Dịch giả: Hoàng Hữu Đản
Cuốn sách của những người Do Thái

     ddy Thall đặt con dao rọc giấy bằng vàng lên mâm đựng các thức ăn điểm tâm buổi sáng. Nàng đọc lại bức thư. Đoạn nàng gọi người đàn bà mặc blu trắng đang cuốn tấm màn che cửa sổ buồng ngủ.
- Tới gần đây, Tinka! - Eddy Thall bảo - Vú có biết cô gái này không?
Người đày tớ dùng ngón tay cầm lấy tấm ảnh chỉ to bằng con tem bưu chính. Bà ta để xa mắt ra để nhìn cho rõ hơn. Bà ngắm nghía bộ đồng phục màu đen, cái cổ trắng nho nhỏ. Đôi mắt Tinka ướt lệ. Bà ta rất dễ xúc động và rưng rưng nước mắt mỗi khi người ta nhắc đến một sự việc gì hay một điều gì liên quan đến quá khứ của bà hay cuộc sống của gia đình Thall.
- Đây là cô Eddy! - Tinka nói. Và bà lau nước mắt.
- Tôi vừa nhận được sáng nay. - Eddy Thall nói - Từ tay một người hâm mộ tôi gửi tới. Tinka ạ, vú hãy tưởng tượng đó là một cậu bé đã từng say mê tôi ngày tôi mới tuổi trăng tròn.
Eddy Thall cầm lấy bức thư nàng vừa bóc với con dao rọc giấy bằng vàng. Nàng kéo chiếc gối lên kê vào dưới vai.
Anh ta viết như thế này. - Nàng nói.
“Thưa cô,
Cách đây mười lăm năm, khi cô còn là học sinh Nhạc viện, cô có bỏ quên tấm ảnh này trong một cuốn sách ở Thư viện. Tôi đã tìm thấy. Tôi đã giữ nó trong mình rất lâu, đợi có dịp sẽ đưa tận tay trả lại cho cô. Cái dịp ấy đã không đến. Hay nói đúng hơn, tôi đã không có đủ can đảm nói chuyện cùng cô và trả cô tấm ảnh, mặc dù tôi đã gặp cô hàng bao nhiêu lần, ngoài đường, trong nhà hát, ở cửa hàng bánh kẹo hay nơi công viên.
Cô đã tới Néamtz trong dịp hè, và ngày nào tôi cũng thấy cô.
Rồi cô trở thành một nghệ sĩ lớn, tên tuổi. Cô đã thành lập Nhà hát riêng.
Mặc dù đã là người đàn ông ở độ tuổi vững vàng, tôi vẫn thiếu can đảm. Nhưng lần này không phải cái bẽn lẽn của tuổi vị thành niên mà chính cái Vinh quang của cô làm cho tôi sinh e sợ.
Tối hôm qua, tôi đã nhìn thấy cô trong vai “NỮ HOÀNG SABA”. Tôi đã về nhà. Tôi đã tìm lại tấm ảnh và gửi cho cô, với hy vọng cô sẵn sàng nhận lấy cùng với tất cả tấm lòng ái mộ sâu sắc của tôi.
Thẩm phán Pierre Pillat”.
Tinka đứng nghe cạnh chiếc giương, bà đang dọn dẹp.
Có một đoạn tái bút. - Eddy Thall nói tiếp.
“Một anh bạn tôi - Boris Bodnar - trước khi trốn sang Nga, có xin tôi tấm ảnh này. Anh ta bị đuổi học và anh ta đã bơi tay không vượt qua sông Dniestr. Số phận tấm ảnh cỏn con này là phải đi du hành về phía Đông. Tôi rất sung sướng đã được giữ nó bao lâu nay và được trả nó lại cho cô bây giờ, mặc dù tôi không phải là người duy nhất say mê nó”.
Eddy Thall bước xuống khỏi giường. Nàng nhìn lên chiếc đồng hồ quả lắc nhỏ phủ một mảnh lụa mỏng màu thanh thiên. Tám giờ sáng. Nàng ngoảnh lại nhìn Tinka và thấy bà đang khóc.
- Có cái gì trong bức thư tôi vừa đọc làm cho vú khóc à? - Eddy Thall hỏi.
- Những lời ông ta viết trong thư đẹp quá! - Tinka đáp - Đẹp quá! Làm cho nước mắt tôi cứ thế nó trào ra.
- Vú này, hồi còn nhỏ, tôi có đẹp lắm không, đến nỗi người ta có thể say mê một tấm ảnh của tôi? - Eddy Thall hỏi.
- Cô Eddy Thall bao giờ cũng đẹp! - Tinka đáp.
Bà ta đặt chiếc khay xuống. Eddy Thall nhìn qua những bức thư khác rồi nàng lại cầm lấy bức thư của ông thẩm phán Pierre Pillat. Nàng nghĩ tới cậu học sinh đã trốn sang Nga. Và nàng ân hận cho anh chàng Boris Bodnar ấy đã thi trượt và đã bị đuổi khỏi trường.
Eddy Thall là một nghệ sĩ lớn. Ngày ngày người phát thư mang tới cho nàng nhiều thư từ của những người hâm mộ.
Nhưng không một bức thư nào khiến lòng nàng vui sướng cho bằng bức thư của ông thẩm phán Pierre Pillat.
- Thưa, có hai cảnh sát muốn gặp cô! - Tinka quay trở lại buồng ngủ và báo.
Giọng nói của bà không được bình thường. Bà kinh sợ.
- Bảo họ đợi tôi dùng cà phê xong sẽ ra. - Eddy Thall bảo.
- Họ đang vội. Họ muốn nói chuyện với cô ngay. Tôi bảo với họ: Cô ngủ chưa dậy. Họ cứ vào phòng làm việc và chờ.
Eddy Thall khoác tấm áo choàng lên mình. Nàng bực dọc bước vào văn phòng. Các nhân viên cảnh sát - hai thanh niên khoác áo mưa - đang đứng ở đó. Nàng mời họ ngồi, xé một tờ lịch và nhìn họ như ở trên sân khấu.
- Các ông muốn gì?
Họ vẫn đứng.
- Sao các ông không ngồi? - Eddy Thall hỏi. Nàng vo viên tờ lịch ngày 9 tháng 1 năm 1940 và ném vào sọt giấy.
- Chúng tôi xin làm phiền bà chút xíu về một cuộc điều tra. - Một trong hai tên cảnh sát nói.
Tên thứ hai mở chiếc cặp của hắn (đặt tựa vào thành ghế bành) trong khi tên thứ nhất tiếp tục hỏi:
- Bà già vừa mở cửa cho chúng tôi là đày tớ của bà phải không?
Eddy Thall nhìn hai người. Họ nghiêm nghị như hai học sinh Nhạc viện đang thể hiện vai đầu tiên của mình. - Người đàn bà mở cửa cho các ông là bà quản gia của tôi. Eddy Thall mỉa mai đáp.
Tên cảnh sát thứ hai rút ra một cuốn sổ tay và bắt đầu ghi.
Người thứ nhất hỏi:
- Bà ta hầu hạ bà đã lâu chưa?
- Ngày tôi sinh ra, bà ấy đang phục vụ cho cha mẹ tôi.
- Cách đây bao nhiêu năm? - Vẫn viên cảnh sát thứ nhất hỏi.
- Tôi nghĩ rằng bà ấy ở trong gia đình chúng tôi khoảng bốn mươi năm nay. Muốn biết chính xác hơn, các ông có thể trực tiếp hỏi bà ta.
- Lương tháng bà ta bao nhiêu?
- Năm nghìn là mỗi tháng gửi ngân hàng dưới tên tuổi của bà ta. Ngoài ra, bà ta có đủ tất cả mọi thứ cần dùng. Bà ta ở đây như là ở nhà mình, không thiếu một thứ gì.
Eddy Thall đốt một điếu thuốc. Nàng là Giám đốc một Nhà hát lớn mang tên nàng. Các báo chí đều ca ngợi nàng là Nghệ sĩ lớn nhất. Khắp mọi nơi trên đất nước, đi mỗi bước là gặp một tờ quảng cáo có in ảnh của nàng. Tên nàng được nêu trên Đài phát thanh mỗi ngày không biết đến bao nhiêu lượt, được dán ở phòng đợi của mọi nhà ga, ở tất cả các trạm tàu điện và ngay trong các xe buýt chở khách. Các em bé cũng biết rành rọt tên tuổi của Eddy Thall. Tất cả những nhân viên cảnh sát nàng quen cho tới lúc này đều đã xin nàng ghi cho một câu làm bút tích.
Hai viên cảnh sát hôm nay là những người đầu tiên không mong có bút tích của nàng. Họ đến vì một cuộc điều tra.
- Bà cho biết tên người quản gia? - Viên cảnh sát hỏi.
- Tinka Neva. - Nàng trả lời - Nếu ông muốn hỏi gì nữa thì xin khẩn trương lên chút?
Nàng đứng lên, dập tắt điếu thuốc.
- Chúng tôi muốn biết người quản gia của bà theo tôn giáo nào? - Tên cảnh sát hỏi.
- Cơ Đốc giáo. - Eddy Thall đáp.
Tên cảnh sát thứ hai gập cuốn sổ lại, bỏ vào cặp.
- Pháp luật hiện hành cấm những người Do Thái không được dùng người Cơ Đốc giáo làm đày tớ. Bà có nhiệm vụ trả cho bà ta ba tháng lương rồi cho bà ta nghỉ việc. Chúng tôi chỉ thông báo với bà một điều ấy thôi.
Hai tên cảnh sát nghiêng đầu chào, vẫn nghiêm túc như khi mới đến. Eddy Thall đợi họ đi ra phía cửa.
- Ai vi phạm điều luật này sẽ bị phạt tù sáu tháng. - Tên thứ nhất nói. Hắn tiếp - Chúng tôi có thể thẩm vấn bà Tinka Neva chứ, thưa bà?
Eddy nhấn chuông gọi.
- Các ông ấy muốn nói chuyện với vú đó, Tinka!
Nàng lên buồng riêng.
Tinka ở lại với hai gã thanh niên. Bà ta quan sát chiếc áo mưa, đôi giày màu xỉn của họ.
- Tên bà là Tinka Neva? - Tên cảnh sát thứ nhất hỏi.
Tinka đưa mất nhìn hắn từ đầu xuống chân với thái độ hằn học.
- Cô chủ đã nói tên tôi với các ông rồi, hỏi tôi làm gì nữa?
- Bà chủ nói chưa đủ. Bà cần phải tự mình nói với chúng tôi.
Tên thứ hai lại rút cuốn sổ ra và lại bắt đầu ghi.
- Bà bao nhiêu tuổi? Bắt đầu vào làm công cho gia đình Thall bao nhiêu năm?
- Ngày tôi tới làm công cho gia đình Thall tôi mới mười tám tuổi. Tức phải ba mươi tám năm nay.
Tinka sợ. Bà ta run lên. Chưa bao giờ bà thấy nhà này lại có một cuộc viếng thăm kiểu đó.
- Bà có bằng lòng về cách đối xử của bà chủ không?
- Nếu không bằng lòng thì tôi đã chẳng ở đây trọn cả cuộc đời tôi.
- Bà chủ sẽ trả cho bà ba tháng lương rồi cho bà nghỉ. Luật lệ hiện hành cấm không cho người Do Thái có người ở Công giáo.
Bọn cảnh sát cài lại khuy áo của họ.
- Tôi không có quyền làm việc để kiếm sống hay sao? - Tinka hỏi.
- Bà có quyền làm việc, nhưng không được làm tại các gia đình gốc Do Thái.
Tinka cảm thấy bất công. Bà không sợ nữa.
- Người chủ mà tôi tìm đến hầu hạ là do tôi ưng, tôi chọn lấy. Tôi là một người ở. Điều quan trọng đối với tôi là có được một người chủ tốt. Còn lại, cái chuyện ông ta là Do Thái hay Công giáo, chuyện đó tôi đâu có cần quan tâm!
Bọn cảnh sát tiến về phía cửa.
- Nếu bà chủ không trả bà ba tháng lương trước khi cho bà thôi việc thì bà hãy tới sở cảnh sát mà làm đơn khiếu nại! - Tên thứ nhất nói.
- Tôi không rời khỏi nhà này. Tôi hoàn toàn vừa lòng ở đây! Tinka đáp.
Bây giờ thì bà khóc.
Chỉ một mình cô chủ có quyền đuổi tôi đi nếu như tôi không làm vừa lòng cô chủ. Nhưng mà cô chủ lại rất vừa lòng về tôi. Tinka nói qua dòng nước mắt, trong khi các viên cảnh sát đi ra.

