Dịch giả: Nguyễn Hoàng Sa
Chương XI
Hắn ta ra khỏi sương mù

     hế là cuối cùng điều bí mật kinh khủng đó đã được phát hiện ra.
Voltaire - Zaire
Gần tối Robenne gọi điện đi vài nơi nói rằng anh đã quá mệt mỏi với cái cuộc sống mà anh phải trải qua mấy ngày cuối này và tất cả những câu đố chưa giải được đã gây cho anh những cơn đau đầu ghê gớm nên anh cần phải nghĩ ngơi cho thư thái.
Thật đúng lúc là ở “Rex” đang chiếu một bộ phim trinh thám. Và anh sẽ đi xem phim. Ít ra ở đó anh sẽ không phải nghĩ ngợi gì cả. Anh sẽ ngồi vào ghế bành và chờ đợi chữ “HẾT PHIM” và cứ để cho ai đó lo việc điều tra trong thời gian đó.
Robenne nói với vẻ thực thà nhất. Khoảng gần bảy giờ tối người ta nhìn thấy anh trong bar của “Paris-Nouvelles” cùng với mấy đồng sự ở các ban khác. Anh ta đang uống rượu khai vị. Dường như vụ giết người ở Mouasac và “Sự im lặng của Harpocrate” trở nên vô vàn xa xăm đối với anh. Anh đã chuyển một bài báo nhỏ cho số báo sáng mai, nó chỉ có hai cột trên trang hai.
- Vụ án này không đáng lưu ý nữa - Anh tuyên bố với Rosie Sauvage - Đã bao nhiêu lần tôi nghĩ rằng mình đã lần ra dấu vết vậy mà chúng ta cứ dậm chân tại chỗ. Chúng ta hãy xem ngày mai sẽ mang lại điều gì.
- Thật đáng tiếc - Rosie Sauvage thốt lên. Cô nhìn chàng phóng viên với ánh mắt thân thiện hơi mỉa mai của cặp mắt nâu xinh đẹp - Ngày mai “Địa cầu” sẽ vượt hơn chúng ta mấy điểm. Họ sẽ đăng bài báo của Vollar “Kẻ giết người không xứng đáng được giải thưởng Goncourt”.
- Tôi biết - Joseph trả lời - Vollar tức tối vì giải thưởng đã lọt vào tay kẻ khác. Chỉ đơn giản là anh ta muốn phục thù.
- Lẽ ra chúng ta phải chơi trên tài họ.
- Biết làm sao bây giờ - Chàng phóng viên trả lời - Bởi chính cô cũng biết quá rõ là Bary và d’Arjean đều tin chắc rằng đó là một tuyệt tác, cô bạn thân mến của tôi ạ.
Trước khi rời tòa báo Joseph đặt vào ngăn kéo bàn làm việc của mình mấy tờ giấy viết bằng nét chữ nhỏ. Khi đi ăn tối anh phì phèo một điếu thuốc trên môi, hai tay đút túi với vẻ khệnh khạng như muốn nói: Tôi đã hoàn thành công việc và đang chuẩn bị nghỉ ngơi một tối êm ả.
Cuối ngày, Bary, Tổng biên tập “Paris-Nouvelles” gọi (tiện cho Morelly thành viên của Hội đồng giám khảo Goncourt, một chuyên gia về văn học cổ điển. Ông bố của Bary kết thân với cha mẹ Morelly. Mối quan hệ tốt đẹp giữa hai gia đình vẫn còn đến giờ. Không thể nói rằng họ cực kỳ gần gũi nhưng thỉnh thoảng Bary cũng đến thăm Morelly hoặc là chuyển lời chào qua những người quen chung.
- Ồ, Bary, xin chào anh! - Morelly thốt lên - Xin chào! Tôi sống thế nào ư? Xin cám ơn, mọi việc ổn cả.
- Tôi đã gọi điện thoại cho ông lúc nãy nhưng không gặp...
- Đúng rồi, tôi không có nhà.
- Tôi rất muốn được biết ý kiến của ông về những chuyện đồn đại. Mong ông thứ lỗi cho sự không khiêm tốn nghề nghiệp của tôi nhưng người ta đồn rằng Hội đồng giám khảo định tuyên bố lần bỏ phiếu đầu tiên không có hiệu lực và bằng một nét bút tước lại vòng nguyệt quế của tay Paul Doubois bí ẩn kia mặc dù người ta đã trao cho hắn. Cần phải đánh giá những tin đồn ấy như thế nào?
