hưởng dinh Nguyễn Cửu Kiều mang bộ sách Quốc Ngữ mới vừa biên soạn cẩn thận, gần như kể về những truyện thời Đông Chu Liệt Quốc và Kinh Dịch cho chúa Nguyễn Phúc Tần xem qua. Gần như, ông ta hàm ý muốn nói mọi chuyện khuyên răn chúa đều từ trong sách vở mà ra, chứ mình không phải là người đặt điều. Chúa Nguyễn Phúc Tần chìu theo ông ta, đọc lại câu chuyện về Ngô Thừa Sai và Việt Vương Câu Tiễn cống nạp Tây Thi. Lúc này, chúa mới nhận thấy có những việc gần na ná nhau giữa thời xa xưa và thời của mình. Thị Thừa sống bên kia sông Gianh, nàng chịu làm gián điệp cho quân Trịnh ắt không còn chuyện gì mà không biết. Còn về việc Tây Thi có tình cảm riêng tư với Phạm Lãi làm chúa cũng thấy na ná giống với Đào Thừa và Nguyễn Hữu Cảnh. Tình yêu của con người hình như là có thật, chúa biết Thị Thừa vẫn không quên Cai cơ và vẫn thường hay nhắc đến tên người mình yêu.
Bấy lâu nay, chúa gần như quên mất việc Cai Cơ không về chầu. Có lẽ, phần nào đó giận hờn việc Đào Thừa tiến cung. Chúa cảm thấy việc tiến cung là do nhà Nguyễn Hữu Dật mong muốn, còn mình đâu có ép uổng việc đó. Thế rồi, chúa nguyễn Phúc Tần muốn cách gì đó giảng hòa, chi bằng ra chiếu chỉ cho Cai cơ về chầu để thăm dò việc tình cảm của hai người.
Khi người thân tín phi ngựa mang chiếu chỉ ra biên ải, Chưởng Dinh Nguyễn Cửu Kiều ái ngại:
-  Kính chúa! Bấy lâu nay thần ái ngại việc về chầu của Cai Cơ. Nay chúa ban lệnh cho Cai Cơ Nguyễn Hữu Cảnh về chầu có phải như mang cọp vào chầu, đâu thể nào đoán biết trước được con hổ ấy hiền hay hung tợn. Vả lại, chúa là người tối thượng, đường hoàng trên ngôi bệ không lẽ một cung nữ bình thường như Thị thừa chúa không quyết định được...Mong chúa suy xét, phải ra tay giết Thị thừa trước, tránh xảy ra những việc không hay ho nào đó.
-  Ta muốn cho hai người nhìn lại nhau, xem xét họ có còn yêu thương nhau nữa không? Giờ ta nghĩ lại, việc Thị thừa tiến cung gây ra bao nhiêu chuyện phiền toái, lại làm cho Cai Cơ đau khổ vô cùng. Ta muốn cho họ gặp lại hoặc cho họ cơ may nào đó.
-  Kính mong bệ hạ suy xét lại. Dù sao, cung tần mỹ nữ của chúa thượng không ai được đụng đến. Nếu như không muốn dùng nữa, họ phải chết...
Chúa Nguyễn Phúc Tần chấp tay ra sau, không muốn nghe thêm lời nào nữa. Nhưng Chưởng Dinh Nguyễn Cửu Kiều dập đầu xuống đất, khư khư là phải hàng động mau chóng trước khi Nguyễn Hữu Cảnh về cung. Đằng nào chúa cũng không dùng nàng nữa, tại sao mình phải thêm trò cho thêm phiền toái.
Chưởng Dinh cứ dập đầu, còn chúa thì khó nghĩ ngợi. Chúa Nguyễn Phúc Tần gật đầu, rồi cho ông ta lui ra. Thế rồi, ngay ngày hôm đó. Chúa nhờ Đào Thừa mang tấm áo ngự bào trong có giấu một bức thư, gởi cho Chưởng Dinh Nguyễn Cửu Kiều giao toàn quyền định đoạt cho ông ta.  