II

Bọn cảnh sát đi rồi, Tinka khóc. Tấm thân già run rẩy bẩy như một cành cây mong manh.
Eddy Thall thân mật nắm lấy vai bà:
- Quỷ sứ không đến nỗi đen thui như thiên hạ tưởng đâu! Vú hãy cứ yên tâm, Tinka ạ! Vú sẽ ở lại đây. Tôi có nhiều quan hệ rộng rãi, tôi sẽ nhờ một người nào đó can thiệp.
Tinka không làm sao nói được nữa. Bà lau chùi những chiếc ghế bành. Rồi bà lau sàn nhà, ở những chỗ bọn cảnh sát vừa ngồi, thật kỹ như để xóa thật sạch đi mọi dấu vết của chúng trong cái nhà này.
Điều sỉ nhục vừa qua làm cho bà bàng hoàng đau xót đến tận ruột gan. Bà nghĩ: “Ngoài cô chủ của ta ra, không ai có thể đuổi ta ra khỏi cái chỗ ta đang sống. Kể cả nhà vua cũng không có quyền dính dáng đến việc của ta. Ta làm tốt hay làm xấu, đó là vấn đề giữa ta và cô chủ!”
Tinka đã rời bỏ xóm làng lúc còn là một thiếu nữ mới lớn. Bà không có họ hàng, gia đình gì cả. Chẳng có lấy một người thân thích bất cứ ở nơi nào. Nhà của bà, chính là ngôi nhà của cô chủ.
Eddy trao cho bà một bó thư.
- Này Tinka! Vú đừng khóc nữa! Cầm lấy chồng thư từ này, đốt nó đi cho tôi!
Tinka đưa cả hai tay cầm lấy chồng thư. Lệnh của cô chủ nghe tuồng khắt khe quá. Tinka Neva là một con người rất nhạy cảm. Đốt thư đi, nhất là trong lúc này, sau vụ cảnh sát tới điều tra, là một hành động quá đau lòng, trên sức chịu đựng của bà.
Tinka không biết đọc. Suốt cả cuộc đời bà không có một bức thư. Nhưng suốt đời bà, bà đã nhận và đã mang thư từ cho chủ mình cùng một lúc với bữa điểm tâm buổi sáng tới tận giường nằm của họ. Mỗi lần như vậy, bà đã trông thấy đôi tay cô chủ vội vàng bóc thư ra như thế nào, thấy cô chủ buồn, vui như thế nào sau khi xem mỗi bức thư. Trong tiềm thức của Tinka đã hình thành cái ý nghĩ không sao xóa được rằng những bức thư là những con người sống. Nó làm cho ta cười vui hay rầu rĩ. Nếu không có sự sống thì làm sao có được cái khả năng kỳ diệu ấy? Bởi vậy, bao giờ Tinka cũng lau sạch bàn tay trước khi mở cái hòm thư bên cổng để lấy thư ra. Với thư từ, bà có lòng tôn trọng thật sự. Vậy mà bây giờ đây người ta lại bảo bà phải đốt những lá thư đi! Có khác gì bảo bà phải đốt những sinh vật đang sống, những con chim câu, những con thỏ con, hoặc những con chim non vậy!
Eddy Thall đứng quay lưng lại phía bà. Nàng đang chọn lọc những bức thư khác để đốt. Tinka cảm thấy mỗi một cái phong bì ấy là một tội lỗi, tội này đến tội kia mà buộc lòng bà phải phạm.
- Đây là những bức thư của Lidia Petrovici. - Eddy Thall nói - Vú có nhớ chúng ta gửi cái bưu phẩm cuối cùng cho Lidia vào lúc nào không? Hình như bốn tháng rồi thì phải. Tôi không được thư trả lời. Tôi sợ có chuyện không lành xảy ra với chị ấy. Có thể cảnh sát đã tịch thu bưu phẩm. Chúng sẽ tới thẩm vấn ta. Hãy đốt sạch những thư này đi thì hơn.
Eddy Thall nghĩ tới người chị họ của nàng, Lidia Petrovici, đang cư trú tại Quốc gia những người Slaves phương Nam. Ở đó, người ta đã giết hại hết mọi người Do Thái. Lidia sống dưới một cái tên giả. Chị ấy là một trong những người đàn bà Do Thái cuối cùng còn sống sót. Nhưng gửi bưu phẩm cho chị ấy đã thành một chuyện nguy hiểm. Vì vậy mà Eddy đốt hết các thư từ của chị đi, những bức thư trả lời đều đặn đã nhận được những gói thuốc men, kẹo sôcôla, áo quần.
- Thưa cô chủ, cô có bực mình nhiều khi bọn cảnh sát đến vì chuyện của tôi không? - Tinka hỏi - Tôi xin lỗi cô chủ. Đáng lẽ tôi không nên gây phiền hà cho cô như vậy.
- Vú chẳng có tội tình gì trong việc đó cả, Tinka ạ! - Eddy đáp - Làm sao vú lại có thể cho rằng đây là lỗi của vú? Này, tốt hơn cả là vú hãy đốt nhanh những bức thư ấy đi!
Chuông gọi rung lên lần hai, lịch sự.
- Đừng có cầm cả gói thư ra mà mở cửa đó nghe, vú! - Eddy Thall bảo.
Nàng lấy lại gói thư từ tay Tinka và cẩn thận giấu vào dưới tấm chăn lụa.

