa, sẽ phải chịu đựng đau đớn khủng khiếp, tôi từ từ ôm cô vào ngực, lau khô nước mắt, kéo người cô vào vai tôi, dỗ dành cho cô nín, tìm cách an ủi cô với tất cả sự chân thành. Tóm lại, tôi đã dâng cho cô cuộc đời của tôi, dòng máu của tôi, và tất cả những giờ phút trong cuộc đời của tôi. Tôi đã tặng cho cô món quà là chính bản thân tôi vào chính lúc tôi từ bỏ niềm khát vọng muốn có cô trong cuộc đời.
Tôi nhìn Flora qua chiếc mặt nạ phát lân quang mà vẫn có thể hiểu thấu mọi vấn đề vì bình thường mắt tôi nhìn rất giỏi. Tôi cũng không thể giải thích nổi cái gì khiến cổ tôi nghẹn ứ, khiến gối tôi như quỵ xuống, khiến tôi trượt chân, lỡ mất một nhịp, hai nhịp, va vào những người xung quanh, khiến mắt tôi như mờ dần, khiến mọi vật xung quanh cứ nhoè nhoẹt không rõ sắc màu. Chính Flora làm cho tôi hiểu nguyên nhân của hiện tượng này khi bước đi lảo đảo như người say của tôi làm tan đi sự mơ mộng của cô. Cô ấy trợn tròn mắt và đứng đờ ra giữa giữa phòng trong khi điệu valse vẫn đang tiếp diễn, khẩn nài hỏi tôi với giọng ngắt quãng vì sốc: “Nicholas, anh sao vậy? Anh đang khóc ư?” Tôi đã hiểu nguyên nhân của sự mù màu kia. Tôi đã bị bất tỉnh. Khẽ chạm tay vào má, tôi nhận ra mặt mình đầm đìa nước mắt. Tôi đứng đó, một người đàn ông ba mươi tuổi khỏe mạnh, cao lớn đứng như chôn chân tại chỗ với những dòng nước mắt nóng hổi hiếm hoi trong cuộc đời, mà tới lúc đó tôi vẫn không nhận thức được rằng đó là tôi khóc cho tương lai của mình, tương lai của những người bạn vẫn đang vui vẻ khiêu vũ xung quanh.
Flora cầm tay tôi dẫn đi như dẫn một đứa trẻ qua những người vẫn đang đi nhịp nhàng theo điệu nhạc mà không hề làm ảnh hưởng đến ai. Chợt một gã nhỏ bé có bộ tóc đỏ đá vào tôi mà không thèm xin lỗi. Nếu mặt tôi không đầm đìa nước mắt và nếu không vì sĩ diện thì tôi đã túm lấy cổ áo hắn, dạy cho hắn một bài học khiến hắn phải ăn năn hối hận. Flora để tôi ngồi xuống trên một chiếc ghế dài bên ngoài, lau khô nước mắt tôi, khiến tôi tự thấy mình phải nghị lực hơn, cứng cỏi hơn. Nhưng tôi vẫn thể hiện một cách không tiếc nuối những giọt nước mắt đang chảy ra sau mí, giống như lần cuối cùng tôi phải khóc hồi bé, cách đây hai mươi năm. Không cần phải che giấu như phong cách lạnh lùng vô cảm ngày thường của giới thượng lưu, tôi mặc chúng tuôn ra hối hả như thể một sự giải tỏa. Vì Flora tôi buộc phải cười, song đó vẫn là một nụ cười bối rối, méo mó, đau khổ.
“Có chuyện gì vậy?” - Flora hỏi - “Anh bị làm sao, Nicholas? Em là bạn của anh và em không thể chịu nổi khi thấy anh buồn”.
“Đó là bệnh đau đầu thôi mà” - Tôi nói dối như đã định - “Anh xin lỗi. Thật là phiền phức, rắc rối”.
Nhưng cô ngắt lời tôi bằng giong nói đầy uy lực: “Bệnh đau đầu ư? Xin anh đừng nói dối em. Nếu muốn anh không cần nói cho em biết lý do cũng được, nhưng cũng không cần phải xin lỗi em. Bệnh đau đầu... Bệnh đau đầu...” - Cô liên tục rướn đôi mắt thiên thần, nhại lại một cách giận dỗi, gay gắt - “Nicholas Lomont nói với em về bệnh đau đầu mà vì nó anh khóc không nguôi! Nicholas, hãy nghe em. Anh và Gidas là hai người em yêu nhất trên thế giới này. Nếu anh không thể nói với em về nguyên nhân của những giọt nước mắt kia, ít nhất anh nên biết rằng các anh đã làm em rất đau buồn. Và đây là tất cả những điều em muốn nói với anh: anh là tất cả những gì tốt đẹp nhất và em luôn luôn trân trọng, yêu quý anh”.
Bất ngờ cô đứng lên, vươn tấm thân mảnh mai về phía tôi và hôn tôi một cách dịu dàng lên mi mắt, lên má, lên trán, lên mũi của tôi, và lướt môi của cô lên môi tôi, thì thầm: “Trông mặt anh khiếp lắm, ngài Lomont ạ. Anh làm em thấy khát quá. Em sẽ đi tìm cái gì đó cho anh uống. Đừng khóc nữa, em không thể nhìn thấy anh như thế này thêm một chút nào nữa đâu. Ít nhất anh hãy đứng dậy và lau khô nước mắt đi”.
Khi để cô đi, tôi đã có thể cười trong niềm hạnh phúc, tình yêu và sự xúc động. Tôi đang cười về số phận tốt đẹp, vì người phụ nữ này đã yêu tôi chút ít, và cô ấy đã đối xử với tôi như một đứa trẻ, cô ấy gọi Nicholas, Nicholas... như thể tôi vẫn còn là một đứa trẻ. Cô ấy biết tôi thích được gọi như thế hơn là được gọi như một Nicholas - luật sư.