Thoạt nhìn Đào Thừa quá xinh đẹp, Chưởng Dinh Nguyễn Cửu Kiều cũng nao nao trong lòng. Sau khi đọc bức thư giấu trong vải áo ngự bào, đọc thấy những nỗi lòng băn khoăn của chúa. Ông ta cũng cảm thấy khó khăn trong việc định đoạt phận số của nàng, và có ý như muốn hòa hoãn, làm sao nàng phải là người phục vụ mình một lần đã. Ông ta phũ đầu:
-  Ngươi là một người con gái đẹp! Thế rồi ngươi có biết làm mê hoặc chúa, là làm tội tình mấy bà phi không?
-  Chưởng dinh nói gì thiếp không rõ...Khi thiếp được tiến cung, thiếp chỉ biết làm sao cho chúa công vui nhất mà thôi.
-  Đó là một tội lớn mà ngươi cố tình đấy...
-  Thiếp chỉ biết được là mình đẹp, người ta ngắm nhìn thiếp và người ta mê hoặc. Mọi người ai cũng muốn làm cho người khác vui hơn, thiếp chỉ biết có vậy. Chúa thượng cũng muốn vậy, ý của chúa thượng là ý muốn tối thượng. Thiếp biết làm sao bây giờ.
Rõ ràng Thị Thừa thơ ngây đến đáng tội, nàng không biết gì về sự chiếm dụng. Đôi khi người ta muốn có người con gái đẹp bên mình, nhưng vì những ràng buộc nào đó người ta không thể thực hiện, tức thì rất dễ bị lên án.
Tiếng nói nhỏ nhẹ của Thị Thừa như cào cấu vào sự thèm khát của Nguyễn Cửu Kiều. Ông ta cũng ham muốn được nàng hầu hạ một lần, một chút loáng thoáng trong đầu, rằng như lời lẽ của chúa trong tâm thư cho ông ta toàn quyền quyết định. Nguyễn Cửu Kiều lần lựa một lúc rồi quyết định trước lúc thuốc độc nàng, thì tại sao mình không một lần thưởng hoa.
Thị Thừa đang dần đến cái chết thê thảm mà còn bị nhơ nhuốc nữa, nàng đâu biết rằng thái độ nhẹ nhàng của Chưởng Dinh là những lời bóng gió có ý hãm hại tiết hạnh, mà còn là lời tuyên bố sớm kết thúc một mạng người. Ông ta cho những người hầu ra ngoài, bất chợt choàng lấy Thị Thừa và thỏ thẻ vào tai nàng những lời dụ dỗ:
-  Ngươi có biết là ta can gián chúa thượng đừng giết ngươi không? Ta cũng mê đắm ngươi vô cùng, nhưng phận ta làm sao được đụng chạm tới người của chúa công được...
-  Chưởng dinh nói sao vậy? Thần thiếp được dạy giữ gìn tiết hạnh với chúa công rồi, không thể được...
Thị Thừa giãy nảy, rồi thoát ra được khỏi tay Nguyễn Cửu Kiều. Ông ta sửa lại mủ mão, rồi nghiêm khắc:
- Ngươi đâu biết là ta có thể định đoạt số phận của ngươi rồi, ta là người bày kế nói ngươi là gián điệp của quân Trịnh đấy. Chúa thượng rất tin ta, ngươi phải chết chứ đừng có mà giữ gìn tiết hạnh...
- Tại sao Chưởng dinh m;'>
-  Mấy người đó mò tìm kiếm con.
-  Mấy người tìm kiếm gì mô?- Bà vợ họ Đào cũng hỏi.
-  Cậu Cảnh...
-  Cậu Cảnh đứng trên này đây, tìm chi rứa...
Bấy giờ mấy người kia mới dừng tay, ngước lên thấy Cảnh cũng còn tò mò không biết họ tìm gì hăng hái thế. Mọi người cười ngất ngây, lên bờ mà còn ôm bụng cười.
-  Chỉ vì cậu Cảnh đen thui thủi không dễ nhìn thấy...
