II. VUA GRAFFITI
CHƯƠNG 18

     uổi tối hôm đó, lúc 7 giờ 30 phút, Thompson Boyd vừa hoàn thành việc sơn hình chú gấu hoạt hình lên bức tường trong phòng Lucy. Hắn bước lùi lại và nhìn vào tác phẩm của mình. Hắn đã làm những gì mà quyển sách yêu cầu và khá chắc chắn rằng nó giống một con gấu. Đó là bức tranh đầu tiên hắn vẽ trong đời, ở bên ngoài trường học - đó là lý do tại sao hắn đã vất vả nghiên cứu và tìm tòi trong quyển sách ở căn hộ hắn thuê buổi sớm ngày hôm nay.
Những cô bé có vẻ rất thích nó. Hắn đã nghĩ rằng bản thân mình hẳn phải rất vui với bức tranh. Nhưng hắn không chắc chắn lắm. Hắn nhìn bức vẽ chằm chằm một lúc lâu, đợi chờ cảm giác tự hào. Nhưng hắn không thấy. Chà. Hắn bước vào hành lang, nhìn vào điện thoại của mình. “Có tin nhắn”, hắn nói một cách lơ đãng rồi quay số. “Xin chào, đây là Thompson. Anh thế nào rồi? Thấy cuộc gọi nhỡ của anh.”
Jeanne nhìn hắn rồi quay lại lau khô những chiếc đĩa.
“Đừng đùa chứ?” Thompson cười khúc khích. Với một người đàn ông không cười, hắn nghĩ rằng tiếng cười của mình nghe có vẻ thật. Tất nhiên, hắn đã làm điều đó sáng hôm nay, trong thư viện, cười để khiến cho đứa con gái nhà Settle cảm thấy thoải mái và điều đó lại không thực sự hiệu quả lắm. Hắn tự nhắc nhở mình không được diễn một cách thái quá. “Anh bạn ạ, đó quả là một kẻ lười biếng ăn không ngồi rồi”, hắn nói vào chiếc điện thoại mà không hề thực hiện cuộc gọi nào. “Chắc chắn rồi. Sẽ không mất nhiều thời gian phải không? Sẽ tranh luận ngày mai vậy, ừ, cuộc họp mà chúng ta đã hoãn ấy... Hẹn gặp lúc mười giờ.”
Hắn gập điện thoại và nói với Jeanne. “Vern đang ở chỗ Joey. Cậu ấy đã có một căn hộ.”
Vemon Harber đã từng tồn tại nhưng bây giờ thì không. Thompson đã giết anh ta vài năm trước. Nhưng bởi hắn biết Vem trước khi anh ta chết, Thompson đã biến anh ta thành một người hàng xóm tưởng tượng mà hắn thi thoảng nhìn thấy, một người bạn. Giống như Vem thật sự đã chết, một nhân vật hư cấu có thật lái chiếc Supra, có một người bạn gái tên là Renee và kể vô số những câu chuyện cười về cuộc sống trên những bến tàu, trong cửa hàng bán thịt lợn và ở khu vực quanh nhà anh ta. Thompson biết rất nhiều về Vem và hắn ghi nhớ mọi chỉ tiết trong đầu. (Hắn biết, khi ta nói dối, hãy nói dối thật rõ ràng, hồ hởi và cụ thể.)
“Anh ta lái chiếc Supra của mình lên một cái vỏ chai bia.”
“Anh ấy không sao chứ?”, Jeanne hỏi.
“Anh ta chỉ đang cố đậu xe thôi. Cái gã lơ đễnh không thể tháo được những con ốc ra một mình ý chứ.”
Sống và chết, Vem Harber là một kẻ lười biếng chẳng biết làm gì.
Thompson lấy chiếc bàn chải sơn và chiếc giỏ đựng bìa các tông vào phòng giặt và đặt chúng dưới bồn rửa mặt, vặn nước để nhúng cái bàn chải. Hắn khoác chiếc áo ngoài vào.
Jeanne hỏi: “À, anh có thể mua một ít sữa giảm béo 2% trên đường vềkhông?”.
“Một phần tư gallon hả?”
“Thế là đù rồi.”
“Và kẹo roll-ups nữa!” Lucy gọi với theo.
“Vị gì đây?”
“Nho.”
“Được rồi. Brit?”
“Sơ ri!”, cô bé nói rồi nhớ ra là phải thêm vào: “Đi mà!”.