Cô quay trở lại với một cốc Bouzy trên tay mà tôi uống cạn bằng chỉ một hơi, đúng như một người đàn ông. Tôi lại trở lại là chính Nicholas như mọi khi, điểm tĩnh hơn, mạnh mẽ hơn, mặc dù đôi mắt vẫn còn đỏ hoe, cái mũi xưng phồng lên một cách kỳ cục. Flora mang theo một chiếc mặt nạ và nhẹ nhàng đeo vào mặt tôi. Đây là chiếc thứ ba của tôi trong buổi tối này.
Chiếc thứ nhất thì tôi đã làm rơi trong hành lang, chiếc thứ hai là ở phòng khách lớn. Và tôi hy vọng chiếc thứ ba này là cái cuối cùng tôi cần, rằng tôi sẽ không cần đến nửa tá để thoát khỏi những tình cảnh này. Đã là một giờ. Lúc tôi có mặt tại nhà ông d’Orty là mười giờ. Tôi đã nhảy tới mười bài valse, đã đi lang thang dọc theo các hành lang hai lần, đã khóc vì yêu một người phụ nữ, đã làm một bài diễn văn về đạo đức của cô ấy; tôi đã ngập chìm trong tình yêu thương âu yếm và những giọt nước mắt, tất cả điều này đã diễn ra với chỉ ba tiếng, ba cái mặt nạ, ba người có tên Lomonts. Tôi muốn thay đổi những tình cảm điên cuồng của mình bằng một giấc ngủ bình yên, muốn thay chiếc mặt nạ thứ ba này bằng một chiếc mũ ngủ cotton êm ái. Tôi muốn hành động theo cách của tôi nhưng đã quá muộn, đó là định mệnh, số phận đã của tôi. Tôi kinh hoàng nhận thấy trước mắt mình một kết cục kinh khủng của câu chuyện tình. Chắc hẳn Gildas cũng nhận ra được phần nào những điều ấy vì thậm chí ngay cả khi anh ta cười tôi cũng vẫn thấy anh ta đang hoảng hốt nói huyên thuyên nhảm nhí, lo lắng về tội lỗi của anh ta, về việc tôi có thể tố giác anh ta.
Flora đi về phía Gildas, trong khi tôi tiếp tục ngắm nhìn bộ mặt đẹp trai rám nắng của anh ta, dằn vặt bởi cơn thịnh nộ không thể hiểu được khiến cho tôi vội vàng bước về phía anh ta với nét mặt giận dữ. Bỗng gã đàn ông tóc đỏ lúc trước đâm bổ vào tôi, tên của anh ta là Choiseux. Anh ta là một Hầu tước và cũng là Công tước của Chantasse, người đàn ông kiêu ngạo nhất ở Saintange, càng ám ảnh về địa vị của anh ta bao nhiêu thì anh ta lại càng bị chú ý bấy nhiêu.
“Flora, em đến thật là đúng lúc” - Anh ta nói, quay về phía Flora, bộ mặt cười cợt khoái trá - “Rất đúng lúc cô em họ ạ - không biết em có còn nhớ rằng chúng ta là anh em họ không?”
“Đúng vậy” - Flora nói với giọng đầy ngạc nhiên lo lắng - “Đúng thế, em biết, bác của em và ông của anh... Nhưng có chuyện gì xảy ra vậy? Vì sao anh tái xanh đi thế kia, Gildas?” - Cô quay sang hỏi người tình, không để ý gì đến câu trả lời đầy áp lực của gã anh họ có bộ tóc đỏ mang vẻ ngoài như của một tên thợ săn quen huýt sáo gọi đàn chó, gã đến làm hỏng mất âm hưởng của cả dàn nhạc. Ngay cả Hoàng đế nước Pháp cũng không cho phép bản thân mình có thái độ thô lỗ, khả ố với phụ nữ như vậy.
“Tôi đang nói chuyện với người nông dân này người mà tưởng rằng bản thân anh ta là một chủ đất” - Henry de Choiseux nói - “Anh ta không thuộc những người có vai vế ở đây và nếu tôi là anh ta tôi sẽ rời khỏi đây. Bây giờ tôi đến để nói với em rằng tôi biết em giao du với một thi sĩ, nhưng tôi không nghĩ được rằng gã thi sĩ này đã chăm sóc những con thỏ hay thu hoạch hoa mầu và nuôi lợn trên đất của em. Thật kỳ quặc nếu anh ta đã chinh phục được trái tim một phụ nữ cao quý là em, mà giữa anh và em lại có quan hệ huyết thống”.
“Choiseux, anh điên rồi” - ông d’Orty chạy tới, lên tiếng với tư cách là chủ nhân của cuộc vui -“Choiseux, tôi xin anh hãy dừng ngay những lời nói thô lỗ đó hoặc hãy rời khỏi nơi đây. Gildas là khách của tôi”.
Miệng Choiseux Cling cứng đờ, đắng ngắt và bộ mặt cay cú tức tối, đỏ bừng.
“Anh ta có thể ở lại nhưng là để bưng khay hay quét sàn. Tôi sẽ không để anh ta nhảy trước bất cứ một quý bà nào, những người bố của họ có lẽ đã chết dưới bàn tay của tổ tiên anh ta. Trí nhớ của ông thật là tồi, ông d’Orty thân mến. Có lẽ ông đã mất trí nên mới mời những người lao động vào nhà của ông sau tất cả những gì họ đã làm với tổ tiên của chúng ta”.
Mặt Gildas lúc thì trắng bệch, lúc thì đỏ nhừ rồi lại trắng bệch. Anh ta tiến lên phía trước với một nụ cười khô cứng trên mặt và nói với giọng rõ ràng rành mạch: “Tôi đã là một nông dân, đúng thế, thưa Ngài Vô - Tích - Sự. Tôi đã lao động trên những cánh đồng của các ngài. Và tôi rất hân hạnh được nói chuyện với ngài bằng súng, gươm hoặc bất cứ thứ gì tùy ý”.
“Tôi chỉ đấu gươm với những người đàn ông thuộc về tầng lớp mình” - Choiseux lằc đầu. Nhưng Gildas đã giáng tho anh ta một quả đấm nặng kí khiến anh ta lảo đảo lùi lại.