Chắc hẳn Morelly đang mỉm cười ở đầu dây kia nhưng cũng rất có thể là đang nhăn mặt bực bội.
- Tôi sẽ không giấu anh, đúng thật là đang bàn cãi về vấn đề gần đúng như vậy. Cái chính là phải nghĩ xem nên làm thế nào để khéo léo vượt qua được tình trạng như vậy trong tương lai đối với giải thưởng Goncourt... Anh hiểu chử?
- Tôi hiểu quá đi, và thêm vào đó tôi hoàn toàn ủng hộ quý ông. - Bary trả lời.
- Hoàn toàn rõ ràng là chúng tôi không thể nằm lâu hơn nữa trong cái tình trạng trớ trêu như vậy. Simonie đã mách cho chúng tôi một lý do xác đáng ở chỗ người được giải đã không chịu đến và bây giờ thì đã rõ tại sao! Chúng tôi có quyền coi rằng ban giám khảo đã bị sĩ nhục bởi chính tác phẩm. Cuốn tiểu thuyết hóa ra lại là màn dạo đầu của một tội ác cũng như bởi rằng tác giả đã không muốn xuất hiện. Anh hiểu là tôi muốn nói gì rồi: chúng tôi đã gặp phải lừa dối và tội ác.
- Không thể chối cãi được nữa. - Bary đồng tình.
- Xin ông thứ lỗi cho tôi vì sự so sánh nhưng quý ông có thể hành động theo quy tắc xổ số: những vé trúng thưởng không người nhận sẽ được đưa vào cuộc lần nữa sau một thời hạn nhất định.
- Đúng rồi, chúng tôi sẽ làm như vậy.
- Còn bây giờ, nếu như ông không coi tôi quá mạo muội thì xin ông cho biết Jules Vollar có khả năng hay không?
- Suỵt... Suỵt, phải kiên nhẫn chứ! Hiện thời câu hỏi này còn hơi sớm. Chúng tôi còn phải suy nghĩ. Thậm chí tôi vẫn phải yêu cầu anh chớ quá gây chú ý cho các độc giả của anh đến cái vấn đề khó xử này, cùng lắm là với mức độ thận trọng như hiện nay của anh...
- Người ta đồn rằng Vollar đang tăng cường lấy lòng một số thành viên ban giám khảo...
- Ấy, ấy, ấy... Người ta vẫn hay bàn tán đủ thứ chuyện, dù là có một chi tiết đáng lưu ý ở đây: Hình như Vollar và Simonie đã làm lành với nhau. Như anh biết đấy, nhà thơ của chúng ta không chịu đựng nổi Vollar thế nhưng anh ta lại láu lỉnh như khỉ ấy. Anh ta cho đăng một bài báo bất thường ca ngợi tập thơ mới đây của Simonie và ông này đã tuyên bố là rất đẹp lòng. Theo như tôi biết thì hôm nay ông ta đã mời Vollar ăn tối.

*

Ở một quán cà phê nhỏ trên đường bờ sông Selesten có một anh công nhân bỗng nhiên dừng xe đạp. Trông anh ta có vẻ như đang đi làm ca đêm.
Làn hơi băng từ sông Seine tỏa lên Paris đang chìm trong sương mù, thứ sương mù đặc sệt mà dù có lấy dao cắt cũng vậy thôi.
- Thời mới chả tiết! - Anh thanh niên đi xe đạp nói và đẩy cửa vào quán cà phê.
Ông chủ quán đang thiu thiu ngủ sau quầy hàng.
- Cho tôi một ly rum! - Anh công nhân yêu cầu.
Trong khi đó một thanh niên khoác chiếc áo choàng rộng màu xám từ buồng điện thoại tự động bước ra.
Anh ta trả tiền điện thoại, uống nốt ly cà phê của mình và đi ra phố.
Lúc này là mười một giờ đêm.
Chỉ cách có ba mét mà chẳng nhìn thấy gì cả. Thỉnh thoảng một chiếc ô tô lại chậm chạp bò qua bề dầy của bức tường sương mù. Ánh sáng của cặp đèn pha vàng ệch phải khó nhọc lắm mới chọc thủng được màn sương mù. Rồi chiếc xe ô tô chìm vào trong bóng đêm. Ta có cảm tưởng như bầu khí quyển bị đè nén đã làm át cả tiếng động cơ ô tô. Ở đây có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ oàm oạp khe khẽ bên bờ sông Seine. Còn nếu như nhìn thật kỹ càng và chăm chú thì có thể phân biệt hình bóng mờ mờ của những cây dương trên đảo Saint-Louis mà đó cũng chỉ vì ta đã biết trrước về sự tồn tại của chúng thôi.