III

Một quân nhân mặc bộ quân phục màu xanh nước biển bước vào văn phòng, nơi mà các nhân viên cảnh sát vừa mới tới cách đây một giờ.
- Tôi dám chắc vẫn là về chuyện của tôi. - Tinka nói và đi vào trong buồng - Tôi muốn chết đi cho xong cô Eddy ạ. Hơn là gây bao nhiêu phiền phức cho cô. Sáng nay bọn cảnh sát đã tới vì tôi. Bây giờ lại là một thẩm phán quân sự.
- Vú cứ yên tâm nào, Tinka!
Eddy bước vào văn phòng. Viên sĩ quan - khuy áo bằng vàng, ngù vai bằng vàng - nghiêng mình chào. Chỉ một cử chỉ thôi cũng nói cho Eddy biết một con người nào đó có làm chủ được mình không, hay là lúng túng. Trong nghề sân khấu, nàng đã học được cách quan sát các cử chỉ. Viên sĩ quan đứng trước mặt nàng đang bối rối ngượng ngùng.
- Thưa cô, tôi dám cả gan cho phép mình thực hiện cuộc thăm viếng này. - Anh ta nói - Tôi là đại úy thẩm phán Pierre Pillat. Chắc cô đã nhận được bức thư của tôi.
Eddy Thall nhìn chiếc súng ngắn, con dao găm, chiếc quân hàm.
- Tôi chỉ khoác bộ quân phục này nhất thời thôi. Tôi bị động viên.
- Bức thư của anh làm tôi xúc động. Cảm ơn anh thực lòng! - Eddy nói.
Nàng chỉ cho anh chiếc ghế bành. Hai người ngượng nghịu trước mặt nhau như thể họ đang gặp nhau mười lăm năm về trước.
- Tôi buộc phải thú nhận với cô một điều: Tôi mang ơn cô nhiều lắm. Chỗ chúng tôi, trường trung học hoàng gia Kichinev, người ta thi hành một thứ kỷ luật sắt kiểu nước Phổ. Chương trình học rất nặng. Bọn chúng tôi, tất cả đều tìm mọi khả năng để trốn thoát. Trong thực tế thì thật là vô phương. Chỉ có thể thoát trong giấc mơ. Tấm ảnh của cô là một dịp cho tôi mơ mộng. Đêm đêm tôi mơ tưởng tới cô, giấc mơ bỗng trở thành xiết bao xinh đẹp!
Anh hơi đỏ mặt khi nói câu đó.
Giá tôi ở ngoại trú, thì chuyện đó đã có khả năng xảy ra. Nhưng những chàng trai vị thành niên sống trong một cái doanh trại không thể nào sống thiếu mơ mộng được. Tôi cứ việc nhìn tấm ảnh của cô, và tôi mơ. Tấm ảnh bị nhàu đôi chút.
Cô thứ lỗi. Người ta kiểm tra cả con người chúng tôi hàng ngày, túi áo, túi quần, sách vở. Tôi đành phải giấu tấm ảnh của cô cùng với thuốc lá để người ta khỏi tịch thu...Cô luôn luôn đứng trước nguy cơ bị người ta tịch thu đi mất, từng phút, từng giờ... Xin lỗi, tôi muốn nói là tấm ảnh của cô...
Anh cười. Eddy Thall cứ dán mắt vào những cái ngù vai bằng vàng, những con số của nhà vua, vào chiếc súng ngắn, chiếc dao găm - biểu tượng của sức mạnh, biểu tượng của quyền hành.
- Cô có biết tôi đã tưởng tượng ra những điều gì cách đây mười lăm năm không? Tôi đã thề với lòng lớn lên sẽ cưới cô làm vợ và không yêu bất cứ cô gái nào khác ngoài cô. Tối hôm qua tại nhà hát, tôi đã nghĩ tới tất cả những chuyện đó. Tôi hết sức và chân tình chúc mừng cô. Cô thực sự là tuyệt vời, là kỳ diệu trong vai “NỮHOÀNG SABA”. Diệu kỳ. Buổi diễn xong, tôi đã tìm tấm ảnh và gửi cho cô...
- Trong thư anh có nói tới một người hâm mộ khác. - Nàng nói - Anh ta tên là gì? Boris...
- Boris Bodnar - Pierre Pillat đáp - Anh ta đã đi đâu mất tích từ năm mười lăm tuổi. Anh ta có nói với tôi rằng anh sang Nga. Từ bấy đến nay tôi không được tin tức gì về anh ta cả.
Tuy nhiên tôi cũng đã cố gắng thu nhặt được một vài mẩu tin nhỏ về anh. Tôi có biên thư cho người em trai của anh. Giữa hai anh em đã xảy ra một tấn bi kịch: khi còn thơ dại, Boris đã chọc thủng mắt em. Vì vậy mà Boris bị cha mẹ tước quyền thừa kế. Em trai anh, Angelo, đã làm tu sĩ và không hề biết gì về Boris cả. Cũng chẳng một ai biết gì về anh.
Trong lúc nói chuyện, Pillat nhìn vào trong buồng qua cánh cửa hé mở.
Eddy Thall có cảm giác anh đang nhìn cái gói thư giấu dưới tấm chăn. Điều đó khiến nàng lo ngại.
- Tôi đang có một buổi tập. - Nàng bảo - Nếu anh vui lòng, chúng ta có thể gặp lại một lần sau.
Nàng xem giờ. Pillat không nhúc nhích. Anh quan sát căn buồng.
Sự lo ngại của Eddy càng tăng. Nàng đã trở thành cảnh giác. Nàng sợ cuộc viếng thăm của ông quan tòa này nhằm mục đích nghiệp vụ.
- Tôi cần nói chuyện thêm với cô về điều này nữa. - Anh ta rất lúng túng - Cô thấy đó, tôi là biện lý quân sự. Với tư cách này, chúng tôi biết nhiều chuyện lắm.
- Anh tới đây tiến hành một cuộc điều tra phải không? Bức thư và tấm ảnh chỉ là một duyên cớ... Đáng lẽ ra, anh có thể bắt đầu đi ngay vào cuộc điều tra thì đúng hơn...
Eddy Thall đứng lên, run run.
- Không phải điều tra. - Pierre Pillat nói - Tôi chỉ muốn hỏi xem cô có quen biết một người đàn bà tên là Lidia Petrovici, ở Quốc gia những người Slaves phương Nam hay không?
Eddy Thall đỏ bừng mặt lên vì giận. Nàng muốn ném một vật gì đó vào mặt gã quân nhân kia, gã đã dám bày ra một câu chuyện yêu đương để xâm nhập nhà nàng và điều tra về Lidia Petrovici!
- Cách đây ít lâu, các nhân viên phản gián của chúng ta có bắt được một điệp viên địch, một tên mật thám nhân viên ngành Đường sắt. Người ta chuyển sang cho tôi xử lý.
Trong số nhiều thứ nó đã chuyển sang biên giới, có một bưu phẩm gửi cho bà Lidia Petrovici - thông qua bà Debora Paternik rất nhân hậu. Bị cáo khai rằng gói bưu phẩm ấy là của cô gửi. Nó chỉ gồm những thứ hàng hóa không nguy hiểm: thuốc trị lao, các thứ sinh tố, sôcôla, cà phê và một vài bộ quần áo. Thực tình thì đó cũng là cái bưu phẩm duy nhất gửi những vật vô hại tịch thu được của tên gián điệp ấy. Tôi đã không ghi tên cô vào biên bản. Tôi mang trả lại gói bưu phẩm cho cô. Tôi đã muốn giúp cô cái việc cỏn con ấy.
Pierre Pillat mở cặp lấy gói bưu phẩm ra đặt lên bàn.
- Chính tôi gửi. - Eddy Thall nói - Lidia Petrovici là chị họ của tôi. Chị ấy bị lao. Nếu hợp pháp thì tôi không có quyền gửi bưu phẩm cho chị: tôi đã phải giữ bí mật. Đó là cái tội duy nhất mà tôi đã phạm?
- Thưa cô, đây không phải là một cái tội. Vả lại, như tôi đã trình bày, tôi không tới đây với tư cách là một vị công tố tòa án.
Cả hai người im lặng. Cái gói bưu phẩm gồm thuốc bổ phổi, trương lực chống suy nhược và thiếu máu, sinh tố và chiếc áo pull đan tay để giữ ấm cho ngực đang để trên bàn, giữa Eddy Thall và Pierre Pillat.
Tại Quốc gia những người Slaves phương Nam, tất cả mọi người Do Thái đều bị lưu đày. - Eddy nói - Lưu đày hoặc bị hạ sát. Chị họ tôi, một nghệ sĩ viôlông tiếng tăm của thế giới may mắn đã thoát khỏi cuộc săn giết, ít ra cũng đến được hôm nay. Chị ấy sống dưới một cái tên giả, tại một làng quê. Thỉnh thoảng tôi có gửi cho chị tôi một ít thuốc men qua trung gian của Milostiva Debora Patemik [1]. Bà Debora quả là một người bảo trợ cho những kẻ bị áp bức. Chính là phu nhân của vị Quốc trưởng.
- Tôi cảm thấy như mình có tội khi thấy gói bưu phẩm đó không tới được địa chỉ của nó. - Pierre Pillat nói - Tôi sẵn sàng bù đắp vào thiếu sót ấy. Tôi muốn giới thiệu cho cô một người bạn thân của tôi làm ở toa giường nằm. Anh ta sẽ mang gói bưu phẩm tới cho chị của cô. Tên anh ta là Daniel Motok. Có thể trong ngày mai, tôi sẽ bảo anh ta tới gặp cô.
Pierre Pillat đứng lên, nghiêng đầu cáo từ và đi ra phía cửa.
- Mời anh trở lại! - Eddy Thall nói - Hãy đến đây. Chúng ta sẽ trò chuyện về tuổi thơ của chúng ta. Lần này, chính tôi là người cần được thoát khỏi thực tại, anh hiểu không? Cũng như anh đã từng cảm thấy cần phải thoát ra, trong thời gian anh đang học tại trường trung học hoàng gia, khi anh ngồi hằng giờ mà mơ mộng về một tấm ảnh. Anh hãy trở lại! Nhưng tôi van anh, đừng mặc quân phục! Anh sẽ làm cho tôi hết sức hài lòng nếu anh tới với một bộ thường phục, chứ không phải với một bộ quân phục, như hôm nay.