“Nho, sơ ri và sữa.” Hắn chỉ vào từng người, theo yêu cầu của họ.
Thompson ra ngoài, bắt đầu bước đi trên con đường quanh co xuôi xuống những con phố ở Queens, thi thoảng quay lại nhìn để bảo đàm rằng không có ai theo dõi. Hít bầu không khí lành lạnh vào phổi, nhả ra luồng không khí ấm hơn và với những nốt nhạc nhẹ nhàng: bài hát của Celine Dion trong phim Titanic.
Gã sát thủ đã để mắt tới Jeaime khi nói vói cô rằng mình sẽ đi ra ngoài. Hắn đã nhận thấy sự quan tâm của cô với Vern có vẻ là thật và rằng cô ấy không phải là người ít đa nghi nhất, dù sự thật là hắn đang đi gặp một người đàn ông mà cô ấy chưa bao giờ gặp. Nhưng đó là một điều riêng biệt. Đêm nay, hắn đang giúp đỡ một người bạn. Đôi khi hắn nói mình muốn đặt cược một ván ngoài trường đua ngựa. Hoặc là tới gặp vài người bạn ở chỗ của Joey và làm gì đó. Những lời nói dối của hắn thay đổi liên tục.
Người phụ nữ da ngăm đen với mái tóc xoăn không bao giờ hỏi nhiều về việc hắn đi đâu, hay về công việc của một thương nhân giả mạo buôn bán linh kiện máy tính mà hắn vẫn nói rằng mình đang làm, công việc đòi hỏi phải vắng nhà thường xuyên. Không bao giờ hỏi kỹ về việc tại sao công việc của hắn lại bí mật đến mức phải luôn khóa cửa trụ sở văn phòng. Cô khôn khéo và rất thông minh, hai điều rất khác nhau, và hầu hết những người phụ nữ như vậy đều khăng khăng đòi can dự nhiều hơn vào cuộc sống của người đàn ông của mình. Nhưng Jeanne Starkle thì hoàn toàn khác.
Hắn đã gặp cô ở một quầy bán đồ ăn trưa ở Astoria một vài năm trước sau khi hắn lẩn tránh vụ giết một tay buôn bán thuốc phiện ở Newark mà hắn được thuê giết. Ngồi bên cạnh Jeanne ở quầy bán đồ ăn Hy Lạp, hắn đã hỏi cô lọ xốt cà chua và rồi xin lỗi, nhận ra rằng cô đang có một cánh tay bị gãy và không với được nó. Hắn hỏi xem cô có ổn không và điều gì đã xảy ra? Cô đã đánh lạc hướng câu hỏi, dù những giọt nước mắt đang đong đầy trong đôi mắt. Họ đã tiếp tục chuyện trò.
Họ nhanh chóng hẹn hò. Sự thật về cánh tay bị gãy cuối cùng cũng hé lộ và một ngày cuối tuần Thompson đến gặp gã chồng cũ của cô. Sau đó, Jeanne nói với hắn rằng một phép màu đã xảy ra: chồng cô ta đã rời khỏi thị trấn và thậm chí không gọi lũ trẻ một lần nào nữa, chuyện gã đã từng làm một tuần một lần, trong tình trạng say khướt rồi nổi xung với lũ trẻ vì mẹ của chúng.
Một tháng sau, Thompson chuyển đến sống với cô và lũ trẻ.
Có vẻ như, đó là một sự sắp đặt tốt cho Jeanne và những đứa con gái của cô. Một người đàn ông không la hét hay sử dụng thắt lưng để đánh đập ai, trả tiền thuê nhà và có mặt mỗi khi anh ta nói có thể - tại sao, họ cảm thấy anh là một tài sản tuyệt vời nhất trên thế gian. (Những năm tháng trong tù đã dạy Thompson một bài học tuyệt vời về việc đặt những chuẩn mực thấp hơn).
Một sự sắp đặt tốt cho họ, và tốt cho cả một sát thủ chuyên nghiệp nữa: Bất cứ ai trong công việc của hắn mà có vợ hay bạn gái và lũ trẻ sẽ ít bị nghi ngờ hơn so với một kẻ sống một mình.
Nhưng có một lý do khác mà hắn ở với cô, quan trọng hơn cà một hậu phương và sự thuận lợi.