Anh trai của anh ta - thường được gọi là Choiseux nhỏ - lao vào Gildas. Trong một lúc như thể có ba tên côn đồ đang gây lộn ầm ĩ trước mặt các quý bà, rồi con số đó tăng lên thành bốn khi tôi nhảy tới, đá mạnh vào anh trai của Choiseux. Một phụ nữ kêu lên the thé rồi ngất xỉu, hay vờ làm như vậy. Không cần nhìn tôi cũng biết đó là Artemise. Song chính điều này đã buộc tất cả phải dừng ngay lại cuộc ẩu đả.
Ông d’Orty với vai trò người đứng giữa, chạy qua chạy lại giữa bốn kẻ chúng tôi, từ tôi đến Norbert de Choiseux, từ Gildas đến Hầu tước Henry, và chỉ trong năm phút sau mọi vấn đề về cuộc thách đấu đã được thu xếp xong. Thòi gian là rạng sáng hôm sau với gươm giáo và súng lục. Thực ra lúc đó tôi rất lo sợ. Tôi chẳng bao giờ động tới gươm dao trừ khi đánh những con chuột chui vào tủ, còn hiểu biết của tôi về súng ống thì không hơn gì một đứa trẻ. Tiếng violin lại bắt đầu ngân lên, mọi người đưa nhau ra sàn, xôn xao cười nói. Tôi nghĩ, thế là một buổi tôi đã trôi qua và tôi chỉ còn mỗi việc đợi đến khi rạng sáng để xem cái kết cục của cuộc đời mình.
Quả thực buổi vũ hội này của ông d’Orty là một sự kiện có tiếng vang nhất lúc đó. Ngay cả ở Paris người ta cũng phải nhắc tới trong một thời gian rất lâu. Lúc này là một rưỡi. Trong trạng thái phấn khích tôi nhảy với Artemise, cũng đang trong cảm xúc cao độ, cứ bám chặt lấy tôi. Nếu là mười năm trước thì bà ta đã chinh phục được tôi, nhưng giờ đây còn lại trong tôi chỉ là sự lạnh lẽo.
Trước kia Henry de Choiseux giành toàn bộ thời gian sống ở Paris và Cognac. Khi quay lại thị trấn này anh ta mang theo toàn bộ tài sản của mình. Giờ đây anh ta có bổn phận phải thực hiện những gì đã quyết định trong sáng hôm sau như một hiệp sĩ anh hùng của buổi dạ hội, hay như một quán quân trong tầng lớp quý tộc. Trong suốt thời gian còn lại, Henry de Choiseux cố giữ vẻ khôi hài và thư thái vô tư. Tiếng cười và giọng nói oang oang khó chịu của anh ta vang tới mọi góc trong phòng khiêu vũ của ông d’Orty; căn phòng quá rộng và ồn ào đến nỗi khi tôi ấn chuông báo động họ không nghe thấy gì. Thật đúng, tôi đã lo lắng một cách kỳ lạ khi không còn lâu nữa tôi sẽ trở thành một sinh vật hiền lành nhưng ngu ngốc, mà là nạn nhân của sự ngu dốt. Chỉ là một luật sư nghèo, tôi không phải là dòng dõi trâm anh thế phiệt để có thể ngăn chặn sự đổ máu, để có thể thoát khỏi cái chết.
Rồi tôi để ý thấy Choiseux bước ra sàn với một người phụ nữ mà tôi không nhận ra là ai. Vẫn còn khoảng hai mươi người chưa bỏ mặt nạ ra trong số đó có người bạn nhảy của Choiseux. Cô ta mặc chiếc áo dài đen ánh vàng, nhảy rất đẹp. Gildas và Flora đang đứng ở xa, nói chuyện nhỏ nhưng rất sôi nổi với nhau. Flora đã mất hết thần sắc, thậm chí đôi môi cô như không còn giọt máu, nhìn Gildas, lau mặt cho anh ta, phủi sạch bụi trên quần áo và đôi bàn tay với vẻ như thể cô sắp mất anh ta trong buổi thách đấu ngày mai. Nhưng tôi biết sau hai năm ở Paris, Gidas đã trở thành một nhà kiếm thuật rất giỏi và là một tay súng cừ khôi, vì thế chỉ có tôi là đáng phải lo lắng. Tuy nhiên, không có Flora bên cạnh hay một ai khác để chia sẻ, tôi chỉ biết lo lắng một mình mà thôi.
Henry de Choiseux dường như rất hài lòng với người bạn nhảy của anh ta. Anh ta không chỉ đi một điệu, mà cả điệu Pônca tiếp theo anh ấy cũng đi đến hết. Nhưng đâu phải mình anh ta, vì khi điệu Pônca dừng lại, tôi thấy tới ba người đàn ông cùng tiến về phía cô ta một lúc, chạm trán nhau và không ngừng xin lỗi. Một trong họ là ông d’Orty. Với cương vị chủ nhân, ông ta bỏ mặt nạ ra để lộ khuôn mặt hồng hào giờ trở nên tái xanh và nghiêm trong. Cuối cùng thì người thứ hai dành được hân hạnh nhảy tiếp với người phụ nữ bí hiểm này la ông Thị trưởng Honoré. Và người đàn ông thứ ba vừa lao tới bên cô ta cùng một lúc với ông d’Orty chẳng phải ai khác mà chính là Gildas. Người phụ nữ trông lộng lẫy với mái tóc đen huyền đẹp hơn bất kỳ món nữ trang đắt tiền nào, bộ váy thì sang trọng rực rỡ, khóe miệng đầy đặn trễ nải lộ ra phía dưới chiếc mặt nạ. Người ta có thể hình dung ra dưới lớp vải sa-tanh mịn màng một cơ thể đầy đặn nhưng thon thả với vòng eo gợi cảm. Từ phía sau mặt nạ có thể nhìn thấy ánh sáng long lanh của đôi mắt cũng như nghe thấy tiếng cười sâu kỳ lạ trong họng. Tất cả điều này có thể khiến một người đàn ông bình thương bị mê hoặc nhưng tôi thì chỉ thấy sợ mà thôi. Trong một thoáng nhìn về phía tôi, tôi nhận ra đó chẳng phải ai khác ngoài Martha. Đó chính là cô ta, người mà ông d’Orty đã giới thiệu với tôi là “Công tước xứ Mougier”. Dù không muốn song tôi phải đến gần để quan sát cô ta kỹ càng hơn, giống như khi người ta chui vào chuồng cọp để tiếp cận với con hổ trong cũi của nó.