IV

- Dạ thưa, tôi là người mà ông thẩm phán Pierre Pillat đã nói với bà. Tôi là Schaffner Daniel Motok.
Trước mặt Eddy Thall là một người đàn ông thắt cà vạt xám, khoác áo măng tô đen. Anh ta đứng thẳng người, tay đeo găng.
Eddy chỉ cho anh một chiếc ghế bành.
- Bạn tôi cho biết rằng bà có một gói bưu phẩm cần chuyển đi. - Motok nói.
Gói thuốc men và quần áo cho Lidia Petrovici đã để sẵn giữa bàn. Motok nhìn xem địa chỉ người nhận.
- Chỉ cần trao cho anh đày tớ của bà Debora Paternik nhân hậu và nói là “gửi cho Lidia”, thế là được.
Motok bỏ gói bưu phẩm vào chiếc vali da. Anh ta đứng lên và toan cáo từ.
- Tôi nhờ anh chỉ giao cho một mình người đày tớ hầu phòng. Ông ta tên là Duppelhof. Đó là một ông già tóc trắng bạc. Anh sẽ nhận ra ông ta dễ dàng thôi. - Eddy bảo - Vả lại ông ta là kẻ duy nhất ở với bà Debora Paternik nhân hậu. Tuyệt đối không giao cho bọn lính, bọn gác cổng. Họ có hỏi thì cứ mặc họ.
Motok nghiêng mình, ý nói anh ta sẽ thực hiện nhiệm vụ này đến nơi đến chốn.
- Chắc là ông thẩm phán đã nói cho anh rõ: trong cái gói này, chỉ có một ít thuốc men gửi cho bà chị họ tôi bị bệnh, chứ chẳng có thứ gì khác. Milostiva Debora Paternik là phu nhân Ngài Quốc trưởng nước Slaves độc lập.
- Tôi biết! - Motok nói Bàn tay mang găng của anh đã cầm lấy chiếc quai xách của chiếc vali.
- Tôi cần gửi cho anh bao nhiêu thù lao đây? - Eddy Thall hỏi.
- Thưa bà, không phải lo chuyện đó! - Anh ta đáp - Trái lại tôi lấy làm sung sướng được giúp bà cái công việc nhỏ mọn này.
Nhưng Motok hiểu rằng từ chối bất cứ điều gì với một phụ nữ là không được lịch sự, nên anh ta nói tiếp:
- Nếu bà có ý định ban cho tôi một niềm vui lớn thì tôi sẽ vô cùng sung sướng được nhận một chiếc vé đặc biệt đi xem biểu diễn “Nữ HOÀNG SABA” vào buổi tối thứ sáu. Nhân tiện tôi sẽ báo lại với bà rằng gói đồ đã được trao tận tay.
Anh cất vào túi tấm danh thiếp có chữ ký của Eddy thay cho vé vào nhà hát và nói:
- Tôi sẽ trở về tối thứ sáu vào hồi bảy giờ. Trước khi mở màn buổi diễn, tôi có đủ thì giờ tạt qua nhà một vài phút để thay áo quần... Tôi hết sức cảm ơn, thưa bà!
Anh ta đi về phía cửa, vẫn bước chân ấy. Cách ăn mặc, nói năng, đi đứng của Schaffner Motok khiến người ta nghĩ tới những cái máy đồng hồ và sự chính xác của những giờ tàu chạy. Eddy Thall gọi điện thoại cho Pierre Pillat để báo cho anh biết Motok đã tới và để cảm ơn anh.
- Đây là lần đầu tiên tôi gửi bưu phẩm cho Lidia mà không phải nơm nớp lo sợ và tin chắc nó sẽ tới nơi. Tôi cảm ơn anh, Pillat.
- Schaffner Motok là con người có thể tin cậy.
Trong lúc đó, Schaffner Motok dừng lại ở ngưỡng cửa. Trước khi ra đường, anh ta vừa đi vừa cài khuy đôi tất tay.
Anh muốn bao giờ cũng chỉnh tề trước khi ra đường.

V

Tôi tin rằng mọi việc rồi sẽ thu xếp ổn thỏa thôi.
- Tôi có gặp chuyện không may, nhưng đã qua rồi.
Eddy đang ngồi, hai chân xếp bằng trên chiếc ghế bành, như mỗi lần nàng thấy lòng vui vẻ. Đối diện với nàng là Max Reingold với chiếc kính gọng vàng, ăn mặc như mọi ông chủ nhà băng trên thế giới. Cực kỳ lịch sự. Kín đáo. Đắt tiền. Ông ta là giám đốc hành chính của nhà hát, vừa là người cộng tác vừa là người bạn của thân sinh Eddy Thall.
- Lần đầu tiên bác tới thăm không báo trước, đó là một điều vui lớn cho cháu. Mấy hôm nay, cháu đến là khổ sở. Người ta buộc cháu phải thải Tinka. Người ta đã tịch thu mất một gói bưu phẩm gửi cho Lidia. Gã đưa thư là một tên mật thám. Có thể cháu còn gặp nhiều điều phiền phức. Cảnh sát đã tới. Bây giờ thì tất cả đã trở lại trật tự. Tất cả sẽ trở lại bình thường thôi. Bác tới. Thế là bây giờ cháu vui, rất vui là đằng khác.
- Con gái thân mến ơi! - Max Reingold nói - Bác không ngồi được lâu. Còn nhiều việc lắm! Rất tiếc là bác chỉ đến để làm tan vỡ niềm vui của cháu. Nhưng là việc bắt buộc cháu ạ! Nhà hát của chúng ta bị đóng cửa!
Eddy Thall đứng phắt dậy.
- Các nhà hát Do Thái đã phải đóng thêm một khoản thuế phụ. - Max Reingold nói - Đó là chuyện cũ. Khoản thuế này có thể nộp chậm hoặc miễn giảm. Lần này thì khác. Bác đã nhận được lệnh của Bộ Nội vụ phải nộp ngay trong vòng bốn mươi tám giờ hai triệu Lêi [2], hoặc đóng cửa. Một trong hai việc đó. Phải đóng cửa thôi! Chúng ta lấy đâu ra một số tiền như vậy? Lại không được phép hoãn một giờ!
Max Reingold đứng lên. Ông toan bước ra.
- Bác chẳng có việc gì để ở lại nữa. - Ông nói - Không có gì phải bàn bạc cả. Điên rồ hết rồi! Tối nay, cháu tới dùng bữa tối với bác Rebecca và Esther. Hôn cháu.
Esther là con gái Max Reingold. Rebecca là vợ ông. Eddy Thall rất quý họ, nhưng giờ đây nàng không còn có thể dành thì giờ để nghĩ tới họ nữa.
- Có thể có một giải pháp: tiếp tục biểu diễn bằng tiếng Yiddish [3]. Có điều diễn viên của ta là người Do Thái nhưng lại không nói được tiếng Yiddish. Khán giả cũng vậy. Chỉ còn cách đóng cửa.
Eddy Thall cố giữ ông lại. Max Reingold vuốt lên trán nàng. Ông lại gọi Eddy là Liebes Kind - con gái thân yêu - như cha nàng thường gọi nàng trước kia. Và ông ra đi. Đến ngưỡng cửa, ông quay lại: Eddy, có hai ông nào muốn gặp cháu đấy!
Max Reingold vẫn để mở cánh cửa nhà Eddy Thall cho hai người khách đang chờ bước vào.