Dần dần xung quanh trở nên yên ắng, tuy tiếng ồn ào của Paris xa xôi văng vẳng lại khu vực này của thành phố. Ở đây tất cả các ngôi nhà đang chìm đắm trong giấc ngủ như thể mọi thứ đều bị tê liệt hết cả. Xe ô tô chạy ngang qua đã trở nên thưa thớt. Một khách bộ hành hiếm hoi đang vội vã tới một chốn nương thân ấm cúng và mến khách nào đó như anh ta tưởng tượng ra trước mắt.
Cái đêm mù sương này mới lạnh lẽo và khô khan làm sao! Tường nhà dường như đang lung lay trong sương mù ẩm thấp giống như những khung gỗ bài trí trên sân khấu của một vở kịch nào đó đang đung đưa.
Dòng sông uốn khúc ở phía dưới nhưng không thể đoán nhận được nước ở đâu và sương mù ở chỗ nào, tiếng ộp oạp từ đâu vẳng lại. Thậm chí cả những người không có đầu óc tưởng tượng cũng có thể thấy như có kẻ nấp sau mỗi gốc cây dương bị những đám sương mù đen bẩn che phủ.
Joseph chậm rãi, khẽ khàng đi dọc theo vỉa hè ướt át bằng đôi giày đế cao su của mình. Giữa đêm tối thấp thoáng ánh đèn sau khung cửa kính của một tửu quán ở phía sau lưng anh rồi lại biến mất vào trong sương mù.
Từ bờ sông Selesten Joseph ngoặt lên cầu Marie và vẫn điềm tĩnh sải bước qua cầu.
Anh vẫn còn nhiều thời gian.
Anh đi xuống bờ sông Anjou. Những ngôi nhà lớn nhỏ lên ở phía bên phải. Ở một vài nơi cửa sổ còn sáng đèn. Đó là những chấm sáng nhấp nháy lúc ẩn lúc hiện trên nền của bức tường dày đặc trơ trọi.
Joseph nhìn đồng hồ của mình và suy nghĩ. Mọi sự có đúng như anh muốn không? Anh đã suy tính và vạch kế hoạch kỹ lưỡng nhưng có trời mà biết tay Doubois ấy sẽ phản ứng đủ nhanh lẹ hay không?
Nhưng nói chung anh cũng chả mạo hiểm gì lắm. Phải mất một buổi tối lang thang dưới Paris mù sương. Nhưng anh đã mất bao nhiêu buối tối rồi?
Chỉ còn gần năm mét nữa là đến cửa nhà Simonie.
Trong ngôi nhà sáu tầng này (Joseph đã đến khảo sát từ hồi trưa) có một cái cổng gỗ rất nặng với hai cánh cửa vĩ đại đóng đầy đinh lớn. Hai cánh cửa này rất hiếm khi được mở ra. Những người sống ở đây sử dụng một cánh cửa nhỏ khoét trong cánh cổng lớn bên phải.
Vượt qua cánh cửa nhỏ ấy ta sẽ thấy một lối đi rộng rãi lát gạch đỏ dẫn tới cái cầu thang cổ kính có tay vịn bằng gỗ. Đó là một cầu thang rất lâu đời, từ thời Louis XIII với tay vịn rất đẹp.
Joseph nấp ở bậc cửa của ngôi nhà bên cạnh. Anh dựng cổ áo choàng của mình lên che ngực và sẵn sàng chờ đợi.
Xung quanh mới yên ắng làm sao!
Khó có thể tưởng tượng được rằng mình đang ở trung tâm Paris, Joseph nghĩ thầm. Dường như đây là một hòn đào nhỏ nào đó u ám, vắng lặng không có người ở và bị cắt hẳn với thế giới bên ngoài.
Thế nếu như Hắn đã ở đây? Biết đâu Hắn cũng đang rình?
Joseph thấy sởn cả gai ốc.