Thompson Boyd đang chờ đợi. Có một điều gì đó đã lạc mất khỏi cuộc sống của hắn một thời gian dài và hắn đang chờ đợi sự trở lại của nó. Hắn tin rằng một ai đó giống như Jeanne Starkle, một người phụ nữ với những đòi hỏi không quá lớn lao và với những mong ước bình dị, có thể giúp hắn tìm ra điều đó.
Và cái điều lạc mất đó là gì? Đơn giản: Thompson Boyd đang chờ đợi sự vô cảm biến mất và những cảm giác trong tâm hồn hắn quay trở lại, theo cái cách mà bàn chân của ta quay lại với cuộc sống sau khi mệt mỏi.
Thompson có rất nhiều hồi tưởng về tuổi thơ của mình ở Texas, hình ảnh cha mẹ và người dì Sandra, anh chị em họ, bạn bè ở trường. Xem những trận đấu A&M Texas trên ti vi, ngồi quanh chiếc đàn organ điện của Sears, Thompson nhấn phím trong khi dì hoặc cha hắn chơi những bản nhạc với tất cả khả năng của mình với những ngón tay mập mạp ngắn ngủn (đó quà thực là gen của nhà hắn). Hát vang bài Onward Christian Soldiers, Tie a yellow ribbon và nhạc nền bộ phimThe Green Berets. Chơi trò Hearts frên máy tính. Học cách sử dụng những dụng cụ với người cha trong nhà kho ngăn nắp một cách hoàn hảo. Bước đi bên cạnh người đàn ông to lớn trên sa mạc, kinh ngạc trước hoàng hôn, những thảm dung nham, những con chó sói, những con rắn đuôi chuông trườn như những nốt nhạc nhưng có thể cắn ta chết chì trong tíc tắc.
Hắn nhớ về người mẹ mộ đạo của mình, gói ghém những chiếc bánh sandwich, tắm nắng, quét đi lớp bụi của Texas khòi cửa chiếc xe moóc và ngồi trong những chiếc ghế nhôm với những người bạn của bà. Hắn nhớ về người cha mộ đạo của mình, sưu tập những chiếc đĩa than, dành những ngày thứ Bảy với con trai và những ngày trong tuần với công việc liều lĩnh trên những chiếc cần cẩu. Hắn nhớ về những buổi tối thứ Sáu tuyệt vời, đi tới tiệm cà phê Goldenlight trên đường 66 để ăn bánh kẹp Harley và khoai tây chiên, thưởng thức nhạc xuynh[38] Texas xập xình qua những chiếc loa.
[38] Một loại nhạc jazz êm dịu nhún nhẩy vào những năm 30.
Thompson Boyd vẫn chưa hề vô cảm.
Ngay cả khi trải qua quãng thời gian khó khăn sau khi một cơn bão tháng Sáu cuốn đi chiếc xe - nhà của họ - và lấy mất cánh tay phải của mẹ hắn, đồng thời cũng gần như cà cuộc sống của bà, thậm chí cả khi cha hắn mất việc trong thời kỳ giảm biên chế, nó quét sạch cả một phần phía trên của Texas như một trận bão cát Oklahoma, Thompson không hề vô cảm.
Hắn chắc chắn không hề vô cảm khi nhìn mẹ mình thở dốc và kiềm chế những giọt nước mắt trên những con phố của Amarillo sau khi một đứa nhóc gọi mẹ hắn là “đồ cụt tay” và Thompson đã đi theo, đồng thời bảo đảm rằng thằng nhóc sẽ không bao giờ trêu chọc một ai nữa.
Nhưng rồi sau đó là những năm tháng tù tội. Và đâu đó trong những căn phòng đầy mùi nước rửa Lysol, sự vô cảm đã bò lên trên cảm xúc và khiến nó ngủ yên. Những cảm xúc ngủ say đến nỗi hắn thậm chí không cảm thấy một tiếng bíp khi biết tin rằng một tài xế trên cabin của chiếc Peterbilt ngủ gật đã giết chết cha mẹ và dì của hắn cùng lúc, thứ duy nhất còn lại là bộ hộp đánh giày hắn làm cho cha mình trong sinh nhật lần thứ bốn mươi của ông. Những cảm xúc ngủ sâu đến nỗi sau khi hắn được thả ra và truy lùng người bảo vệ Charlie Tucker, Thompson Boyd chẳng cảm thấy gì khi hắn nhìn người đàn ông chết một cách từ từ, khuôn mặt tím tái từ sợi thòng lọng, chiến đấu một cách tuyệt vọng để tóm lấy sợi dây và nhấc chính mình lên để ngăn cơn nghẹt thở. Mà ta không thể làm được điều đó, dù cho có mạnh mẽ đến đâu.