VI

- Các ông là người của cảnh sát? - Eddy Thall hỏi.
Nàng nhìn hai người đàn ông. Cả hai người đều mặc áo mưa và một trong hai người có mang cặp.
- Các ông muốn gì ở tôi nữa? Các ông tới kiểm tra việc tôi thải hồi bà quản gia của tôi ư? Có những ông khác đến rồi.
Hay đến về việc đóng cửa nhà hát của tôi? Các ông muốn điều tra thêm những vấn đề gì nào?
- Chúng tôi là thành viên cộng đồng Israel. - Người xách cặp nói - Chúng tôi đến về vấn đề quyên góp áo quần.
Eddy Thall nhìn hai người đàn ông. Khó mà đoán biết tuổi họ. Tuy nhiên, qua con mắt, nét mặt, cử chỉ, giọng nói của họ đều toát ra một niềm đau khổ. Trong cái nhìn của họ người ta thấy có sự nhục nhã và lo âu.
- Bà biết - Người đàn ông không mang cặp nói - rằng mỗi công dân gốc Do Thái phải góp cho các Hội từ thiện của Nhà nước một số quần áo phù hợp với mức sinh hoạt của mình.
Eddy Thall bấm nút chuông gọi và khi Tinka ra thì nàng bảo:
- Các vị đây muốn quyên góp quần áo cũ cho Cộng đồng Israel.
- Không phải cho Cộng đồng. - Người đàn ông không xách cặp nói - Cuộc quyên góp này là cho các Tổ chức từ thiện của Chính phủ. Cộng đồng chỉ có trách nhiệm đứng ra thu góp.
Người đàn ông thứ hai rút từ trong cặp một cuốn sổ và mở ra.
- Theo mức thu nhập khai báo ở phòng thuế thì bà phải cho ba đôi giày, bốn áo dài và hai áo măng tô.
- Các ông muốn lấy thứ gì thì cứ lấy! - Eddy nói.
Nàng mở cánh cửa tủ treo áo. Tất cả mọi áo quần đều treo ở đó. Nàng run lên cầm cập.
- Nếu Chính phủ đã lệnh cho các ông tới thu quần áo của tôi thì các ông cứ việc thi hành. Hãy lấy đi! Và nếu các ông thấy chưa đủ thì lột luôn những chiếc tôi đang mặc, để tôi trần truồng.
Eddy Thall đi vào nhà tắm, khóa trái cửa lại và khóc.
Hai người đàn ông nhìn vào tủ, thấy hàng chục chiếc áo dài, những bộ y phục mà Eddy Thall từng mặc ra sân khấu để biểu diễn những vai lớn của nàng.
- Đây tôi mang cho các ông một vài quần áo cũ. - Tinka nói - Nếu chưa đủ thì các ông hãy trở lại lần nữa.
Bà dẫn họ xuống nhà bếp, mở ra trước mắt họ một bọc to đựng những quần áo, giày dép và các thứ linh tinh cũ kỹ. Hai người đàn ông lựa chọn một số, gói lại rồi cáo biệt.
Thế là vừa đủ cho họ.
Eddy Thall vào nhà bếp. Trên ghế có hai đôi giày khiêu vũ màu đen, giống như hai cánh hoa. Đó là những đôi giày của nàng khi còn là nữ sinh lớp múa thuê.
- Sao vú lại bỏ đôi giày này ra làm gì?
- Tôi định cho họ. - Tinka đáp - Nó trong cái rổ đựng đồ cũ vất đi ấy mà! Nhưng bọn chúng nó không thèm. Họ bảo rằng cái đôi này không thể coi là giày được, thậm chí cũng không phải là dép! Và họ bỏ lại.
- Tinka này! - Eddy bảo - Vú biết là nhà hát của ta bị Chính phủ đóng cửa. Tối mai là buổi biểu diễn cuối cùng. Họ lấy quần áo chúng ta, họ bắt con người chúng ta, họ tịch thu nhà hát chúng ta. Tôi sẽ làm gì bây giờ, Tinka? Vú nói đi! Tôi phải làm gì đây? Bởi tôi vẫn cứ phải làm một cái gì trước khi Chính phủ lấy luôn mạng sống của tôi chứ? Nhưng từ đây cho tới lúc đó thì tôi phải làm gì đây?
Tinka vuốt ve mái tóc của nàng. Bà không thể nào trả lời khi Eddy Thall hỏi bà trong nức nở:
- Tinka, vú nói đi! Tôi phải làm gì đây?

VII

Chuyến xe lửa của Daniel Motok đến thủ đô Quốc gia độc lập bị trễ. Một tiếng đồng hồ trước đó, đường sắt bị quân du kích phá hủy. Motok bàn giao lại giấy tờ của toa giường nằm. Anh ta báo cáo nhanh gọn. Anh đứng trước tấm gương soi chỉnh đốn lại bộ đồng phục thêu những chữ cái vàng của Công ty Toa nằm và khoác lên vai một tấm áo choàng. Anh xách chiếc vali có gói bưu phẩm ở trong và đi về phía khu những biệt thự, trong đó có ngôi nhà của Milostiva Debora Patemik.
Thành phố đã chìm lâu trong bóng tối, như tất cả mọi thành phố khác của châu Âu trong thời kỳ chiến tranh, Motok nhìn đồng hồ rồi rảo bước nhanh lên để tới nơi kịp trước chín giờ như đã hứa với Eddy Thall.
Bà Debora Paternik không đội vương miện. - Viên Schaffner mơ màng suy nghĩ - Bà không đội vương miện mà bà giống như một vị nữ hoàng. Đó là vị Đệ nhất Phu nhân của Quốc gia độc lập của những người Slaves phương Nam. Anh chàng Schaffner Motok cũng biết mơ mộng như những đứa trẻ con, những cô thiếu nữ, những nhà thơ mơ mộng.
Anh ta không còn buồn chán như những hành khách khác của chuyến tàu. Anh ngồi trên ghế của anh và mơ màng như đang xem một cuốn phim, hay dở từng trang họa báo nhiều màu. Con tàu của anh có thể trễ bảy tiếng đồng hồ, hoặc nằm trên một con đường tránh. Nhưng anh không buồn chán tí nào. Anh không phải chỉ có một mình. Anh mơ mộng, cũng y hệt như giờ đây anh đang mơ tới bà Debora Paternik, tay vẫn xách chiếc vali và đôi chân bước gấp. Anh mơ nghĩ tới những bức ảnh của các nữ hoàng trong những cuốn sách lịch sử để hình dung bà Debora Paternik một cách dễ dàng hơn. Anh hãnh diện sẽ được bước chân vào cái lâu đài lịch sự ấy và đưa gói đồ cho Ivo Duppelhof, người đày tớ có mái tóc óng ánh bạc của bà.
Motok đang mơ màng, bỗng giật nẩy người lên vì hàng chục tiếng còi báo động đột ngột nổi lên trên thành phố chết.
Anh nép mình sát bức tường, bên phải con đường cái. Trên đầu anh, vòm trời như nổi lửa. Những đám lửa từ mặt đất phụt lên cùng một lúc với tiếng còi rú và tiếng động cơ nổ ầm ầm. Nền đường rung rinh. Bức tường Motok đang nép rung rinh. Cả những cây to hai bên đường dường như cũng rung rinh. Năm chiếc môtô đèn pha bật sáng và bóp còi inh ỏi đang bò lên con dốc sau lưng anh. Motok bỗng nhiên bị ngập vào một luồng sáng cháy mắt. Anh có cảm giác là những ngọn đèn pha đang lột hết quần áo anh ra. Anh nép sát mình vào bức tường đá.
Anh cảm thấy mình trần truồng. Tiếp sau xe máy là ba chiếc ôtô vừa bóp còi vừa bật đèn sáng trưng chạy theo. Rồi lại nhiều xe môtô khác. Motok tái xanh mặt mũi. Cả đoàn xe cơ giới từ dưới thấp đi lên như xuất hiện từ trong lòng đất giờ đây có vẻ như đang chạy lên đến tận trời. Bởi những tiếng còi càng ngày càng xa dần vào trong mây theo hướng những ngọn đèn pha chiếu sáng. Motok rùng mình.
Anh quay đầu lại. Kề bên anh cũng có một người khác, một người đi bộ, nép mình bên bức tường.
- Milan Paternik!
Những người lái xe máy mặc măng tô da, đội mũ sắt ánh lên dưới luồng sáng của những đèn pha, như thể người họ làm bằng kim loại. Những khuôn mặt, những đôi giày ống, những chiếc xe... tất cả đều ánh lên màu thép. Và họ đi qua như một đạo quân cơ giới của Ngày Tận thế. Mắt của Motok đau nhói lên vì ánh sáng gay gắt của những ngọn đèn pha và ù cả hai tai. Anh lại quay người vào phía tối.
- Tướng Milan Paternik chỉ đi lại ban đêm với ba chiếc ôtô và hai chục chiếc xe máy. Đó là đội cơ giới của sự chết chóc: đèn pha, còi và tốc độ 120 kilômét/giờ. Vị tướng Milan Paternik ấy, hắn ta không bao giờ đi lại bằng một phương tiện nào khác. Chỉ có điều là một ngày nào đó, hắn ta sẽ bị vỡ mật.
Người ta không thể đi lại theo kiểu ấy mà không bị vỡ mật một ngày nào đó.
Người lạ đứng bên Motok cười, một tiếng cười rùng rợn.
Mùi rượu mạnh tỏa ra từ con người của hắn. Hắn nói tiếp:
- Ông bạn có biết tướng Milan Paternik đi đâu không? Chắc chắn là người ta báo với hắn rằng tại một xó xỉnh nào đó trong thành phố đã phát hiện ra một người Do Thái hoặc một người theo đạo chính thống Kitô. Tất nhiên là một sự tố giác láo! Bởi lâu lắm rồi, tại cái Quốc gia độc lập của những người slaves phương Nam này làm gì còn bóng dáng một người Do Thái hoặc một người theo đạo Kitô nào? Họ đã bị giết sạch sành sanh, từ lâu... Vậy mà Milan Paternik vẫn cứ xuất hiện với cái đạo quân cơ giới giết người của hắn mỗi khi nghe tin có một người Do Thái lẩn tránh đâu đây. Hắn ta muốn tự chính tay mình tiêu diệt tên Do Thái đó. Và giờ đây hắn tìm đến nơi mà người ta tố cáo là có một người Do Thái. Nhưng hắn ta sẽ chẳng tìm ra một tên Do Thái nào nữa đâu!.... Thôi, xin chào!
Milan Paternik không tìm thấy người Do Thái nào nữa. Hết sạch sành sanh rồi!
Người lạ đi xa, khuất chìm trong đêm tối.
- Eddy Thall có nói với mình - Motok suy nghĩ - rằng Lidia Petrovici là người Do Thái. Nhưng người lạ này thì quả quyết không còn một ai.
Motok vội rảo bước đi tới nhà bà Debora Paternik rất mực nhân hậu.