Tôi đã hân hạnh được Martha - “Công tước xứ Mougier”, người giúp việc của Flora, người tình của Gildas - dành cho điệu vũ tiếp theo. Cô ta đặt đôi bàn tay đeo găng lên cánh tay tôi với sự yêu kiều và say đắm làm mê hoặc lòng người cũng như cô ấy đã làm với những người đàn ông si tình khác. Tôi thấy Henry de Choiseux như muốn nhảy vào, sẵn sàng làm bất cứ điều gì. Song như thể nhận ra rằng điều tồi tệ nhất anh ta đòi hỏi ở tôi chính là cuộc thách đấu sáng mai, anh ta không cần phải có thêm hành động gì hơn. Còn ba người đàn ông kia thì cuốu cùng cũng dẹp đường, nhường chỗ cho chúng tôi tiến ra sàn nhảy, song những bước chân của họ vẫn thể hiện một sự bực dọc, hậm hực khiến cho mọi người xung quanh phải để ý.
Tôi nhảy với Martha. Thoạt đầu chúng tôi không nói một lời, bối rối và sửng sốt, choáng ngợp nhưng vẫn tỉnh táo, mặc dù bản thân sự gần gũi của thân thể cô ấy dường như thật mượt mà, mềm mại và đầy sức sống, hơn tất cả những người phụ nữ khác.
“Tốt” - Cô ta hỏi một cách nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn - “Tốt cả chứ?”
“Cô thật là bí hiểm” - Tôi trả lời và cô ta phá lên cười.
Đó là điệu cười rực rỡ nhất, ngây thớ nhất và lan tỏa nhất mà tôi đã từng nghe trong cuộc đời của tôi. Đó là nụ cười chứa đựng tất cả các nụ cười, khiến tôi không thể cưỡng nổi sự cám dỗ, nụ cười đưa chúng tôi lao vào căn phòng tôi với sự vui sướng tột cùng, ngã xuống chiếc ghế băng. Tới tận hôm nay tôi cũng vẫn không hiểu được lúc đó điều gì đã chiếm hữu tôi, không hiểu tôi đã cười vào cuộc đời hay chính chúng tôi, không hiểu đó là nụ cười của sự thất vọng hay của một cậu học trò, liệu đó là xấu xa hay sự hồi hộp, mà trong đó tôi thổn thức thốt ra những lời ấy - “Cô thật là bí hiểm” - thật là tức cười.
Đến hai giờ tất cả chúng tôi đều tháo bỏ mặt nạ. Tôi khoái trá khi nghĩ tới bộ mặt thâm tím và sưng phồng lên khủng khiếp vì những giọt nước mắt lẫn lộn buồn vui của mình. Dĩ nhiên trước đó Martha cũng phải gỡ mặt nạ. Trong một thoáng, tôi tưởng tượng nét mặt của Choiseux sẽ ra sao nếu anh ta nhận ra mình đã và đang quyến rũ một cô hầu phòng. Nhưng một lần nữa tôi lại phá lên cười. Tôi giải thích với Martha điều gì đã khiến tôi vui vẻ không thể kiềm chế được và cô ta cũng cảm thấy rất buồn cười. Flora đi ngang qua và mỉm cười khi thấy tôi. Gidlas, vẫn khoác tay Flora, quay về phía chúng tôi với bộ mặt của một người đàn ông bị kết tội, một bộ mặt giận dữ tới tím tái, đầy nghi ngờ, lừa gạt, dối trá và kiệt sức. Nụ cười đúng lúc của tôi tắt ngấm vì ý nghĩ về cái điều đang chờ đợi tôi vào lúc rạng sáng ngày mai. Martha muốn biết lý do của tình trạng suy sụp đột ngột của tôi. Tôi chợt hiểu cô ta tham dự buổi vũ hội này mà không biết gì nhiều tới những vị khách khác - với một động cơ tốt - vị nữ công tước giả cũng không hề hay biết chút nào về những gì đã diễn ra.
“Tóm lại là tôi đang tự sát” - Tôi lầm bầm kết luận sau khi kể cho cô ta một cách chi tiết tất cả câu chuyện đau xót của mình - “Tôi có thể biết cách làm thế nào để sử dụng hiệu quả một cái bút hay thuần phục một con ngựa nhưng với một thanh kiếm thì tôi không thể tự giúp gì cho bản thân mình. Có lần, trong khi ngắm bắn một con lợn đực tôi lại bắn phải một con chim két...”
Tôi thấy mình thật lạ lùng khi kết bạn với một cô hầu. Bỗng tôi thấy cô ta thật vô liêm sỉ khi giả danh một công tước, lạm dụng sự giàu có và quyền lực của những người xung quanh trong buổi dạ hội này. Thú thực tôi lấy làm lạ, không hiểu tại sao cùng lúc cô ta có thể vừa thích một người như ông Thị trưởng lại vừa thích anh chàng thi sĩ đồng quê Gildas kia. Đôi mắt tôi chắc hẳn toát lên những gì tôi đang nghĩ trong đầu, vì sau mặt nạ, đôi mắt màu xám của cô ấy dường như lóe lên sáng hơn khi cô ta đáp lại những ý nghĩ mà tôi không nói ra thành lời.
“Em cùng thích anh, Lomont. Em luôn luôn thích những người đàn ông cao to, khỏe mạnh và ngốc nghếch, nhạy cảm và vụng về - những người bạn của người nghèo. Anh có vẻ tốt bụng hơn những người khác, hay ít ra đỡ kiêu ngạo hơn. Có lẽ là một người bình thường sẽ phù hợp hơn với anh”.
“Điều đó phù hợp với anh, nhưng anh rốt cuộc vẫn sẽ bị giết như thường mà thôi” - Tôi nói một cách nóng nảy.