Anh nhìn quanh. Không thấy gì cả. Anh coi mình là kẻ đi săn. Và cái gì sẽ xảy ra nếu như họ bỗng đổi vị trí của mình cho nhau và anh trở thành con mồi? Ý nghĩ ấy không chịu buông tha anh. Và cái gì sẽ xảy ra nếu như kẻ mà anh đang theo dõi lại sử dụng bóng đêm và sương mù, náu mình ở đâu đó quanh đây và hiện giờ đang theo dõi từng cử chỉ của anh để vào một thời điểm thuận lợi sẽ báo cho anh biết sự có mặt của hắn... bằng cách nã vào lưng anh một băng đạn...
Hắn ta có phải là một tay thiện xạ không nhỉ?
Thôi, giờ đây sẽ không phải chờ lâu nữa.
Joseph lại nhìn đồng hồ. Nó kêu tích tắc và dường như kêu quá to.
Có tiếng ầm ì xa xôi vẳng đến. Rồi yên tĩnh trở lại. Không, đó không phải. Lại có tiếng động cơ ô tô lúc thì khẽ khàng, lúc thì to lên. Với sương mù và khoảng cách quá xa như thế này thì khó mà biết được xe đang chạy về hướng nào. Thế rồi tiếng ồn trở nên rõ ràng hơn. Đúng là có tiếng xe đang chạy dọc bờ sông Selesten. Rồi nó lên cầu Marie và bây giờ thì hướng về đây.
Đó là một chiếc xe tắc xi. Chính là chiếc xe mà Joseph đang chờ.
Ánh đều pha xuyên qua màn sương mù. Hai chiếc đèn pha màu lam đục. Chiếc xe tắc xi dừng lại ở cửa nhà Simonie.
“Chú ý! - Joseph tự nói với mình - Hãy giữ gìn màn kịch độc đắc ngoài chương trình!”.
Hai người đàn ông ra khỏi xe. Một người tầm thước có dáng đi chắc nịch. Người kia cao lớn, trông ông ta giống hệt như một kim tự tháp với chiếc áo chùng rộng bay thấp thoáng trong sương mù.
Hai người đàn ông đang bàn luận gì đó nhưng tiếng động cơ đã át mất giọng họ. Họ đang nói chuyện gì? Chắc là họ đang than phiền về thời tiết ẩm ướt. Người lái xe thối lại tiền và nói câu gì đó. Rồi anh ta ngồi vào xe và nhấn ga. Tiếng động cơ rít lên, chiếc xe quay đầu lại. Cặp đèn pha phóng luồng ánh sáng màu lam đục vào những bức tường nhà cũ kỹ. Joseph nấp vội vào sau khung cửa. May thay ánh đèn không chiếu vào anh.
May mắn thật chứ không người khách mà anh đang chờ có thể đã phát hiện ra anh nếu như hắn ta ở đâu đó quanh đây.
Hai người đàn ông trao đổi mấy lời bên cánh cổng nhưng Joseph không nghe rõ vì tiếng động cơ ô tô.
Cảnh cửa nhỏ kêu cót két.
Họ đi vào nhà.
Còn người khách kia đâu?
Phải chờ đợi, lại phải chờ đợi.
Không nhìn thấy gì cả. Những thân cây dương cổ thụ đen sẫm cao lớn vươn lên bầu trời mịt mùng ở trên đảo Saint-Louis. Tất cả mọi thứ trên đảo đang ngủ yên. Và dòng sông Seine vỗ sóng như nó đã từng vỗ từ thuở xa xăm khi Paris còn là một cái làng nhỏ bên bờ sông.
Nếu như tay Doubois kia xử sự như Joseph phán đoán thì hắn ta phải đang trên đường tới đây.
Nhưng hiện thời vẫn chưa thấy gì cả. Sương mù vẫn chưa tan.
Chờ đợi thật mệt mỏi. Phải đứng bất động mặc dù Joseph rất muốn được đập chân để sưởi nóng đôi chân đã tê cứng vì đứng lâu trên mặt đất ướt át. Ngoài ra lúc nào anh cũng phải nhìn sang phải, sang trái, về phía trước... Phải nhìn về phía xa để thấy có gì không. Cần phải giữ không để óc tưởng tượng lừa dối. Rồi có tiếng chân vang lên. Không phải, đó là tiếng ộp oạp của sông Seine. Có bóng người nào đó xuất hiện. Đâu phải. Chỉ đơn giản là gió thổi bật một đám sương mù lên và đung đưa nó đấy thôi. Rồi có ánh đèn pin thấp thoáng phía xa như một vì sao nhỏ xa xăm không thể với tới và tan biến luôn.
Chỉ có đêm tối, sương mù và im lặng.

*

Nhưng cuối cùng tên giết người đã xuất hiện.