VIII

Những cánh cửa của lâu đài Milostiva Debora Paternik mở toang. Hai chục chiếc môtô đi vào trong sân.
Tiếng còi rú chấm dứt. Những ngọn đèn pha vẫn để sáng và động cơ vẫn nổ, sẵn sàng xuất phát. Những con người mặc áo da, đội mũ sắt, đi giày ống và mặt mày lấp lánh như kim loại vẫn ở trong đội hình và trong tư thế hành quân.
Milan từ trong chiếc ôtô giữa bước ra. Hắn ta bước lên chiếc cầu thang cẩm thạch. Trông hắn giống hệt một cậu học sinh trung học. Chỉ có chiếc quân hàm cấp tướng, những ngôi sao trên mũ và những chỉ vàng viền trên tay áo ngoài của hắn đang ánh lên dưới những ngọn đèn pha xác nhận rằng hắn không phải là một cậu học sinh. Hai người đàn ông cao lớn mặc áo da, đã đứng gần bên cửa. Chuông gọi của lâu đài réo lên không ngớt, như những hồi còi. Cánh cửa mở ra. Milan Paternik không đợi. Hắn đi thẳng lên các bậc cầu thang, không nhìn cả Ivo Duppelhof- người đày tớ - và bước những bước nặng nề trên những tấm thảm màu sẫm. Hắn đi vào phía phòng khách.
Hai tên cảnh sát mặc áo da vẫn đứng ở tiền đình. Những tên khác thì đứng ngoài, như có ý bao vây lấy tòa lâu đài vậy.
- Mời mẹ ta đến đây! - Milan Paternik thét.
Bây giờ hắn đã ở trong phòng khách. Một mình. Hắn đứng trước tấm gương soi đồ sộ, đưa bàn tay đeo găng lên sờ đôi má hóp, xanh mét như má người bị bệnh. Đoạn hắn lại quan sát đôi mắt của mình, đôi mắt nhìn mệt nhọc nhưng mà tàn nhẫn. Hắn cũng đã quan sát chiếc áo choàng của hắn, những ngù vai to tướng bằng vàng hắt những ánh hào quang vào mặt hắn như những chiếc đèn pha.
- Ta mệt mỏi...- Hắn nói với mình. Hắn thấy tự hào về nỗi mệt mỏi của hắn mà không hề mặc cả những giờ giấc dành cho giấc ngủ của hắn.
Tại buồng bên cạnh, Milostiva Debora Paternik đang sửa soạn bước sang phòng khách. Ivo đang đứng kề bên cửa.
- Đang bị kích động mạnh à? - Bà Debora hỏi.
- Như thường lệ, thưa bà! - Duppelhof đáp - Kích động rất mạnh!
Bà thực tình không muốn nói chuyện lúc này. Nhưng mà không ai có thể cưỡng lại ý muốn của Milan Paternik con trai bà được. Chẳng mấy khi hắn đến gặp bà. Các buổi nói chuyện giữa hai mẹ con luôn luôn căng thẳng và thù địch.
- Rất kích động ư? - Bà hỏi và khoác tấm khăn mỏng màu đen lên vai.
- Thưa bà vâng, rất kích động - Người hầu phòng trả lời.
Milan Paternik năm nay hai mươi sáu tuổi. Mọi người đều hay biết sự nghiệp của hắn, kể cả bọn trẻ con. Một tay hắn đã giết tám trăm ngàn người Do Thái và Kitô chính thống.
“Hình phạt nặng nề nhất đối với một bà mẹ là có một đứa con giết người... Một đứa con tắm mình trong máu”.
Bà lau giọt nước mắt, một giọt nước mắt nhỏ xíu, như hạt trân châu. Và bà đi vào phòng khách, mắt nhìn cao, bước thẳng. Bây giờ thì bà đang đứng trước mặt con trai bà.
- Vì sao con cứ phải đeo lấy chiếc áo choàng làm gì, Milan? Bà Debora hỏi. - Con đi ra sẽ bị cảm lạnh đấy.
Hắn ta không hôn tay mẹ. Hắn xoa tay một cách cáu kỉnh.
Vẫn đứng sừng sững.
Bà Debora nhìn khuôn mặt nhợt nhạt, đôi mắt mệt mỏi và đôi vai mỏng manh của con. Bà không nhìn thấy những quân hàm và những ngù vai cấp tướng. Trong lúc này, bà chỉ nhìn thấy con bà đang mệt mỏi, xanh xao, làm việc quá nhiều. Và bà thấy tim bà đau nhói. Con trai của bà đây. Bà bước lại gần.
- Đưa tay mẹ xem, Milan! - Bà bảo - Con gầy đi bao nhiêu?
Hai bàn tay khô đét của bà Debora nhân hậu cầm lấy bàn tay của Milan Paternik. Nó vẫn mang găng.
- Con mang găng nữa làm gì? - Bà hỏi.
Bà nhìn thẳng vào đôi mắt con trai. Bà muốn hôn lên vầng trán cao của Milan, vầng trán của con, nhưng bà không đủ can đảm. Bà nắm chặt hai bàn tay vẫn đeo găng của con, không buồn bảo con cởi găng tay ra nữa. Bà biết Milan sẽ không nghe lời bà. Hắn cứng đầu lắm. Hắn cứng đầu từ cái tuổi bé thơ!
- Mẹ! Con khổ lắm...- Hắn bảo.
- Con hãy kể hết những nỗi buồn phiền của con cho mẹ nghe, Milan! - Bà càng nắm chặt đôi bàn tay đeo găng da - Mẹ sẽ giúp con. Con hãy nhìn thẳng vào đôi mắt mẹ đây! Đừng nhìn chỗ khác. Hãy nhìn mẹ như ngày xưa còn bé bỏng con thường nhìn!
Trong một giây, hắn nhìn khuôn mặt trắng trẻo, có nhiều nếp nhăn của mẹ. Ngón tay hắn nắm ngón tay Milostiva chặt hơn một chút. Rồi hắn lại nhìn quay đi.
- Điều mà con sắp nói với mẹ đây sẽ rất nặng nề đau đớn mẹ ạ?
- Không ai hiểu sự khổ đau cho bằng một người mẹ. Con hãy kể đi, Milan, con trai yêu quý. Điều đã xảy đến cho con nghiêm trọng đến như vậy thực sao?
- Mẹ có biết con là ai không mẹ? - Milan Paternik hỏi.
Giọng nói của hắn trở lại cứng cỏi, cũng như cái nhìn của hắn.
Milostiva nghĩ tới mấy trăm nghìn mạng người vô tội đã bị Milan tàn sát. Bà toan kêu lên vì nỗi đau thương này nhưng bà đã kìm chế được mình.
- Dù con có làm những gì thì con vẫn cứ là con của mẹ, Milan ạ! Và mẹ vẫn cứ là mẹ của con!
- Tất cả cái bi kịch là ở chỗ này! Bà là mẹ của tôi?
Milan Paternik đứng lên.
- Tôi đã yêu cầu bà trả lời câu hỏi của tôi rõ ràng và không úp mở. Tôi là ai? Một khi bà là mẹ của tôi thì tôi đoán bà hẳn phải biết điều đó!
Milostiva nhìn hắn với đôi mắt ướt lệ. Bà im lặng.
- Tôi, tôi sẽ nói cho bà biết: tôi là ai? - Tôi sinh ra cách đây hai mươi sáu năm, tại Budapest, nơi mà bà với cha tôi bị lưu đày. Cả hai người lúc đó đang lãnh đạo tổ chức chính trị Za Dom do Cơ Quan Tình báo tổ chức. Chính thức thì Za Dom có nhiệm vụ đấu tranh giải phóng đất nước chúng ta khỏi ách nước ngoài. Thực ra thì nó là một tổ chức khủng bố, hoạt động trong vùng Balkan cho đế quốc Anh. Các chị tôi và tôi được nuôi nấng trong tôn giáo của Za Dom.
Những câu đầu tiên tôi tập nói là “Tổ quốc trên hết”. Cùng một lúc với những môn tiếng Latinh, Sử, Địa, các người đã dạy cho tôi bắn súng ngắn, đâm dao găm, bắn súng tiểu liên. Các người kiêu hãnh vì tôi. Tôi chờ ngày Tổ quốc tôi được giải phóng để được trở về. Suốt hai mươi sáu năm ròng, chưa một lần nào tôi được đặt chân lên mảnh đất quê hương, điều mà tôi ước mong hơn tất cả.
- Tất cả những người bị lưu đày đều mong muốn được trở về quê hương. - Bà Milostiva nói - Đây là một mong muốn thiêng liêng, Milan ạ! Mẹ không hề ân hận về việc mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con trong tôn giáo của Tự do ấy, trong cái ước mong Tổ quốc ấy, trong cái độc lập dân tộc ấy bao giờ! Mẹ còn lấy làm tự hào đã biết nuôi nấng các con mình trong những tình cảm cao thượng.