“Anh sẽ đấu với ai? Norbert phải không? Chắc anh ta sử dụng khí giới rất khá. Anh ta bất lực, mà thường những người như thế rất tàn bạo. Nếu họ không thể có khả năng sinh lý như một người đàn ông bình thường, họ sẽ phát triển trội hơn về một lĩnh vực khác. Chắc hẳn sử dụng vũ khí là thế mạnh của cái gã thô lỗ ấy”.
“Bất lực ư?” - Tôi không kìm nổi và lập tức cảm thấy xấu hổ vì câu hỏi của mình.
Tôi đứng lên, bỗng nhận ra việc nói chuyện với cô ta, cười đùa với cô ta cũng giống như là một sự đồng lõa với trò lừa dối của cô ta. Cái trò của cô ta sẽ dẫn tới một thảm kịch. Cô ta mỉm cười, nói khi thấy tôi có vẻ muốn bỏ đi: “Norbert sẽ chết trước anh”, như thể hứa hẹn cho tôi một miếng bánh ngọt hay dành cho tôi một sự đối xử đặc biệt sau một ngày Chủ nhật bộn bề.
Tôi quay trở lại phòng khiêu vũ. Quả thực ông d’Orty là một chủ nhà tuyệt vời. Ông ta có một thứ rượu hảo hạng để đãi khách, những món ăn ngon, âm nhạc hay, phụ nữ đẹp và ông ta ghi nhớ tất cả các câu chuyện riêng mà ông ta nghe được của từng nhóm khách. Dường như tất cả đều đang nói về cuộc thách đấu sáng ngày mai. Cánh đàn ông người thì ủng hộ Choiseux, người lại ủng hộ Gildas, còn cánh phụ nữ hầu hết ủng hộ Gildas. Về bản thân tôi, mọi người tỏ ra tiếc thương tôi như thể chắc chắn tôi sẽ phải chết. Tất cả khách hàng của tôi đã xiết chặt tay tôi trong sự thân ái với những đôi mắt ươn ướt, nói rằng tôi thực sự là một luật sư đầy tài năng. Ngoài ra cũng có một số tranh thủ hỏi tôi vài điều về những vấn đề liên quan tới tiền bạc, sự đầu tư, tài sản... Tôi khoái trí nhận ra rằng vắng tôi họ khó có thể xoay sở được. Công tước xứ Doillac không ngần ngại thể hiện sự lo lắng về cánh đồng mà anh ta muốn tôi mua thay mặt anh ta. Tôi đáp lại khá ngắn gọn rằng mặc dù không giúp anh ta hoàn tất việc đó được, song việc mua bán diễn ra vào ngày kia sẽ tốt đẹp. Anh ta lắc đầu bi quan, khiến tôi cuối cùng phải nói thêm rằng nếu anh ta muốn tôi sẽ lên ngựa đi và mua cánh đồng của anh ta ngay bây giờ.
Bên cạnh đó ông d’Orty cư xử với tôi một cách trân trọng. Theo những hiểu biết về khả năng kiếm thuật của tôi, ông tỏ ra lo lắng. Ông ta đi xuống nói chuyện với anh trai của Choiseux và quay trở lại với sự thất vọng. Anh ta là một tay súng cừ khôi nên đã chọn súng. Gildas đưa ra gợi ý rằng có lẽ anh ta nên lần lượt đấu với cả hai người nếu còn sống sót sau khi đấu với người thứ nhất, nhưng cả hai anh em Choiseux đều từ chối lời đề nghị đó. Họ muốn nhìn thấy máu của tôi phải rơi xuống đất - nó không phải là dòng máu trâm anh thế phiệt, nên sẽ chẳng có hề hấn gì khi nó chảy ra. Tôi cũng thất vọng chẳng kém gì d’Orty và buồn nhiều hơn là sợ. Đúng ra, ý nghĩ rằng mình sẽ chết một cách dại dột trong tay một gã không quen biết vì một chuyện không đâu khiến tôi cảm thấy một sự chán ghét mơ hồ; thái độ anh hùng khiến tôi bực tức hơn. Tôi nghe thấy mọi người tán dương, ca ngợi tôi về sự thận trọng, khôn ngoan trong công việc, đồng thời lên án tôi vì đã quá liều lĩnh trong sự việc sắp xảy ra. Artemise thì làm ướt đẫm ngực áo sơ-mi của tôi với những giọt nước mắt khóc cho chuyện yêu đương giữa chúng tôi mà dù sao thì cô ta cũng không bao giờ muốn kết thúc.
Một vài phụ nữ khác ở Charente, dễ xúc động hơn đối với những lời tán tỉnh của tôi, cũng như cảm động vì sự thận trọng của tôi trong khi quan hệ với họ, thì kéo tôi ra một chỗ và khẳng định lại một lần nữa rằng tôi sẽ luôn giữ một vị trí như thế nào trong trái tim họ, rằng tình cảm của họ đối với tôi thật thân thương, trìu mến. Một lần nữa có một bóng ma rời khỏi phòng và lang thang dọc các cầu thang, hành lang. Tôi biết Flora và Gildas đang đợi tôi nhưng hiện giờ tôi thấy mình khó có thể đối mặt với họ. Tôi về thẳng giường, nằm xuống ngủ như thể chưa bao giờ được ngủ và ngay lập tức rơi vào trạng thái vô thức. Những hình dung cuối cùng lướt qua trong mắt tôi là hình ảnh Martha đang nhảy trong sự ngưỡng mộ của những người xung quanh.