Vô cảm, khi hắn nhìn xác của người bảo vệ đu đưa, quằn quại một cách từ từ đến chết. Vô cảm, khi hắn đặt những ngọn nến trên mặt đất dưới chân Tucker để khiến cho vụ giết người trông giống như kiểu tâm linh, ma quỷ và ngước nhìn vào đôi mắt vô hồn của người đàn ông.
Vô cảm...
Nhưng Thompson tin rằng hắn có thể sửa chữa chính mình, cũng giống như sửa chiếc cửa buồng tắm và cái tay vịn cầu thang lỏng lẻo ở ngôi nhà gỗ. (Cả hai đều là công việc, điểm khác biệt duy nhất là nơi ta đặt dấu thập phân hay ta có biểt làm hay không mà thôi.) Jeanne và lũ trẻ có thể sẽ mang những cảm xúc quay trở lại. Tất cả những gì hắn phải làm là thực hiện theo mà thôi. Làm những gì mà người khác làm, những người bình thường, những người không hề lạnh lùng vô cảm: Sơn phòng của lũ trẻ, xem Quan tòa Judy với chúng, đi picnic ở công viên. Mang cho chúng những gì chúng muốn. Nho, sơ ri, sữa. Nho, sơ ri, sữa. Thử thốt ra những câu chửi thề, mẹ kiếp, khốn kiếp... Bởi đó là những gì mà người ta nói khi họ tức giận. Và những người tức giận thì có cảm xúc.
Đó cũng là lý do vì sao hắn hay huýt sáo - hắn tin rằng âm nhạc có thể đưa hắn trở lại những ngày xa xưa ấy, trước khi hắn vào tù. Những người yêu thích âm nhạc thì không hề vô cảm. Những người hay huýt sáo có cảm xúc, họ có gia đình, có thể làm những người lạ phải ngoái đầu với một nốt nhạc luyến hay. Họ là những người mà ta có thể dừng lại trên một góc phố và nói chuyện, những người mà ta có thể mời một miếng khoai tây chiên, ngay trên đĩa bánh kẹp Harley, với những tiếng nhạc xập xình từ căn phòng bên cạnh, chẳng phải họ cũng là nhạc sĩ sao? Như thế thì thế nào?
Làm theo quyển sách và sự vô cảm sẽ biến mất. Cảm xúc sẽ quay trở về.
Hắn tự hỏi, liệu nó có hiệu quả không, chế độ mà hắn sắp đặt cho mình để lấy lại cảm xúc trong tâm hồn? Tiếng sáo, gợi lên trong ký ức những điều mà hắn cảm thấy rằng mình nên nhớ lại, nho và sơ ri, câu chửi thề, cười? Có thể là một ít, hắn tin thế. Hắn nhớ lại khi nhìn người đàn bà trong bộ đồ màu trắng sáng ngày hôm đó, đi đi lại lại, đi đi lại lại... Hắn có thể thành thật nói rằng hắn đã thích thú được nhìn cô ta làm việc. Một niềm vui nho nhỏ, nhưng đó là một cảm xúc. Khá tốt.
Đợi đã: “Chết tiệt, khá là tốt”, hắn thì thầm.
Đó, một câu chửi thề.
Có thể hắn sẽ thử với tình dục thêm xem sao (thường là một lần một tháng, vào buổi sáng, hắn có thể sắp xếp, nhưng sự thật là hắn không muốn - nếu như cảm xúc không có, thì ngay cả Viagra cũng không thực sự hiệu quả). Giờ hắn đang bị giằng xé. Ừ, đó là những gì hắn đã làm - dành ra một vài ngày và làm chuyện đó với Jeanne. Suy nghĩ này khiến hắn cảm thấy không thoải mái. Nhưng có thể hắn sẽ nỗ lực, tập trung vào việc đó. Đó có thể là một bài kiểm tra tốt. Chà, hắn nên thử và xem liệu mình đã cài thiện được chút nào.
Nho, sơ ri, sữa...