- Bà còn nhớ chuyến du lịch đầu tiên của chúng ta sang Roma không? - Milan hỏi - Trong tất cả các nước châu Âu mà chúng ta đã cư trú, chúng ta chỉ biết có đói khổ. Chúng ta ở trong những buồng nhà trọ. Bà thì ngày đêm đánh máy những bài báo và những bản báo cáo, nấu ăn và giặt giũ quần áo.
Chúng ta vẫn cứ sống cái cuộc đời ấy mãi, ở Berlin, ở Paris, ở Budapest,ở Berne, ở Genève, ở Sofia, ở Bucarest. Nơi nào và lúc nào cũng chỉ những buồng trọ, những cuộc họp hành bí mật. Bao giờ bà cũng chỉ giặt giũ quần áo, nấu khoai tây và đánh máy như bao giờ. Rồi đột nhiên một chuyến đi Roma! Một biệt thự trên bờ biển. Tiền đầy túi. Bốn chiếc ôtô đậu dưới thềm! Lính gác. Đày tớ. Bà còn nhớ không? Mussolini mời Za Dom cộng tác với chủ nghĩa phát xít. Bọn chủ Anh của bà nói với bà rằng: đây là một lời mời không nên từ chối. Họ muốn cho Za Dom hợp tác với chủ nghĩa phát xít, lĩnh tiền của phát xít và phục vụ lợi ích của nước Anh tại vùng Balkan!
Về chính trị, những chuyện thỏa thuận ấy là chuyện bình thường. Điều chúng ta đã làm đâu phải chuyện mới mẻ? Người Anh đã ủng hộ và khuyến khích ta trên con đường ấy. Chúng ta không làm một việc gì mà không hỏi ý kiến trước của người Anh. Chúng ta đặt vào nước Anh tất cả hy vọng chúng ta, về vấn đề tự do và độc lập của đất nước.
- Sau đó thì ta nhận được thư mời chúng ta đi Berlin.
- Nước Anh lại khuyên chúng ta nên nhận lời. Đó là một chỉ thị do nhu cầu chính trị đương thời quyết định. Nhưng chỉ tạm thời.
Năm 1940, chúng ta ở Berlin. Nửa đêm chúng ta bị dựng dậy. Và người ta thông báo cho chúng ta biết rằng ước mơ của chúng ta đã thành sự thực! Mơ ước của bà, của cha tôi, của cả nước? Tổ quốc của chúng ta tự do và độc lập thật rồi! Dân tộc đã nghênh đón bà và cha tôi như hai vị anh hùng. Các người là những vị cứu tinh giải phóng đất nước. Tôi được cử làm Tổng giám đốc nha Cảnh sát. Tướng. Và ngay ngày đầu tiên từ khi giành được độc lập, tôi đã có ý định thực hiện những điều khoản khác trong chương trình hoạt động của tổ chức Za Dom.
Những điều khoản đó bà đã biết rõ. Bà đã đánh máy bao nhiêu lần mà! Độc lập, Chủ nghĩa quốc gia xã hội, chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa bài Do Thái.
Milostiva khóc.
- Một vài điểm của chương trình đã được bổ sung về sau. Bà nói tiếp - Để cân xứng với sự giúp đỡ của họ, Hitler và Mussolini đã yêu cầu ở chúng ta một tổ chức quốc gia và chống cộng. Người Anh đã khuyên chúng ta nhận. Họ bảo rằng những điều đó sẽ không bao giờ được áp dụng, rằng sau ngày giải phóng họ sẽ làm sao cho chúng ta được hưởng mọi quyền tự do dân chủ trong Quốc gia mới của chúng ta.
- Người Anh vẫn ở nước Anh và các người đã giành được tự do với sự giúp đỡ của phát xít như London đã khuyên chúng ta làm. Và giờ đây, các người đang ở một quốc gia mới của các người với của một chương trình phát xít. Về phần tôi, mẹ ạ! Tôi không hề biết có một chương trình nào khác. Tôi không hề biết rằng trong chương trình có những điểm cần thực hiện và những điểm không cần thực hiện. Tôi đã tin ở Za Dom. Và tôi không biết có cuộc sống nào khác ngoài Za Dom. Tôi đã thanh toán cho đất nước hết mọi phần tử thấp kém: Tzigan, chính thống, Do Thái. Cái ngày Himmler bắt tay tôi, khen ngợi tôi hết lòng về việc tổ chức Quốc gia mới, ông ta có nói:
- Nước Đức đã không thành công trong việc tiêu diệt toàn bộ người Do Thái như Ngài đã làm được, thưa Tướng quân! Quốc gia của Ngài là quốc gia duy nhất chỉ còn duy nhất một người Do Thái!
- Một cũng không còn! - Tôi đáp - Trong Quốc gia độc lập không còn một tên Do Thái nào!
Himmler mỉm cười và nói với tôi:
- Quốc gia Ngài còn lại một người Do Thái. Nhưng người Do Thái đó, Ngài có thể để nó sống. Bà có biết ông ta ám chỉ ai không?
- Chỉ mẹ! - Milostiva đáp - Mẹ là người Do Thái duy nhất của Quốc gia độc lập!
- Vì sao bà lại giấu mãi tôi điều đó? - Milan hỏi - Giờ đây sau khi đã thanh toán hết mọi người Do Thái cho Quốc gia, sau khi đã có bao nhiêu máu như vậy, tôi mới biết được rằng: bà là Do Thái? Chính bà, mẹ tôi!
Milan Paternik buông mình ngồi xuống một chiếc ghế bành.
- Tôi chẳng có tội lỗi gì cả. Các người đã nuôi dưỡng tôi trong niềm tin cuồng nhiệt vào đảng. Tôi đã thực hiện chương trình của đảng trong từng điểm cụ thể. Hôm nay, tôi biết ra được điều này, và cuộc đời tôi thế là xong.
Milan Paternik đứng dậy. Hắn càng trở nên xanh tái. Mặt hắn càng mỏi mệt hơn. Hắn tới gần Milostiva Debora.
- Sự nghiệp của tôi, mà đối với tôi, sự nghiệp là đồng nghĩa với sự sống và lý tưởng, đã chấm dứt rồi. Và chính vì lẽ ấy mà tối hôm nay tôi mới tới đây, thưa mẹ!
Hắn đứng vậy một hồi lâu, bất động.
- Tất cả những chuyện đó, tại mẹ cả ư?
- Tại mẹ tất cả, thưa mẹ!
Bà già đứng lên, đưa bàn tay mềm yếu vuốt ve mái đầu Milan.
- Thế là hết! - Milan bảo.
Hắn giơ cho bà thấy một ống thủy tinh nho nhỏ hắn lấy từ trong túi áo ra.
- Nếu bà thấy tôi còn có một giải pháp nào khác thì bà hãy nói. Nhưng tôi nghĩ rằng đối với tôi không còn một giải pháp nào khác ngoài tự sát. Tôi không thể có một cuộc sống nào khác ngoài Za Dom được, và Za Dom khai trừ tôi bởi tôi là con của bà, con của một người mẹ Do Thái.
- Con hãy kiên trì đợi đến ngày mai - Bà già nói. Bà lại vuốt ve mái tóc của con - Mẹ thế nào cũng tìm ra được một giải pháp giúp con. Sáng ngày mai, con lại tới đây chúng ta sẽ lại cùng nhau bàn bạc. Mẹ chỉ yêu cầu con hứa với mẹ duy nhất một điều: là con phải sống cho tới ngày mai. Mẹ tin tưởng ở lời hứa danh dự của con. Con hãy vứt cái ống thuốc kia đi!
Milan Paternik ném ống thuốc qua cửa sổ.
- Con chẳng có tội về mặt nào cả, Milan ạ! - Bà già nói - Con đã có niềm tin, đó là cái bản chất của tuổi trẻ. Cha con và mẹ, chúng ta đã có một niềm tin hăng hái và đã đấu tranh vì tự do của dân tộc chúng ta. Dân tộc chúng ta hèn yếu, nó đã cần đến người ngoài giúp đỡ. Và chúng ta đã phải cầu xin sự giúp đỡ của nước Anh. Nước Anh đã xô chúng ta vào giữa cánh tay Hitler và Mussolini. Chính nước Anh là kẻ có tội. Gott strafe England! Cầu Chúa trừng phạt nước Anh. Milan, mẹ muốn ôm hôn con!