-  Cái con bé Thừa này, chơi cắc cớ...
-  Không chơi cắc cớ...Chỉ tại chúng ta không chịu hỏi kỹ. Cái tay nó chỉ cong xuống hồ, chứ ý nó thì nói là sau cái dây trầu.
Hai người lính vừa có ý mừng, vừa có ý tủi hổ. Nhìn con bé Thừa xinh xắn phán cho một câu.
-  Hoạ vô đơn chí là ngươi đó nghe chưa?
Hai tên lính cố tình “lùa” mấy anh em Nguyễn Hữu về doanh trại. Trời cũng đã ngã xuống núi, cuộc chơi của mấy đứa nhỏ cũng dừng lại. Hai bên ngoắc tay hẹn hò mai chơi tiếp, Cảnh cũng liếc Thừa vì hai đứa để cho người lớn một vố vui ghê: “Ai biểu mấy đứa lớn không cho mình chơi chung”. Tạm biệt cô gái nhỏ xinh xoắn, còn mình là cục than đen được mẹ dắt tay về.
Chuyện ấy chưa đến độ nghiêm trọng, nhưng trách nhiệm hai tên lính không phải là không có. Chúng bị quở trách, rồi buồn rầu xin sang phục dịch ở cánh quân Nguyễn Hữu Tiến. Đó là người vị kỷ, hay ưa dèm pha. Bởi vì Chúa Nguyễn Phúc Tần luôn luôn thương yêu Nguyễn Hữu Dật nên lúc nào cũng có ý ganh tỵ.
-  Ta biết Nguyễn Hữu Dật có ý đưa vợ con ra Đàng ngoài, quê ở Thanh Hoá thì tìm cách về lại đất Thanh hoá đó thôi.
Trước đây năm 1650, Nguyễn Hữu Dật có lần bị chúa Nguyễn bắt nhốt. Nguyễn Hữu Dật định dùng kế trá hàng chúa Trịnh, viết thư hẹn về hàng Bắc hà. Tôn Thất Tráng liền tâu chúa Nguyễn rằng ông muốn theo chúa Trịnh. Chúa Nguyễn Phúc Tần liền bắt giam. Trong ngục, ông viết tập thơ ‘‘Hoa Văn cáo thị’’, tỏ nỗi oan khuất. Chúa Nguyễn lại tha ông ra, sai làm tướng đánh ra Nghệ An.
Nguyễn Hữu Tiến người thẳng thắng, một lòng trung thành với triều Nguyễn. Cho nên ông có phần nào đó nghi kỵ Nguyễn Hữu Dật cũng đúng, lại thêm Nguyễn Hữu Dật được lòng chúa Thượng nên có dịp là hay dèm pha: Ý đồ của Nguyễn Hữu Dật là mong muốn con cái ra chiến trường càng sớm càng tốt, trong khi đó thì bị nghi kỵ có ý theo quân Trịnh.


Chương III

     hỉnh thoảng nơi trú ngụ, Nguyễn Hữu Cảnh thấp thoáng thấy quân Trịnh ở xa xa ngoài thành. Ở trong, Cảnh thấy súng đại bác cũng được đậy kỹ bằng mấy tấm phên bằng tranh, nên biết là đang nghỉ ngơi. Nguyễn Hữu Cảnh luồn qua mấy tên lính đang chơi cờ, hướng ra ngoài nhà họ Đoàn.
Phía bụi tre, có một cục đá núi to to nằm chõng trơ một mình. Thị Thừa ngồi quấn lá dừa thành một cây kèn. Cảnh lẻn êm ái ra sau lưng, đứng lên đó chỉ tay như tướng Trần Hưng Đạo đánh quân Nguyên Mông:
-  Ta sẽ mở rộng biên cương về Nam, rồi thống nhất sơn hà cho muội coi...