Thompson dừng lại bên một buồng điện thoại công cộng ở trước một quán ăn Hy Lạp. Hắn quay số hộp thư thoại một lần nữa và nhấn mật mã. Lắng nghe một tin nhắn mới báo rằng gần như đã có cơ hội để giết Geneva Settle ở trường nhưng quá nhiều cảnh sát dõi theo bảo vệ cô bé. Tin nhắn tiếp tục, cho hắn địa chỉ, nằm trên phố 118 và báo rằng có ít nhất một xe cảnh sát và một xe tuần tra đậu gần đó, thi thoảng thay đổi vị trí. Số lượng cảnh sát bảo vệ cô bé khoảng một đến ba người.
Thompson ghi nhớ địa chỉ và xóa tin nhắn rồi tiếp tục hành trình phức tạp của mình tới tòa nhà sáu tầng còn xơ xác hơn nhiều căn nhà của Jeanne. Hắn đi vòng ra đằng sau và mở cánh cửa sau đó mới bước lên những bậc thang tới căn phòng là nơi ẩn náu chính. Hắn bước vào trong, khóa cửa rồi tắt hệ thống an ninh ngăn những kẻ xâm nhập mà hắn đã thiết lập.
Nơi này đẹp hơn một chút so với căn hộ trên phố Elizabeth. Nó được che phủ, bảo vệ bởi một tấm biển quảng cáo màu vàng được gắn chặt bằng đinh và được tô điểm bởi một tấm thảm sợi dày màu nâu và có mùi của một tấm thảm sợi dày màu nâu tỏa ra. Có nửa tá những đồ đạc nội thất. Nơi này gợi lại trong ký ức Thompson về căn phòng giải trí mà hắn và cha dùng nhiều ngày cuối tuần để xây dựng căn nhà gỗ ở Amarillo, thay thế cho cái xe moóc đã bị cơn bão cuốn mất.
Từ một cái ngăn kéo đựng đồ lớn, hắn cẩn thận rút ra một vài cái lọ và mang chúng lên bàn làm việc, miệng huýt sáo bài hát nhạc nền trong bộ phimPocohantas. Lũ trẻ rất thích bộ phim này. Hắn mở hộp dụng cụ, đeo đôi găng tay cao su dày, mặt nạ, đôi kính bảo vệ mắt và lắp ráp thiết bị sẽ giết Geneva Settle ngày mai - và bất cứ ai gần cô nữa.
Wssst...
Giai điệu trở thành tiếng gì đó: Không còn là bài hát của Disney. Bài Forever Young của Bob Dylan.
Khi đã hoàn thiện thiết bị, hắn kiểm tra nó thật kỹ càng và cảm thấy khá hài lòng. Hắn cất mọi thứ đi rồi bước vào phòng tắm, tháo găng và rửa tay ba lần. Tiếng sáo lặng dần khi hắn bắt đầu nhớ lại trong đầu câu thần chú của ngày hôm nay.
Nho, sơ ri và sữa... Nho, sơ ri và sữa.
Hắn chưa bao giờ ngừng sẵn sàng cho cái ngày sự vô cảm sẽ biến mất.
“Cháu thế nào rồi?”
“Ổn mà, chú thanh tra.”
Thanh tra Bell đứng trên thềm cửa phòng cô bé và nhìn vào giường, nơi ngập đầy sách vở và giấy.
“Cháu cần phải nói là chú đã làm việc thật vất vả.” Geneva nhún vai.
“Chú sẽ về nhà gặp các con trai của mình bây giờ.”
“Chú có con trai?”
“Ừ. Có hai cậu con trai. Có thể cháu sẽ gặp chúng một ngày nào đó. Nếu cháu muốn.”
“Chắc chắn rồi”, cô nói nhưng lại nghĩ: Điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. “Các bạn ấy ở nhà với vợ chú à?” “Chúng đang ở nhà ông bà lúc này. Chú đã từng kết hôn nhưng cô ấy đã mất rồi.”
Những lời này chạm vào trái tim của Geneva. Cô có thể cảm thấy một nỗi đau ẩn sau chúng - theo cách thật kỳ lạ rằng, thái độ của chú ấy không hề thay đổi khi thốt ra. Giống như đã tập để nói với mọi người điều đó mà không bật khóc. “Cháu rất tiếc.”
“À, đó là chuyện vài năm trước rồi.”
Cô bé gật đầu. “Chú Pulaski đâu rồi ạ?”
“Cậu ẩy về nhà rồi. Cậu ẩy có một đứa con gái. Và vợ cậu ấy đang mang bầu một em bé nữa.”