Tim Joseph đổ dồn. Đó không phải là vì sợ hãi hay lo chuyện thất bại. Joseph luôn tin tưởng vào thành công mặc dù anh biết rằng cuộc đấu sẽ khó khăn dữ dội. Phải chăng có thể định trước tất cả mọi sự trong những trường hợp như thế này?
Joseph cảm thấy bồn chồn, nhưng đó là cái cảm giác dễ chịu thì đúng hơn. Anh cảm thấy hài lòng như một người buộc món hàng nặng bằng một sợi chỉ mỏng manh mà nó không đứt, hiện thời vẫn chịu được. Nói sẽ chịu được mãi không? Chúng ta sẽ xem xem.
Và chính tên giết người đây rồi.
Joseph nhận ra dáng người, cách đi đứng của hắn.
Hắn ta đi dọc bờ sông Seine. Hắn ta bước đi với nỗi lo ngại. Chỉ có thể nhận ra hắn nếu ta nhìn kỹ. Hắn ta đi rất thận trọng.
Joseph dồn toàn bộ sự chú ý của mình vào hắn ta.
Đoạn kết đang đến gần. Đánh hơi thấy mồi dê chó sói đã rời hang của mình. Cần phải tóm gọn chó sói nhưng giữ sao cho nó chưa kịp nuốt sống con dê.
Joseph từ từ nhấc tay lên và thọc vào trong túi áo. Nhưng kìa, Tên giết người biến đâu rồi? Trời ơi, sương với chả mù!
Không, mọi việc ổn cả. Tên giết người vẫn đang lại gần.
Cửa sổ trên tầng bốn nhà Simonie đóng sập lại.
Im ắng hoàn toàn trong mấy phút. Sau đó có tiếng chân vang lên. Ai đó đang đi xuống cầu thang. Tiếng chân bước nằng nặng của một người không có gì phải lẩn tránh. Người đó xuống hết cầu thang rồi đi ra sân gạch.
Giờ đây thì mọi việc sẽ nhanh chóng thôi.
Cánh cửa nhỏ ở cổng nhà Simonie vẫn chưa mở ra.
“Bây giờ Tên giết người chỉ dán mắt vào cánh cửa thôi, hắn ta chẳng hơi đâu mà nghĩ đến ta”, - Joseph nghĩ thầm.
Anh quyết định phải sử dụng thời cơ này. Cần phải kín đáo men dọc theo bờ tường để thoát khỏi tầm quan sát của Tên giết người. Điều này không khó khăn mấy nhưng cần phải hành động một cách mau lẹ.
Joseph chạy vụt qua đường. Bây giờ anh đã ở bên phía bờ sông Seine và Tên giết người cũng ở đó, tất nhiêu là nếu như hắn ta chưa chuyển sang chỗ khác.
Không, hắn ta vẫn ở đó.
Joseph di chuyển từng bước về phía trước. Một bước nữa, rồi thêm một bước nữa.
Cánh cửa mở ra.
Đó là cánh cửa nhà Simonie.
Tên giết người động đậy đưa tay về phía trước.
Hắn ta giương súng ngắm bắn con dê. Bằng bất cứ giá nào phải cứu con dê, còn chó sói thì phải bắt sống!
Joseph khom người xuống. Và như một con mèo anh nhảy chồm lên người tên sát nhân. Tay trái anh đánh mạnh vào cánh tay đang giương súng của hắn ta.
Tên giết người rít lên vì đau.
Joseph đã tính rất đúng: Khẩu súng lục của Tên giết người văng ra mặt đường nhựa.
Chàng phóng viên dí khẩu súng lục vào thẳng mặt Tên giết người.
Hắn ta chửi thề nhưng không chịu đầu hàng và lại định nhặt khẩu súng ở dưới đất lên. Cuộc vật lộn bắt đầu.
Đúng lúc đó có một người từ bên kia đường lao tới. Bây giờ thì có hai người vật lộn với hắn ta.
Cuộc chiến im lặng kéo dài mấy giây. Chỉ nghe rõ hơi thở nặng nề của Tên giết người, rồi giọng nói bình thản của Joseph vang lên:
- Thôi đủ rồi, đủ rồi. Chống cự vô ích...
Cuối cùng thì cuộc vật lộn chấm dứt.
Joseph rút đèn pin ra và rọi vào mặt Tên giết người.
- Ta đã nghĩ đúng như vậy! - Anh hài lòng thốt lên.