Sáng hôm sau tôi tỉnh dậy trong chiếc áo trắng không cài cúc, trong sự ám ảnh về họng súng của Norbert de Choiseux từ phía cuối cánh đồng nhằm vào trái tim tôi. Thoát ra khỏi trạng thái ngái ngủ luôn là một việc khó khăn và chậm chạp đối với tôi. Trước khi tỉnh táo hoàn toàn, tôi phải mất hàng tiếng đồng hồ với việc mặc xong áo, đi đi lại lại giữa phòng ngủ và phòng thay đồ. Sáng hôm đó cũng thế. Ban đầu tôi ở trong một tâm trạng chông chênh, đứng tại đó mà không hiểu lý do tại sao mình lại đứng đấy, cô đơn, không bạn bè. Vào những giây phút cuối tôi bỗng lấy lại được tinh thần. Tôi mở mắt nhìn cánh đồng, bầu trời xanh xanh, bãi cỏ dập dờn sóng theo gió, mặt đất - mặt đất của tôi, bầu trời - bầu trời của tôi và bàn tay này, bàn tay của tôi - đang cầm một vật nặng lạnh lùng và đáng ghét: một khẩu súng lục lắp đầy đạn - nó khiến tôi khiếp sợ. Chúng tôi đang ở lượt đấu súng đầu tiên. Tôi có thể nhìn thấy Gildas đang đứng ở gần, cũng ngắm nhìn mặt đất và cũng mặc một chiếc sơ-mi trắng. Tôi hình dung ra như đã nhìn thấy chỉ một thời gian ngắn lúc trước khuôn mặt hốc hác phờ phạc của Flora, sưng mọng đầy nước mắt trên ngưỡng cửa.
Nhưng bất chợt tôi đã nhận ra tên khốn kiếp kia đang sắp sửa giết mình. Tôi đã cảm thấy những cơ bắp của mình cứng đanh lại trong cơn giận dữ chứ không phải sợ hãi.
“Thưa các ngài, tất cả đã sẵn sàng chưa?”
Một giọng nói cất lên không biết của ai. Anh ta bước đi khệnh khạng, đầu đội một chiếc mũ chóp cao, ở một vị trí an toàn cách chúng tôi vài bước. Thực ra trong khi đang ngắm bắn Choiseux tôi có thể rất dễ dàng đặt một viên đạn vào đầu bất cứ một người đàn ông nào có mặt ở đó. Tôi liếc nhìn người đàn ông đang nóng lòng mong đợi cái chết của tôi, rồi nhìn về phía hàng rào - nơi đánh dấu ranh giới của cánh đồng, có cái gì đó màu đỏ, một chiếc áo choàng màu đỏ xuất hiện trong bụi cây ngay tại nơi Norbert đang đứng. Tôi nghĩ chắc đó là của một người nông dân trẻ đến xem cuộc thách đấu. Đấu thủ của tôi đã giơ tay phải lên, khẩu súng lóe sáng trong ánh bình minh ló dạng.
“Các ngài có thể nổ súng khi nghe đếm tới ba. Một...”
Và Norbert de Choiesux, như đang khát khao muốn kết thúc cuộc đời tôi, khoái trá tin rằng nhất định tôi sẽ gục xuống, nhìn tôi chằm chằm, cánh tay đưa thẳng ra trước mặt hướng về phía cánh tay của tôi cũng đang đưa ra nhắm thẳng về hướng anh ta.
“Hai...”
Tiếng đếm tiếp tục vang lên.
Ngón tay tôi đang đặt trên chốt an toàn nhanh chóng chuyển lên vị trí cò súng. Tôi không thể không cảm thấy kinh hoàng. Tôi nhận ra mình có thể không cần phải suy nghĩ đắn đo khi giết người. Bỗng tôi nghe thấy một tiếng động lạ, giống như tiếng mèo kêu hay tiếng huýt sáo phát ra bên trái tôi, từ phía chiếc áo choàng đỏ, chỉ Norbert và tôi có thể nghe thấy. Một tiếng khóc nghe như van vỉ “Norbert... Norbert...”. Tôi có cảm giác mình đã từng nghe thấy ở đâu đó trước kia. Điều đó tác động đến Choiesux nhiều hơn tôi, khiến cho tất cả cơ bắp trên thân thể của anh ta giãn ra và dường như quên mất tôi, anh ta quay đầu về phía tiếng động nhanh như một con chim. Tôi nhìn thấy một nụ cười ngây ngất, ngạc nhiên và hạnh phúc xuất hiện trên bộ mặt hung ác của anh ta trước khi vang lên tiếng đêm “Ba”. Tôi nhắm mắt bóp cò. Trước khi chết tôi cần làm một việc gì đó hiệu quả có ích. Khi mở mắt, mạch máu trên thái dương tôi đập mạnh, tôi không thể kìm được cảm giác tanh tưởi lạ lùng. Norbert de Choiesux nằm sóng soài trên mặt đất. Bước lại gần, tôi thấy viên đạn xuyên thủng đúng giữa hai con mắt của anh ta, chứng tỏ cuộc đấu súng đã diễn ra hoàn toàn đúng luật. Cái màu đỏ phía sau hàng rào như biến mất, lẫn vào trong cỏ.
Mọi người nhìn tôi vui mừng và thán phục nhưng chính điều đó càng khiến tôi cảm thấy tanh tưởi hơn, tới mức tôi nôn thốc nôn tháo ra gốc cây cả bữa sáng mà tôi đã ăn một tiếng trước trong khi vẫn còn đang trong trạng thái lơ mơ. Martha đã giữ lời hứa của mình.
Choiseux là một gia đình dòng dõi quý tộc, dã man trong phong tục của họ nhưng khắng khít với nhau. Và Henry, người anh cả đã khích lệ ông em trai của mình dấn thân vào cuộc thách đấu này, bị dằn vặt day dứt khi mang xác của em trai anh ta về. Anh ta vật vã bên cái xác và gọi tên em trai khóc thổn thức với thái độ đau đớn, ân hận giày vò. Điều đó làm tôi chảy nước mắt, thậm chí còn định cố gắng an ủi anh ta nếu một người nào đó không nhìn tôi với một ánh mắt phản đối.