“Bé trai hay bé gái ạ?”, Geneva hỏi.
“Thật lòng chú không thể nói với cháu được. Cậu ấy sẽ quay lại sớm vào ngày mai. Chúng ta có thể hỏi cậu ấy sau. Bác của cháu đang ở phòng bên cạnh và cô Lynch sẽ ở đây đêm nay.”
“Barbe?”
“Đúng vậy.”
“Cô ấy rất tốt bụng. Cô ấy kể cho chú nghe về những con chó mà cô ấy nuôi. Và về một vài chương trình ti vi mới nữa.” Geneva hất đầu về phía những quyển sách của mình. “Cháu không có nhiều thời gian để xem ti vi.”
Thanh tra Bell cười. “Các cậu con trai của chú có thể lây một chút ảnh hưởng từ cháu. Chú nghĩ mấy đứa hẳn sẽ rất hợp nhau đấy. Giờ thì cháu thử gọi Barbe xem, viện bất cứ lý do nào cháu muốn.” Anh ngập ngừng. “Ngay cả khi cháu có một giấc mơ tồi tệ. Chú biết đôi khi nó rất khó khăn, bố mẹ cháu không ở nhà.”
“Cháu vẫn ổn lúc một mình mà”, cô nói.
“Chú không nghi ngờ điều đó. Chỉ là, kêu lên nếu cháu cần. Đó là lý do chúng ta ở đây.” Anh bước về phía cửa sổ, hé nhìn qua tấm rèm cửa, bảo đảm rằng cửa sổ đã được khóa và thả những thanh rèm xuống. “Chúc ngủ ngon. Cháu đừng lo lắng. Tự tay chúng ta sẽ bắt hắn. Chỉ là vấn đề thời gian thôi. Không có ai giỏi hơn Rhyme và những người đang làm việc với chú ấy đâu.”
“Chúc ngủ ngon.” Cô bé vui mừng vì anh đã đi khỏi. Có thể ý của anh là tốt nhưng Geneva ghét bị coi như là trẻ con cũng như khi bị nhắc đến tình hình tồi tệ này. Cô dọn dẹp đống sách vở khỏi giường và chồng chúng lên một cách ngăn nắp cạnh cửa để nếu như phải rời đi thật nhanh thì cô có thể tìm trong bóng tối và mang chúng theo. Cô vẫn làm thế hằng đêm.
Cô mò trong túi mình và tìm thấy bông hoa vilolet khô mà nhà ảo thuật gia, Kara, đã đưa. Cô nhìn nó một lúc lâu rồi cất nó cẩn thận vào quyển sách đầu tiên trên chồng và gấp bìa lại.
Nhanh chóng đi vào phòng tắm, Geneva lau sạch cái bồn rửa mặt màu ngọc trai sau khi rửa ráy và đánh răng. Cô tự cười chính mình, nghĩ tới đống lộn xộn khủng khiếp trong nhà vệ sinh của Keesh. ở hành lang, Barbe Lynch chúc cô ngủ ngon. Quay trở vào phòng ngủ, Geneva khóa cửa, do dự rồi cảm thấy ngớ ngẩn, đặt cái ghế nghiêng dựa vào núm cửa. Cô cởi quần áo, mặc quần đùi và một chiếc áo phông đã phai màu rồi trở vào giường. Tắt đèn đi và nằm ngửa, lo lắng và điên cuồng, trong hai mươi phút đồng hồ, nghĩ về mẹ, rồi bố và, Keesh.
Hình ảnh của Kevin Cheany xen vào; cô đẩy nó biến mất một cách đầy giận dữ.
Rồi dòng suy tư của cô dừng lại ở ông tổ Charles Singleton.
Chạy, chạy, chạy...
Nhảy xuống dòng sông Hudson.
Nghĩ về bí mật của ông ấy. Điều gì mà quan trọng đến mức ông đánh liều tất cả mọi thứ để bảo vệ nó?
Nghĩ về tình yêu ông dành cho vợ và con trai.
Nhưng cả cái gã khủng khiếp ở thư viện sáng nay cũng chen vào trong tâm trí của cô. À, cô nói lớn trước mặt cảnh sát. Nhưng tất nhiên là cô đã rất sợ hãi. Cái mũ trùm trượt tuyết, tiếng động khi cây gập đập trúng ma nơ canh, tiếng chân hắn dồn đuổi phía sau. Và giờ thì là một gã khác nữa, gã da đen ở sân trường với khẩu súng.