Đứng ở dưới nhìn lên, Thị Thừa vỗ tay khen ngợi. Đưa cho Cảnh cây kèn lá dừa, để Cảnh thổi "tè tè". Tự dưng, phía ngoài đồng trống có mấy tên lính rượt nhau. Nhìn kỹ lại quân ta đang chạy, còn quân Trịnh đuổi theo đâm từ phía sau, Cảnh nhảy xuống kéo Thị Thừa núp ngay vào góc đá...Cả hai chẳng dám nhìn ra, chỉ nghe tiếng hò reo của vài tên lính Trịnh.
Tuy hai bên đánh nhau, nhưng dọc đường ranh thỉnh thoảng có vài tên trao đổi buôn bán qua lại. Mấy tên đang đâm nhau ngoài bãi trống, chẳng qua gây gỗ vì đồng tiền dùng không giống nhau nên chúng gây sự. Nguyễn Hữu Cảnh và Thị Thừa chạy lấp xấp vào nhà và cười, cả hai thở hổn hển:
-  Mệt quá! Mấy chú ấy đâm nhau hoài...Giống mẹ bán rượu, hỏng chịu trả tiền...
 -  Muội ơi! Hay muội nói với thầy của muội, theo nhà ta vào Đàng Trong sinh sống. Theo ta nghĩ, đất Nghệ An này sẽ còn đánh nhau mãi.
Nguyễn Hữu Cảnh mới mười tuổi nhưng linh cảm biết được quân Nguyễn sớm muộn cũng bỏ chiến trường Nghệ An lại. Đào Thừa bảy tuổi, nhưng lồ lộ nét đẹp quyến rũ rồi. Nguyễn Hữu Cảnh hay chơi với con gái, nên hay ở bên Thừa thổ lộ:
-  Thầy mẹ ở quê cha đất tổ thôi à...không đi. Nếu đánh hoài, lớn lên muội trốn vào Nam kiếm ca ca.
Lời trẻ thơ hứa hẹn, thế mà Nguyễn Hữu Cảnh nghe yên tâm. Cảnh hỏi lại:
-  Chắc không? Làm sao muội trốn được...
-  Muội trốn lên rừng, lên thượng nguồn. Muội vượt sông Gianh là gặp thôi...
-  Ờ! Há...muội khôn quá...
Thị Thừa hứa đơn giản có vậy, thế mà Cảnh cũng tin. Nguyễn Hữu Cảnh lúc này bắt đầu có suy nghĩ, nhìn Thị Thừa chúm chím cười thấy thương ơi là thương. Lén nhìn xung quanh không thấy ai, hôn Thị Thừa một cái. Thị Thừa vén tóc qua một bên, tưởng như là cô bé lớn trước tuổi. Tự dưng hỏi ngờ nghệch:
-  Hôn muội chi vậy ca ca...
-  Ờ! Thì...Ca ca thích muội. Thích lắm...
Thị Thừa nghe được thích như là khen, líu tíu cái miệng:
-  Ca ca ơi! Ca ca trong thành làm gì...Ca ca ra ngoài chơi với muội, hoài nha...
-  Ca ở trong thành học hành, khi rảnh ta mới ra ngoài được. Nếu như muội học chữ, ca ca dạy cho...
-  Con gái không học mô, ca ca dạy muội người ta cười cho...
-  Mẹ của ca ca biết nhiều chữ, muội học để đọc sách hiểu nhiều. Sau này có con muội dạy con muội...
-  Vậy thì ca ca dạy muội đi! Muội học để dạy con của ca ca với muội...
Nguyễn Hữu Cảnh mắc cỡ, Thị Thừa vô tư còn bảo là lớn lên sẽ sinh con cho Cảnh bồng, rồi còn dạy võ nghệ. Cả hai lấy lá tre chụm lại làm bút, rồi vẽ ra đất chữ "nhân", chữ "tâm". Bàn tay Thị Thừa rất dễ thương, khi Cảnh cầm để dạy cho Thị Thừa viết theo mình ngắm nghía bàn tay như cố để vào tâm vào trí mình. Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng phân tích tình chiến sự xem chừng Cảnh đã hiêu hiểu phần nào. Chắc có lẽ không lâu, quân Nguyễn không giữ được Nghệ An được nữa. Cảnh chực rơi nước mắt, biết ngày chia tay không xa, không biết chừng nào mới gặp lại.