Gildas xanh tái. Anh ta nhìn rồi ngạc nhiên và nghi ngờ. Rõ ràng lúc trước anh ta đã chuẩn bị tinh thần để trả thù cho tôi chứ không nghĩ là sẽ nghe thấy những tiếng khóc than xót thương cho đối thủ. Choiesux, sau khi bình tĩnh, rút súng ra, thậm chí không thèm ngắm. Viên đạn trúng tay Gildas nhưng bản thân anh ta cũng trúng đạn vào chân, lử đử quay tròn và ngã xuống đất. Anh ta bò về chỗ xác chết của em trai mà anh ta đã từ chối không cho phép một ai khác mang đi, gọi tên em trai. Tôi đang run rẩy, chúng tôi tất cả đều đang run rẩy. Đó là sự xót thương khi trên cánh đồng cỏ xanh xao này, máu của hai anh em cùng đổ xuống. Người còn sống thì than khóc vì cái chết của người kia mà không để ý gì tới vết thương của mình, nơi xương chòi cả ra ngoài. Thật là một sự lãng phí chua xót đối với một sự sống bị hủy hoại bằng một viên đạn bởi những quan niệm điên rồ, lệch lạc về danh dự và lòng kiêu hãnh.
Lúc đó là tám giờ. Sự việc dã man kỳ cục này xảy ra trong vòng chỉ một tiếng mười lăm phút. Chắc chắn đây là lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi tự hào vì mình không phải là một quý tộc, và vì thế không bắt buộc phải tôn trọng những luật lệ vô ý thức và khát máu của họ.
Một lúc sau tôi cùng với Flora và Gildas về tới phòng nghỉ. Flora trông bơ phờ vì thiếu ngủ và lo lắng, giờ lấy làm mừng vì viên đạn chỉ trúng vào cánh tay chứ không phải đầu Gildas. Cô ôm chầm lấy tôi âu yếm thán phục vì tôi đã thoát chết. Đưa tôi sang một bên, Flora nói với nụ cười xúc động “Lạy chúa tôi! Thế là cả hai vẫn còn sống. Đêm hôm qua thật kinh khủng. Anh đã đi đâu khi chúng em quay trở lại phòng khiêu vũ? Anh ấy...” - Cô chỉ tay về phía Gildas đang nằm duỗi trên giường bệnh - “Anh có thể tưởng tượng được không, trước cuộc đọ súng mà anh ấy còn muốn nhảy tới khuya...” - Cô cười như là một người mẹ cười trước sự khùng điên của con cái - “Em chắc chắn với anh đó là sự thật. Đúng không Gildas?” - Cô nói với người tình đang nhắm mắt và không hề quay đầu lại - “Anh ấy thậm chí còn nhảy với một phụ nữ lạ mặt xinh đẹp, công tước xứ Mougier, người mà từ trước tới nay em chưa hề nghe nhắc tới bao giờ”.
“Không còn nghi ngờ gì, cô ấy là một trong những gái điếm cải trang trà trộn vào buổi dạ hội này” - Doillac lên tiếng. Anh ta lang thang bám theo tôi khắp nơi để tìm cách đề cập với tôi vấn đề về cánh đồng ông ta định mua.
“Chắc chắn là không phải” - Flora phản đối với sự rộng lượng, vị tha át cả bản năng ghen tuông của phụ nữ. - “Chắc chắn không phải. Có thể cô ấy không thận trọng khi giao tiếp, cư xử với cánh đàn ông mà thôi. Em rất muốn gặp lại cô ấy”.
“Cô ấy đã ra đi trước khi rạng sáng, thưa bà” - Một giọng nói vang lên.
Và tôi nhận ra đó là Martha đang giúp bác sĩ băng bó vết thương cho Gildas. Cô ấy mặc một chiếc váy đen như bình thường, bộ tóc của cô ấy được búi nghiêm chỉnh phía sau. Tôi nhìn cô ta chằm chằm với sự vui thích, biết ơn, sợ hãi và tôi không còn biết gì nữa, nhưng cô ta không nhìn lên.
“Người phụ nữ bí hiểm ấy đã ra đi, những người khác cũng đang quay về nhà” Flora cười, nhìn Martha đầy thiện cảm. “Chắc hẳn cuộc khiêu vũ trong làng đã rất sôi động nên mới giữ cô ở lại đó muộn thế, đúng không?” Cô nói nhưng không hề có ý trách mắng. “Nhưng tiện đây” - Cô nói thêm với Martha - “không phải là không có việc gì cho cô nữa đâu. Tôi đã mặc và vẫn đang mặc chiếc váy này từ suốt đêm hôm qua tới giờ rồi. Trước đây tôi rất thích nhưng từ giờ tới khi chết tôi sẽ không mặc nó nữa” - Cô nói thêm, nhìn xuống chiếc váy xanh mà trước đây cô đã rất thích.
Martha vẫn chưa đáp lại điều gì, Flora quay lại phía tôi và liếc nhìn một cách thú vị cô hầu phòng của mình, nhận xét: “Phải nói rằng cô ấy hợp với màu đỏ một cách lạ lùng. Hôm qua em đã cho cô ấy mượn chiếc khăn choàng rộng của Ấn Độ, hình như chính nó đã giúp cô ấy thành công với những chàng trai ở trong làng”.
Cô lặng im vì ông d’Orty đi tới, nhìn có vẻ nghiêm trọng, dường như không hề phấn khởi khi nhận ra tôi và Gildas, những người bạn của ông, vẫn còn sống sót.
“Sắp có một cuộc điều tra chính thức” - Ông ta nói - “Đã có một người chết. Chúng ta sẽ phải giải thích một cách trung thực. Chắc hẳn anh cũng nhận thấy rằng cuộc đấu súng tay đôi có thể được coi là phạm pháp nếu không tìm được người làm chứng. Choiseux có một ông bác ở trong Hội đồng tối cao”.
“Nhưng ông Honoré sẽ phán quyết về những gì sẽ xảy ra” - Tôi phản đối - “Ông ta là Thị trưởng. Không ai có thể chất vấn hay nghi ngờ lời nói của ông ta. Và chính Choiseux la kẻ khiêu khích trước, anh ta không có gì đáng phải khiếu nại cả”.
“Choiseux không phàn nàn về bất cứ điều gì cả” - Ông d’Orty nói - “Ngoài một điều về cái chết của em trai anh ta, có liên quan đến Lomont. Anh ta nói đã nhìn thấy anh nhắm mắt trước khi bóp cò, nhưng anh ta không nắm được bằng cớ gì chống lại anh. Viên đạn của em trai anh ta được tìm thấy trong một thân cây. Anh ta chắc hẳn đã bóp cò trước khi ngã xuống, và anh cũng đã không bắn trước khi tiếng đếm vang lên. Không, Choiseux sẽ không nói bất cứ điều gì chúng ta muốn. Nhưng ông Thị trưởng của chúng ta cũng sẽ không thể nói được điều gì. Sáng nay người ta đã tìm thấy ông ta treo cổ tự vẫn ngoài nhà kho”.