Những ký ức này nhanh chóng giết chết cơn buồn ngủ.
Cô mở mắt và nằm yên thao thức, cảm thấy mỏi mệt, nghĩ về một đêm không ngủ khác cách đây nhiều năm rồi: Khi đó Geneva mới bảy tuổi, bò ra khỏi giường và lang thang vào phòng khách trong căn nhà. Cô bé bật ti vi và xem vài chương trình hài kịch tình huống ngu ngốc khoảng mười phút trước khi cha cô bước vào phòng.
“Con đang làm gì ở đây vậy, xem cái đó à?” ông chớp chớp mắt dưới ánh sáng.
“Con không ngủ được.”
“Hãy đọc một quyển sách. Như vậy tốt hơn cho con.”
“Con không cảm thấy thích đọc sách lắm.”
“Được rồi. Vậy thì cha sẽ đọc.” ông bước tới kệ sách. “Con sẽ thích cuốn này. Một trong những quyển sách hay nhất từng có.”
Khi ngồi xuống chiếc ghế, nó kêu cót két và rít lên dưới sức nặng của ông, cô nhìn vào quyển sách nhưng không thể thấy được bìa.
“Con cảm thấy thoải mái chứ?”, ông hỏi.
“Vâng!” Cô đang nằm duỗi ra trên chiếc ghế dài.
“Hãy nhắm mắt lại.”
“Con không buồn ngủ.”
“Nhắm mắt và hãy tưởng tượng những gì ta đang đọc.”
“Được rồi. Đó là...”
“Im lặng nào.”
“Được rồi.”
Ông bắt đầu với quyển Giết con chim nhại. Trong tuần tiếp theo, việc ông đọc sách cho cô bé trước khi đi ngủ đã trở thành một thói quen.
Geneva Settle quyết định rằng đó là một trong những quyển sách hay nhất mình từng có - và thậm chí ở cái tuổi ấy, cô đã đọc, hoặc đứng hơn là đã nghe, rất nhiều sách. Cô yêu thích các nhân vật chính - một người đàn ông góa vợ bình thản, mạnh mẽ; người anh trai và người em gái (Geneva luôn khao khát có được một người anh chị em). Và bản thân câu chuyện, lòng dũng cảm được che đậy bằng lòng thù hận và sự ngu ngốc, làm ta phải mê muội.
Ký ức về cuốn sách của Harper Lee vẫn ở lại với cô. Và buồn cười là, khi quay lại và đọc nó lúc mười một tuổi, cô còn học được nhiều hơn lúc đó. Rồi khi mười bốn tuổi, cô thậm chí còn hiểu ra nhiều điều hơn nữa. Cô mới đọc lại năm ngoái và viết một bài luận về nó cho môn tiếng Anh. Và cô được điểm A+.
Giết con chim nhại là một trong những cuốn sách đang nằm trong cái chồng đặt cạnh cửa phòng ngủ lúc này, cái chồng “chộp lấy mang theo trong trường hợp khẩn cấp”. Đó là một quyên sách mà cô luôn muôn được mang theo trong túi xách của mình, ngay cả khi không đọc nó. Đó cũng chính là quyển sách mà cô đã nhét đóa hoa may mắn của Kara vào trong.
Dù vậy, đêm hôm nay, cô chọn một quyển sách khác từ trong đống sách. Một cuốn của Charles Dicken. Oliver Twist. Cô nằm ngửa, đặt quyển sách lên ngực mình và mở nó ra tới cái trang được đánh dấu bằng cái ống hút dẹp lép (cô không bao giờ gập một trang sách nào lại trong bất cứ quyển sách nào, ngay cả khi đó là một trang bìa mềm). Geneva bắt đầu đọc. Lúc đầu, tiếng cọt kẹt của ngôi nhà khiến cô sợ hãi và hình ảnh của gã đàn ông với chiếc mũ trùm trở lại, nhưng cô nhanh chóng chìm đắm vào câu chuyện. Và không lâu sau đó, khoảng một tiếng đồng hồ, đôi mắt của Geneva Settle trở nên nặng trĩu và cô cuối cùng đã hoàn toàn chìm vào giấc ngủ - không phải bằng một nụ hôn chúc ngủ ngon của mẹ, hay tiếng cha thâm trầm đọc lời cầu nguyện, mà bằng những lời văn đẹp đẽ của một người lạ.