Cảnh cầm tay Thị Thừa, rồi mang trong túi ra một chiếc vòng tặng cho. Mẹ Thị Thừa cũng thấy, bà tìm cô bé để bưng bê cho mấy tên lính. Bà bán thịt chó, mấy tên lính say sưa càng lúc càng nhiều. Bọn họ chinh chiến lâu ngày rất nhớ về nhà.
Lúc này lương thực đôi khi thiếu thốn, gây xôn xao trong ba quân và có vài người trốn về gây phiền muộn cho Nguyễn Hữu Dật. Tháng 8 năm 1660, quân Trịnh lại đánh Nghi Xuân bị quân Nguyễn đánh bại trận. Hai bên có thắng có thua, giằng co với nhau ở Nghệ An. Chúa Trịnh biết Hữu Lễ thông đồng với quân Nguyễn bèn dụ và giết chết. Ngoài biên cương, Trịnh Căn cũng cầm quân rất nghiêm, xử tử tướng Hoàng Nghĩa Chấn vì đố kỵ không tiếp ứng cho Đào Quang Nhiêu, sau đó lại giết Nguyễn Đức Dương vì lén bán lương thực cho quân Nguyễn.
Tháng 11 năm 1960 chúa Trịnh tăng viện quân cho Trịnh Căn. Trịnh Căn bắt đầu tiến đánh quân Nguyễn hòng chiếm lại đất cũ đã mất. Lê Thì Hiến và Lê Sĩ Triệt đánh chiếm lại huyện Nghi Xuân. Hoàng Nghĩa Giao và Nguyễn Năng Thiệu cũng chiếm lại huyện Thiên Lộc. Nguyễn Hữu Tiến thua trận rút lui nhưng cố tình không báo cho cánh quân của Nguyễn Hữu Dật biết. Nguyễn Hữu Dật bó buộc dùng kế nghi binh rồi tìm cách kéo sang hợp quân với Nguyễn Hữu Tiến. Biết được, Phạm Tất Toàn có ý về Bắc.
Hai tên lính trông coi anh em Nguyễn Hữu lúc còn nhỏ, sang đầu quân cho Nguyễn Hữu Tiến. Biết hai chủ soái thường hay đố kỵ nhau nên thường hay nói xấu nhưng giờ trở lại với chiêu bài hèn hạ. Tướng quân Nguyễn Hữu Dật cho bắt chém để làm gương, nhưng lúc vừa định hạ đao thì lại ra lệnh dừng tay:
- Hai ngươi quay lại thì giết cũng chẳng để làm gì, cứ xem như hai ngươi đã chết trên chiến trường.
Hai tên lính đào tẩu xét ra phải chết, nhưng vì chúng đã quay lại thì nên tha thứ. Chưởng cơ Nguyễn Hữu Dật nhìn thấy thái độ thành thật của hai kẻ đào tẩu, biết chúng ăn năn nghĩa là mưu mô của mình thành công một nửa. Mưu kế của ngài thành bại là nhờ cách đối xử với quân lính chí tình:
- Hai ngươi lại đây.
- Dạ thưa! Tướng công không sợ hai con làm phản...
- Hai người không đủ sức hại ta đâu, cứ lại đây.
Nguyễn Hữu Dật cho người lính hầu lui ra, rồi kéo hai tên lính đào tẩu để xì xào mưu kế. Một lúc thì hai tên kia đã hiểu, rồi cúi lạy mà chào chủ soái của mình.
- Đa tạ tướng công.
- Đứng lên đi! Có điều các ngươi phải lập công chuộc tội.
- Dạ tâu!
- Các ngươi có đồng ý ta không?
- Dạ thưa tướng công! Hai con coi như đã lìa đời, may nhờ tướng công tha mạng. Hai con còn biết sợ gì nữa, mong tướng công bày cho hai con cách lập công chuộc tội.