IX

Người đày tớ hầu phòng Duppelhof đứng lặng đằng sau cánh cửa. Ông ta đã nghe trọn vẹn cuộc hội kiến giữa hai mẹ con.
- Đúng vậy. - Ivo Duppelhof tự bảo mình - Milan không biết rằng mẹ mình là người Do Thái. Người ta không thú nhận điều đó với hắn bao giờ. Mình đã đi theo họ suốt trong cuộc sống lưu đày, mình biết. Hắn đã được giáo dục nuôi nấng trong tinh thần bài Do Thái. Cha mẹ hắn đã để hắn trở thành một kẻ chống Do Thái. Họ tin tưởng vào Anh quốc. Họ nghĩ rằng tới một lúc nào đó, Anh quốc sẽ có xu hướng khác và những điểm trong chương trình có liên quan đến chủ nghĩa chống Do Thái sẽ không bao giờ được đem ra thực thi. Và thế là nó đã được thực thi mà Anh quốc không hề lên tiếng gì cả. Anh quốc không bao giờ lên tiếng gì cả!
Ngoài kia, có tiếng xe máy, tiếng còi, tiếng động cơ.
Tướng Milan Paternik vừa mới đi.
- Ivo!
Người ta nghe tiếng Milostiva Debora Paternik. Bà già đang ở trong phòng khách. Ivo rón rén bước vào.
- Ta muốn đi hóng mát một chút. - Bà nói.
Milostiva không có vẻ suy sụp gì lắm. Người đày tớ lấy chiếc áo choàng đen dài khoác lên vai cho bà. Đó là một thói quen từ lâu, khi nào bà không ngủ được. Milostiva đi ra vườn.
Ivo Duppelhof nâng cánh tay bà. Họ bước xuống, chậm rãi.
- Anh ở ngay bên cạnh trong khi ta tranh luận với Milan phải không? - Bà hỏi.
- Tôi ở ngay bên cạnh, thưa Milostiva! - Ivo đáp.
Cả hai người im lặng. Xuống tới chân cầu thang, Milostiva nói:
- Anh làm ơn quạt hộ giường cho ta! Ta sẽ lên trong nửa tiếng đồng hồ.
Bà già cầm ở tay một chiếc đèn pin nhỏ.
Ivo nhìn qua cửa sổ buồng ngủ, thấy bà đi chầm chậm với chiếc đèn điện và chiếc áo choàng đen của mình trên các lối đi rải sỏi dưới những cây dẻ.
Đêm ấy trời lạnh. Ivo đã sửa soạn xong giường. Người ta nghe rõ bước chân của bà chủ bên dưới cửa sổ, trên các lối đi, nhẹ nhàng, lao xao. Ivo nhìn bà. Bà dừng chân bên bụi hoa đinh, ra dáng tìm kiếm một vật gì. Bà cúi xuống, rồi bà ngẩng lên cửa sổ gọi:
- Ivo.
Người đày tớ đỡ bà lên lại buồng riêng và trong lúc ông cởi áo khoác ra cho bà thì Milostiva bảo:
- Pha cho ta một ít nước hãm nghe!
Ivo pha cho bà một ít nước hãm cánh hoa hồng cùng với hoa đoạn và hoa cúc cam, đặt vào một chiếc khay bạc mang đặt cạnh giường Milostiva. Bà mỉm cười cảm ơn và chúc Ivo ngon giấc.
Milostiva còn lại một mình, ngả lưng trên giường cho tới lúc không còn nghe thấy tiếng chân của người đày tớ ở ngoài hành lang nữa. Bà đứng lên, mở tủ, tìm trong cái túi da ra một chiếc giũa móng tay. Bà tới bên ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn ngủ và dùng chiếc giũa con cưa đầu ống thuốc độc. Đó chính là cái ống thủy tinh mà Milan đã rút từ trong túi áo hắn ra và đã ném đi qua cửa sổ. Bà đã tìm thấy ở lối đi, dưới bụi hoa đinh. Bà rót cái chất lỏng màu hồng nhạt vào cái tách sứ đựng nước hãm cánh hoa hồng, hoa đoạn và hoa cúc cam. Bà cho đường. Đoạn Milostiva đưa lên miệng nếm thử. Bà mỉm cười, rồi lại nếm nữa với làn môi nhợt nhạt của bà. Nước hãm thơm thơm mùi hoa hồng và cũng thoang thoảng mùi hoa đoạn và hoa cúc cam. Nét mặt Milostiva tươi tắn thanh thản. Nước hãm nóng ấm. Uống xong giọt cuối cùng, Milostiva nằm duỗi mình ra trên giường. Bà nhắm mắt lại. Và mỉm cười. Tách nước hãm để lại trong miệng bà một thoáng mùi thơm hoa hồng. Một mùi thơm tỏa lan khắp cơ thể bà, hoa hồng, hoa đoạn, hoa cúc cam.
Sáng ngày mai, sẽ không còn một người Do Thái nào nữa trong Quốc gia độc lập của người Slaves phương Nam! - Bà suy nghĩ - Tất cả mọi điểm trong chương trình của Za Dom đều đã được thực hiện. Con ta giờ đây là lãnh tụ chính trị vĩ đại nhất!
Không còn một người Do Thái nào! Milan Paternik mạnh hơn cả Himmler! Nó sẽ sung sướng. Và tự hào! Ngực nó sẽ đeo đầy huân chương! Gott strafe England. Chúa trừng phạt nước Anh.
Câu Gott strafe England vang lên nhè nhẹ bên tai bà như tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo ở buồng bên cạnh.

X

Một giờ đã trôi qua, từ lúc Ivo Duppelhof mang tách nước hãm hoa hồng sang cho Milostiva. Ông không tài nào ngủ được. Ông ngồi dậy, ra hành lang và rón rén đi tới cạnh cửa buồng ngủ. Bà Debora có bệnh bướu thịt và khi nằm ngủ bà ngáy một cách rất nhẹ nhàng. Ngay cùng buồng, người ta cũng không nghe rõ cái hơi thở của con mèo nằm ngủ ấy, hơi thở của con mèo già.
Ivo khẽ mở cửa. Căn buồng mờ mờ tối. Milostiva nằm duỗi chân trên giường, vẫn mặc cả quần áo. Một tia sáng xuyên qua tấm màn che. Mặt bà bạc phếch như một tờ giấy.
Ivo Duppelhof tiến tới cạnh giường và bật đèn lên.
- Milostiva! - Ông gọi khẽ.
Milostiva không trả lời. Ông ta sờ tay bà và nhìn xung quanh. Trên bàn ngủ, ông thấy cái tách, cái giũa móng tay và một ống thuốc không.
- Milostiva! Milostiva! - Ông kêu lên và lặp lại to hơn nữa - Milostiva!
Bà vẫn nằm bất động.
- Đứa sát nhân! - Ivo Duppelhof kêu lên - Đứa sát nhân! Nó đã giết mẹ nó!
Ivo Duppelhof muốn kêu cứu. Ông muốn gọi bọn lính gác.
Nhưng ông không thể nào có được một quyết định. Ông đứng bất động, kề bên giường. Sau đó ông quỳ gối, ông cầm lấy tay người chết đặt lên một cái hôn rồi lại đặt nó lên ngực. Ông làm dấu thánh giá.
Ông đứng lên đi ra phía cửa. Tới ngưỡng cửa, ông dừng lại ông nhìn thi hài bà già trên giường, hai tay khoanh trước ngực, với chiếc áo dài nhung đen, chiếc áo choàng buông rũ xuống trên tấm thảm như một cánh chim bị trúng thương. Ivo Duppelhof trở lại buồng mình.
Ông sửa soạn vali, mặc chiếc áo khoác và với cử chỉ vội vàng ông xem lại tờ hộ chiếu cũ của ông có dấu thị thực của Thụy Sĩ rồi cất vào trong túi áo. Rồi ông nhìn xung quanh.
Trên mắc áo còn treo bộ y phục hầu phòng cầu vai mạ vàng của ông. Ông không cần đến nữa. Ngoài chiếc vali và tờ hộ chiếu, ông không cần lấy một thứ gì trong cái phòng này nữa.
Hoàn toàn không.
Ông lại trở vào buồng Milostiva lần nữa, tay trái xách vali và tay phải cầm mũ. Ông cầu nguyện trước người đã mất!
- Giờ đây, bà không cần đến tôi nữa, thưa Milostiva! - Ông nói.
Ông cúi đầu im lặng.
- Cũng không còn cả lý do nữa để tôi tiễn đưa bà ra nghĩa địa! Vĩnh biệt! Milostiva!
Người đày tớ vẫn để đèn sáng. Ông vẫn cầm mũ. Ông lau đôi mắt đẫm lệ rồi ông bước ra khỏi tòa lâu đài của Milostiva Debora Paternik qua cổng phụ.
- Bốn mươi năm mình làm đứa ở cho Milostiva...ông đi về phía trung tâm thành phố.
- Bây giờ mình trở lại Thụy Sĩ. Trở lại quê hương xứ sở của mình.