Một sự im lặng nặng nề bao trùm lên tất cả. Flora khóc ngất và ngã xuống trong khi Gildas gượng nhỏm dậy, ông d’Orty thì thuật lại việc người ta tìm ra xác chết của ông Thị trưởng như thế nào. Mọi người nói rằng hôm trước đã thấy ông Honoré ở lại tới khuya, khiêu vũ với một người lạ mặt bí hiểm. Tôi bước ra khỏi phòng, làm hiệu với Martha. Cô ta bước đến bên tôi với vẻ kính trọng giả tạo, đôi mắt xám cười một cách ma quái trong bóng tối hành lang.
“Tốt rồi. Anh hạnh phúc vì còn sống sót chứ, anh bạn thân mến của em?” - Cô ta hạ thấp giọng.
“Đúng thế. Cám ơn cô” - Tôi thừa nhận. “Nhưng hãy thành thật trả lời một câu hỏi của tôi. Tôi đã trông thấy Norber de Choiseux chết với nụ cười hạnh phúc trên môi. Cô đã nói rằng anh ta ‘bất lực’ phải không?”
Tôi lấy làm xấu hổ khi phải đưa ra câu hỏi như thế vào đúng lúc này, nhưng nó ám ảnh tôi ngay từ đầu và tôi không thể không hỏi rõ.
“Ý tôi hỏi là anh ta có bất lực thật hay không” - Tôi hỏi lại, nhìn Martha chăm chú. Trên khuôn mặt cô thể hiện sự hài lòng kèm theo một nụ cười.
“Đúng, anh ta bị ‘bất lực’ từ nhỏ”.
“Vậy tại sao anh ta để ý đến cô?”
“Vì em làm cho anh ta không còn ‘bất lực’ nữa”. - Cô ta đáp một cách tự hào.
Với hàng nghìn lý do mà tôi không muốn kể ra đây, đột nhiên tôi cảm thấy tuổi già và sự âu sầu tràn ngập trong mình. Lễ cưới của Flora và Gildas đã được ấn định. Honoré đã được chôn cất. Artermise cũng nhanh chóng khuây khỏa vì cái chết của Honoré. Hôn lễ của Flora và Gildas được cử hành tại một nhà thờ nhỏ ở Boutleville. Flora theo đạo Tin Lành, còn Gildas, vốn là một nông dân, thì theo thuyết vô thần, là một kẻ ngoại đạo. Tôi được đề nghị làm người làm chứng cho hôn lễ của họ. Lời vị linh mục như còn văng vẳng trong tai tôi:
“Nếu có ai biết được một nguyên nhân hay một trở ngại gì khiến cho người đàn ông này và người phụ nữ kia không thể kết hợp với nhau...”
Không chính xác từng chữ nhưng tôi nhớ Martha đang bước lên từ hàng ghế cuối cùng, cất tiếng: “Tôi biết” bằng một giọng khiến máu trong huyết quản tôi như đông cứng, khiến khuôn mặt Gildas trắng bệch, khiến tất cả mọi người có mặt lúc đó cảm thấy choáng váng. Một sự im lặng kinh hoàng bao trùm khi cô ta bước về phía vị linh mục, đến bên Flora và Gildas, đưa bàn tay rám nắng, thô nhám vì làm việc lên, nói: “Một tháng trước, tại Bordeaux, người đàn ông này đã kết hôn với tôi. Song giờ đây, tôi thích được làm người hầu của ông Doillac hơn. Ông ấy đang đợi tôi bên ngoài”.
Rồi quay về phía Gildas đang cố gắng đỡ Flora, cô nói thêm trước khi bỏ đi: “Bà cũng có thể giữ lại tiền công của tôi, bà Bá tước”. Phong thái chững chạc, thanh thản cũng như vẻ đẹp của cô như khẳng định thêm sự chắc chắn của những lời trên.
Tôi rất muốn kết thúc mọi chuyện, tôi khó mà chịu đựng được việc nhắc lại những kỷ niệm dữ dội như bão mùa thu ấy cũng như sự điên rồ của con người. Tôi chỉ có thể tóm tắt như sau: Flora thì phát điên, còn Gildas đã tự sát, kết thúc cuộc đời mình. Với địa vị xã hội và sự giàu có của mình, Flora không bị đưa vào nhà thương điên. Cô được các tu sĩ ở tu viện Bordeaux chăm sóc. Lần đầu đến thăm cô tại đó, cô không nhận ra tôi và cả tôi cũng không nhận ra cô. Hai năm sau cô qua đời, để lại mọi thứ cho Gildas, người mà cô tưởng vẫn còn sống. Ông d’Orty cũng ra đi trong một thời gian không lâu sau đó vì bệnh viêm màng phổi. Còn Gildas thì trước khi tự sát đã để lại mọi thứ cho vợ của anh ta, Martha. Tôi đã tìm cô ta khắp nơi trong số những người giàu có nổi tiếng. Song dường như trên con đường đi của mình, qua bất kỳ đâu cô ta cũng được thừa hưởng mọi thứ và bỏ lại mọi thứ cô ta được thừa hường. Cô ta gieo tai họa khắp nơi nên cuối cùng cũng chẳng giữ lại được điều gì tốt đẹp cho mình.
Sau bốn năm tìm kiếm, cuối cùng tôi cũng gặp cô ta tại cửa ô Saint Antoine gần Paris vào hôm trước khi diễn ra lễ hội Âm mưu với một vết đạn xuyên qua tim, với một nụ cười hạnh phúc nhất trên môi. Cô ta chết vì một cuộc cách mạng mà tất cả chúng tôi đều kính sợ, một cuộc cách mạng mà có lẽ cô ta là hiện thân của chính mình...

HẾT


Xem Tiếp: ----