 - Ta trông chờ ở các ngươi, mau mà thi hành mệnh lệnh.
Mưu kế của Nguyễn Hữu Dật là muốn hai tên lính sang doanh trại quân Nguyễn Hữu Tiến, điều tra Phạm Tất Toàn vì ý muốn đầu hàng quân Trịnh. Các tướng Nguyễn nảy sinh mâu thuẫn, Nguyễn Hữu Tiến và thuộc tướng ghét Nguyễn Hữu Dật vì được chúa Nguyễn tin yêu hơn.
Trịnh Căn nhân cơ hội đó sai người mang vàng đến dụ, Nguyễn Hữu Dật biết đây là kế ly gián cho nên không để mình bị mắc mưu. Phạm Tất Toàn là người thay mặt quân Trịnh chiêu dụ, Nguyễn Hữu Dật muốn chém chết hắn trừ hậu hoạn sau này. Mấy ngày sau, chúa Nguyễn Phúc Tần mang quân tiếp ứng, đóng ở Quảng Bình. Nguyễn Hữu Dật liền tâu trình:
- Kính báo, Phạm Tất Toàn có ý về với quân Trịnh. Hắn ra đã mang vàng của Trịnh Căn, còn muốn thần phản Chúa Công.
Chúa Nguyễn Phúc Tần ban cho Nguyễn Hữu Dật thanh bảo kiếm và sai quay lại đánh tiếp:
-  Ta ban cho ngươi thanh bảo kiếm, thay mặt ta mà diệt trừ hắn.
Nguyễn Hữu Dật đón nhận thanh bảo kiếm, cúi đầu tạ ơn chúa Nguyễn Phúc Tần. Tướng quân cho quân quay lại hợp quân với Nguyễn Hữu Tiến, tiểu trừ gian phản tắc Phạm Tất Toàn, rồi cùng giao tranh ác liệt nhưng cuối cùng bị thiệt hại lớn. Nguyễn Hữu Tiến nghe tin chúa Nguyễn Phúc Tần ban tặng thanh bảo kiếm cho Nguyễn Hữu Dật, liền lấy đó càng tức giận. Nguyễn Hữu Tiến bèn rút lui, chỉ có Nguyễn Hữu Dật xông pha trận mạt và bị thua tan tác.
… Việc ganh ghét của Nguyễn Hữu Tiến còn ảnh hưởng lớn đến chiến trường sau này, việc mất lại Nghệ An được lịch sử ghi nhận là do hai tướng bất hoà. Sự mâu thuẫn chẳng qua là vì Chúa Nguyễn tin yêu Nguyễn Hữu Dật hơn Nguyễn Hữu Tiến.
Quân Trịnh tranh thủ mối bất hoà đó mà tiến công. Nhân lúc quân mới hàng ở Nghệ An bỏ trốn nhiều, tướng sĩ Nguyễn đều ngã lòng, quân Trịnh đánh đuổi gắt về đến Hoành Sơn, Trịnh Căn thúc quân đuổi tới đẩy lùi quân Đàng Trong về lại phía nam sông Gianh.
Một năm sau, tháng 10 năm 1661 Trịnh Tạc mang cả vua Lê Thần Tông và cử Trịnh Căn, Hoàng Thế Thao, Đào Quang Nhiêu, Lê Thì Hiến đánh vượt sang sông Gianh. Nguyễn Hữu Dật ra sức trấn thủ Nam Bố Chính, đẩy lùi hết đợt tấn công này đến đợt tấn khác của quân Trịnh.
Đánh liên tục mấy tháng mà không hạ được thành Nam Bố Chính,
quân Trịnh bắt đầu tỏ rõ sự mệt mỏi, nhất là quân nhu lương thực đã cạn kiệt
Tháng 3 năm 1662, quân Trịnh buộc lòng phải rút về Bắc. Nguyễn Hữu Dật thấy vậy liền đuổi theo, nhưng đến sông Gianh thì dừng lại.